• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 19

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • Sau

3Phá khóa

K

hi tôi đi bộ từ bến xe buýt về tới nhà thì đã gần năm giờ chiều. Tôi tự lấy chìa khóa của mình mở cửa.

Sophie đang ngủ say trên tấm thảm - hoặc, ít ra thì trông con bé có vẻ như đang say ngủ. Mẹ tôi thì ngồi bên bàn bếp, lưng quay về phía cửa.

“Con về rồi đây”, tôi nói, giọng ngân nga như hát. Như Ricky Ricardo gọi Lucy khi ông ấy trở về từ quán rượu.

Không có gì hết. Chẳng ai nhúc nhích. Cũng chẳng ai đáp lại lời tôi.

Tôi phải thừa nhận rằng không khí lạnh nhạt đó thực sự làm tôi nản lòng. Tôi biết mẹ sẽ giận, nhưng tôi cứ nghĩ mẹ sẽ thịnh nộ quát tháo đủ kiểu vào mặt tôi cơ. Tôi không nghĩ là mẹ lại không phải ứng gì như thế.

Sau đó tôi nhìn thấy những thứ mẹ đặt trên mặt bàn. Nhưng tôi vẫn hy vọng mình nhìn nhầm, vì khi đó tôi chưa muốn đến chỗ mẹ, nên vẫn đứng ở cửa ra vào.

Tôi tiến lại gần. Và trên bàn đúng là những thứ tôi không hề muốn thấy. Ví tiền, đồng hồ, và nhẫn cưới của ba tôi đều được xếp ngay ngắn trên mặt bàn, trước mặt người mẹ lặng im như phỗng của tôi.

“Mẹ mở rương của con à? Đấy là thứ riêng tư duy nhất con có mà.”

“Mẹ không nghĩ đó là vấn đề lớn nhất ở đây đâu, nhóc ạ.” “Con mang chìa khóa đi mà. Mẹ mở rương kiểu gì thế?

Mẹ phá khóa rồi à?”

Mẹ nói gì đó, nhưng tôi chẳng còn đủ tâm trí mà nghe mẹ nói nữa. Tôi vội chạy đến đầu kia căn phòng, phía sau tấm vách ngăn. Chiếc rương kim loại được đặt ngay trên giường tôi, và nắp rương mở toang. Nếu Sophie nhìn thấy, thì có khi con bé đã xé nát cuốn sách về dãy Himalaya của tôi rồi. Tôi kiểm đồ thật nhanh để chắc chắn mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Những thứ không được đặt trước mặt mẹ trên mặt bàn bếp ấy.

Hình như mọi thứ vẫn còn nguyên. Nhưng tôi lại nghĩ tới bức thư của Nellie. Thế là tôi lo đến không thở được, cho đến khi tôi sực nhớ ra mình đã mang bức thư theo. Ít ra tôi nghĩ mình đã làm vậy. Tôi lục mấy túi quần, túi áo, và cả túi ba-lô, cho đến khi chạm tay được vào bức thư thì tôi mới thở phào được.

Tôi đóng nắp rương lại và nhìn kĩ ổ khóa. Đúng là mẹ đã phá khóa thật.

Tôi lại ló đầu ra ngoài tấm vách ngăn.

“Hay lắm”, tôi nói. “Giờ con chẳng còn chỗ nào an toàn trong cái nhà này để cất giữ đồ đạc nữa.”

“Mẹ không để con biến mẹ thành kẻ xấu đâu nhé”, mẹ nói. Mẹ vẫn ngồi đó, bình thản lạ thường. “Mẹ muốn biết con đi đâu.”

Tôi thả ba-lô lên tấm thảm, rồi nhét bức thư vào túi quần bò, sau đó mới tới ngồi với mẹ bên bàn bếp. Bây giờ tôi mới thấm mệt.

“Vâng, thì con cũng không định nói với mẹ. Vì con không thể nói được. Chuyện này có liên quan đến bí mật của người khác nữa. Con chỉ có thể kể cho mẹ là con đã đi giúp người khác một việc thôi.”

“Nhưng mà ở đâu cơ? Chính xác là ở địa điểm nào? “Con về nhà.”

“Nơi đó không tốt đối với một đứa nhóc như con đâu.” “Khi chúng ta còn ở thị trấn đó, con còn nhỏ tuổi hơn bây giờ nhiều, thế mà con vẫn sống sót đến tận giờ đó thôi?

Sao mẹ lại phá khóa rương của con? Làm sao con gắn nó lại được bây giờ.”

“Mẹ muốn tìm manh mối xem con có thể đi tới những nơi nào. Mẹ cũng nghĩ con có một vài bí mật. Mẹ cứ tưởng con trốn nhà với cậu trai… hoặc… một người nào đó… và có thể mẹ sẽ tìm thấy con.”

“Con để lại lời nhắn cho mẹ, rằng hôm nay con sẽ quay lại. Mẹ thấy như thế có giống trốn nhà không? Và không có… ai cả. Con không hẹn hò với ai hết.”

Mẹ hất cằm về những đồ vật trên bàn.

“Thế sao những thứ kia lại nằm trong rương của con?” “Con có câu hỏi này hay hơn này. Sao mấy thứ đó lại ở trong nhà mình? Hồi trước mẹ kể với con là chúng bị cướp rồi cơ mà?”

“Con lại định vặn vẹo rồi lại đổ lỗi cho mẹ đấy à. Tại sao mấy thứ đồ đó lại nằm trong rương của con?”

Tôi ngồi xuống ghế. Hai tay khoanh trước ngực. Giờ thì tôi bực mình thật. Nhưng sự tức giận khi ấy lại khiến tôi điềm tĩnh và lạnh lùng hơn bao giờ hết.

“Con cố tình để vào đó.” “Tại sao?”

“Con muốn biết đến bao giờ mẹ mới nhận ra chúng bị mất. Và khi ấy mẹ sẽ biết rằng con đã nhận ra. Rằng con biết thừa những điều mẹ kể về ba là dối trá. Sau đó mẹ sẽ phải giải thích cho con lí do những thứ mẹ nói đã biến mất đêm đó lại ở trong nhà chúng ta, và chính xác thì ba đã gặp chuyện gì. Con không ăn trộm mấy thứ đồ đó. Giờ mẹ muốn lấy lại ư? Được thôi. Mẹ lấy đi. Nhưng mẹ hãy kể con nghe chuyện đáng lẽ con nên biết từ lâu lắm rồi ấy.”

“Đó là một vụ cướp.” Tuy nhiên mẹ đã chuyển từ lạnh lùng, băng giá sang thế phòng ngự và đầy lo âu.

“Nhưng không có gì bị lấy đi cả.” “Cướp tài sản có chủ đích.”

“Mẹ ơi. Mẹ chỉ cần gõ tên ba vào công cụ tìm kiếm, và một đống bài báo về ba sẽ hiện ra mà.

Tôi cứ nghĩ mẹ sẽ nói gì đó. Có thể không hẳn là một câu gì đó thật. Nhưng tôi nghĩ mẹ sẽ thốt lên “Ồ”. Hay “Khỉ thật”. Hay đại loại thế.

Nhưng mẹ chẳng nói gì cả.

“Thế cái chết của ba có liên quan đến cờ bạc không ạ?”

“Có.”

“Đáng lẽ mẹ nên kể cho con.” “Lúc đó con mới sáu tuổi mà.”

“Vậy nên mẹ nói với con là ba chỉ đi làm việc riêng. Mẹ làm con tưởng chỉ cần bước ra đường là bị người ta giết chết ấy. Cho dù nạn nhân không làm chuyện gì sai trái.”

“Ừ thì… cũng có trường hợp đó mà.”

“Nhưng một đứa sáu tuổi thì sợ gì nhất chứ? Con thà biết ba đã làm gì mà phải chết như vậy còn hơn. Để con còn biết mà tránh chứ. Thay vào đó, mẹ lại khiến con tin rằng thế giới này không chỉ bạo lực, mà còn hoàn toàn ngẫu nhiên nữa.”

“Đúng vậy mà”, mẹ đáp.

Tôi đẩy ghế ra sau. Tiếng chân ghế rít lên khiến mẹ tôi giật mình thon thót. Tôi đứng bật dậy.

“Nói chuyện thế này chẳng có ích gì cả.”

Tôi quay lại giường mình và bê chiếc rương bị phá khóa lên. Tôi đi được nửa đường đến cửa thì mẹ định ngăn tôi lại.

“Con không được bước ra ngoài cánh cửa đó.”

Đầu tiên tôi định cứ thế đi thẳng, nhưng thay vào đó tôi lại dừng chân và thách thức mẹ.

“Nếu không thì…?”

“Để mẹ nói cho con nghe nhé. Kể từ giờ, con không được bước ra ngoài cánh cửa đó, trừ khi mẹ biết con định đi đâu. Hoặc con có thể từ bỏ mọi quyền lợi con có trong cái nhà này. Mẹ là mẹ con, còn con là con gái mẹ.”

“Thật á? Từ bao giờ vậy?”

“Cẩn thận lời nói của con đi, nhóc. Cẩn thận đấy. Con vẫn đang sống trong nhà của mẹ đấy.”

Tôi đặt chiếc rương xuống.

“Nhà của mẹ á? Sao mẹ lại nghĩ thế? Mẹ đã làm gì mà được sống ở nơi này vậy? Đây không phải nhà của mẹ, đây là nhà của ông Paul, và nếu không phải vì con thì mẹ chẳng được sống ở đây đâu ạ. Nhờ có con đấy, mẹ ạ. Giờ để con nói mẹ nghe nhé. Nếu mẹ còn xâm phạm đời tư của con nữa, thì con sẽ bỏ nhà đi. Con đủ tuổi vị thành niên để tự lập rồi. Con sẽ kiếm việc làm, tự lo cho bản thân và thuê nơi khác ở, miễn là con được tùy ý sử dụng tài sản của mình.”

Sau đó tôi lại nhấc chiếc rương lên rồi ra khỏi phòng. Hành động ấy không được duyên dáng hay tao nhã cho lắm, vì tôi phải ghé chiếc rương lên tay vịn đầu cầu thang để quay người đóng cửa. Nhưng mẹ chẳng nói thêm lời nào, hay cố gắng thử ngăn tôi lần nữa.

Nhưng tôi nghĩ có thể mẹ sẽ nói gì đó khi tôi trở lại.

Tôi kéo chiếc rương lên nhà ông Paul qua lối cầu thang đằng sau rồi gõ cửa.

“Angie đấy à?” Ông nói vọng ra từ trong nhà. “Vâng, ông Paul ơi, là cháu đây ạ.”

“Cháu vào đi.” Tôi thấy ông ngồi trong phòng khách và chơi trò Solitaire bên bàn uống nước.

“Cháu chào ông”, tôi nói.

“Cháu đã đi đâu thế? Hôm qua mẹ cháu hơi bực mình đấy.”

“Mẹ cháu không lên nhà ông chứ ạ?”

“Không, mẹ cháu gọi điện thoại cho ta, và hỏi liệu ta có biết cháu đi đâu không. Như thế thì không sao cả. Mà cháu mang theo cái gì đấy?”

“À. Cái này ạ? Đây là thứ riêng tư duy nhất cháu có trong đời. Nhưng mẹ cháu đã phá khóa khi cháu đi vắng. Cháu muốn hỏi không biết ông có sửa được nó không ạ. Hồi trước có lần ông nói với cháu rằng ông có một góc xưởng trong ga-ra. Nếu ông còn nhớ. Ông nói ở đó có nhiều dụng cụ, và ông chế ra được nhiều đồ.”

“Để ta xem thử đã nào.”

Tôi đặt nó lên tấm thảm, sau đó ông bật chiếc đèn ở cuối bàn và rướn người tới kiểm tra chiếc ổ khóa bị hỏng.

“Ông có sửa được nó không ạ?”

“Phải nói thật là, không. Trên lý thuyết thì hầu hết mọi thứ hỏng hóc đều có thể sửa được. Nhưng cần một số linh kiện thay thế . Cháu thấy mảnh kim loại nhỏ ở đây không? Nó bị gãy khi mẹ cháu phá khóa rồi. Cái rương này cũ lắm rồi, và hệ thống khóa của nó được thiết kế riêng cho loại này. Nên ta nghĩ cháu cần một chiếc rương mới đấy.”

“Cháu tiêu hết tiền rồi ạ.” “Kể cả quỹ đen á?”

“Thế ông nghĩ hai ngày vừa rồi cháu đi lại và ăn uống bằng gì ạ?”

“À. Ừm. Nhưng có nhất thiết phải là rương không? Hay cháu chỉ cần là một thứ có thể đựng đồ, và khóa lại được thôi? Ta có mấy chiếc hộp gỗ to trong ga-ra đấy, có nhiều kích cỡ lắm. Ta chẳng bao giờ hoàn thành nổi dự án đó.”

“Nhưng mấy chiếc hộp gỗ đó có khóa được không ạ?” “Hộp gỗ nào cũng khóa được mà. Cháu chỉ cần ra hàng mua thêm bản lề thôi. Ta có thể lắp vào giúp cháu. Sau đó cháu có thể dùng khóa móc như bình thường.” “Thế thì tốt quá ạ.”

“Thế ta đi xem mấy cái hộp nào.”

Vậy là chúng tôi lại cùng nhau đi xuống cầu thang, và leo lên con đường dốc vào ga-ra. Ông mở cửa cạnh lều chứa củi để tôi vào trước, sau đó ông bật đèn lên.

“Chắc ta phải dọn dẹp chỗ này thôi”, ông nói. “Để Rachel còn đánh xe vào nữa.”

“Bà ấy sắp đến đây chơi ạ?”

“Đúng vậy. Bà ấy gọi cho ta và nói chúng ta nên đến thăm nhà nhau nhiều hơn.”

“Bà ấy gọi ông khi nào vậy ạ?” “Đêm qua. Khi cháu vắng nhà.”

Tôi cố nuốt ực mớ hầm bà lằng đủ các loại cảm xúc từ phấn khích đến lo lắng xuống dạ dày, rồi lặng thinh.

Ông đi tuốt xuống cuối ga-ra, đến tận cuối xưởng mộc, và tôi đi theo ông. Ông kéo tấm màn phủ trên một đống đồ. Hóa ra đống đó là hàng chồng gỗ xẻ, thanh gỗ… và rất nhiều hộp gỗ.

“Có chiếc nào đủ to không cháu?” “Cái này có vẻ được đấy ạ.”

Tôi chạm vào chiếc hộp gỗ ấy, những ngón tay tôi mân mê mấy cạnh hộp. Chiếc hộp tối màu và khá nặng. Nó được ông chế tác khá tinh xảo, với bề mặt nhẵn nhụi và các góc cạnh đều được mài giũa cẩn thận. Nó không cao bằng chiếc rương cũ của tôi, nhưng chiều dài và chiều rộng thì tương đương.

“Nếu ông không phiền khi cháu lấy nó, thì chiếc hộp này đúng là hoàn hảo ạ.”

“Nó vô dụng khi ở dưới này mà. May ra chỉ có bọn nhện mới sờ đến nó thôi.”

“Sáng mai cháu sẽ ra hàng mua bản lề. Cháu nghĩ mình còn đủ tiền đấy ạ.”

Nhưng đó là vì bà Rachel đã cho tôi tá túc, rồi lại ăn cả bữa tối và bữa sáng. Và bà còn chở tôi ra bến xe buýt nữa. Nhưng tất nhiên tôi không tiết lộ bí mật đó với ông Paul rồi.

“Thế”, ông nói. “Chuyện đó là bí mật quốc gia à? Cháu có định tiết lộ với ai đó về nơi cháu đã đi không? Miễn là người đó không phải mẹ cháu ấy?”

Tôi chỉ tay lên tầng trên để nhắc ông rằng mẹ tôi vẫn đang ở trên đó. Tôi không biết liệu mẹ có nghe thấy chúng tôi nói chuyện ở dưới này không, nhưng tôi chẳng còn tâm trạng để liều lĩnh nữa.

Ông túm lấy một góc bạt phủ để phủi bụi khỏi chiếc hộp gỗ, rồi đưa nó cho tôi, sau đó chúng tôi lên nhà.

Khi chúng tôi đi đủ xa khỏi ga-ra, tôi nói với ông, “Chuyện cháu đi khỏi nhà có liên quan tới… việc cháu kể cho ông đó ạ. Cháu đã kể về việc mình hèn nhát ra sao ấy. Sau khi kể với ông thì cháu cứ nghĩ về điều đó mãi. Nên cháu muốn làm gì đó đúng đắn”.

Đó là sự thật. Chỉ không phải toàn bộ sự thật thôi.

“Thế, cháu gặp người ta rồi à?” Ông hỏi trong khi chúng tôi leo lên cầu thang.

“Vâng ạ.”

“Có đáng sợ không?”

“Lúc đầu thì có ạ. Khi chúng cháu bắt đầu nói chuyện thì mọi thứ dễ dàng hơn.”

Ông mở cửa giúp tôi.

“Nhân tiện”, tôi nói, “Cháu nghĩ là mẹ cháu phát hiện ra rồi. Vì mẹ nói rằng mẹ đã nghĩ cháu chạy trốn với cậu trai nào đó, nhưng sau đó mẹ đổi cậu trai thành một người nào đó”.

Ông nhăn mũi. “À ừ. Nghe giống kiểu mấy bà mẹ hay nói ‘Mẹ biết tỏng rồi nhé’. Thế cháu nghĩ tại sao mẹ cháu lại phát hiện ra điều đó?”

“À, thì mẹ cháu cứ đợi mãi xem cháu có thích bọn con trai không. Chắc mẹ cũng nhận ra cháu chẳng có điểm chung nào so với bọn con gái đồng trang lứa. Ông biết đấy, cháu không nghĩ chuyện đó khó đoán đến vậy đâu.”

“Ta nghĩ là các bà mẹ đều hiểu con cái mình. Cháu cứ để chiếc hộp đó trong phòng này đi. Nó có thể đợi ở đây đến khi cháu mua được bản lề. Nếu cháu muốn, thì có thể bỏ đồ đạc trong rương vào đó luôn, và ta thề sẽ dùng mạng sống của mình bảo vệ chúng giúp cháu, cho đến khi chúng ta lắp được ổ khóa mới.”

“Cháu cảm ơn ạ. Nhưng đằng nào mẹ cháu cũng lục lọi hết đống đồ rồi.”

Ông nhìn tôi một chút. Tôi chẳng biết ông đang nghĩ gì nữa.

“Cháu đói không?” Ông hỏi.

“Cháu đói ngấu rồi. Cháu cứ hy vọng mẹ cháu sẽ hỏi thế. Nhưng cuối cùng mẹ và cháu lại cãi nhau.”

“Cháu vào bếp đi. Ta sẽ nấu món gì đó. Ta cũng đói rồi.”

Tôi theo ông vào bếp, và quan sát ông. Tôi phát hiện ra ông có vẻ gì đó hơi… khang khác.

“Hình như ông đang vui ạ?” Tôi nói khi ngồi xuống ghế. “Thật à? Cháu có muốn ăn tạm món cocktail tôm lạnh trong khi đợi ta nấu ăn không?”

“Vậy thì quá tuyệt luôn ạ.”

“Được rồi. Đợi ta mấy phút, để ta mở nước rã đông tôm nhé.”

Khi ông đứng bên bồn rửa bát rã đông tôm, ông nói, “Vui vẻ hả. Ừ. Ta nghĩ vậy. Ta chỉ thấy… Ta sẽ không kể chính xác cho cháu đâu. Nhưng đêm qua Rachel gọi cho ta. Và ta nói rồi đấy. Ta thấy hơi khang khác. Ta không giải thích được, nhưng ta thấy có gì đó thay đổi. Bà ấy không hề nói gì khác đi so với những lần trước. Nhưng trước đây giữa chúng ta luôn có một… Ta không biết nữa. Ta không muốn nói là bức tường, so sánh kiểu đó thì sến quá. Nhưng trước đây giữa chúng ta luôn tồn tại một điều gì đó khiến chúng ta xa cách. Và ta cảm thấy bà ấy vừa bước qua trở ngại đó. Đại loại thế. Nhưng có lẽ chỉ do ta tưởng tượng thôi.”

“Cháu không nghĩ là ông tưởng tượng đâu.”

Ông nhìn tôi với ánh mắt tò mò. Nhưng tôi nghĩ ông chỉ hơi hiếu kì thôi.

“Sao cháu lại nói thế?”

“Cháu không biết nữa. Cháu thấy vậy thôi. Chúng ta cứ đi rêu rao khắp nơi rằng ta không biết vị trí của mình trong lòng người khác, vì ta không biết họ đang nghĩ gì. Nói như vậy cũng đúng. Nhưng chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được vị trí của mình trong lòng người khác mà. Nhưng khi nghĩ lại, thì ta thấy bối rối và nghi hoặc vì những suy nghĩ của mình.”

“Ta cũng đã trăn trở vậy đấy. Cả đêm qua ta hầu như không chợp mắt. Ta nghĩ vì mong mỏi quá nhiều, nên ta mới cảm thấy vậy đấy.”

“Nhưng ông đã mong mỏi chuyện đó những năm mươi năm trời, và cho đến đêm qua ông vẫn chưa từng nghĩ có ngày nó sẽ thành sự thật.”

Ông rướn người lên chạn bếp và lấy xuống một chiếc tô pha lê khắc hoa văn tinh xảo… tôi không biết gọi vậy có đúng không nữa. Nó giống con lai của một chiếc bát tô và một chiếc ly thủy tinh. Giống như chiếc ly lớn đựng kem hay món parfait ấy. Những người trong nhà tôi không rành mấy thứ đồ này cho lắm. Ông Paul xếp khoảng mười con tôm lớn trên miệng bát và rót nước sốt cocktail màu đỏ vào chính giữa.

“Ta thích điều cháu vừa nói hơn”, ông nói trong khi đặt chiếc tô trước mặt tôi. “Nên ta sẽ nghĩ như vậy. Ta cảm thấy có gì đó thay đổi, vì đúng là như vậy thật.”

Tôi nhón lấy một con tôm, và cắn gần hết cả con chỉ trong một miếng. Sau đó tôi nhai vài cái, rồi thở hắt ra đầy mãn nguyện.

“Dù sao thì ta vẫn thấy hơi khó nghĩ một chuyện”, ông nói. “Ta thấy như vậy thật không công bằng. Nhưng nếu bà ấy tới chơi thường xuyên hơn, thì ta sẽ phải nhờ mấy mẹ con cháu lánh mặt đi nhiều hơn. Có lẽ mấy mẹ con sẽ phải đi cắm trại nhiều lắm.”

“Không sao ạ. Một số chuyện nên được ưu tiên hơn mà ông.”

Tôi cũng hiểu rằng, nếu chuyện giữa hai người họ mà thành, thì chúng tôi sẽ phải đi tìm nơi khác. Nhất là khi nhận định của tôi đúng - về việc Sophie lại cư xử như hồi chưa gặp Rigby. Ông Paul sẽ không muốn phải nghe tiếng ồn kinh khủng đó khi cố gắng sống yên ổn cùng bà Rachel, và tôi chẳng thể trách ông vì điều đó được.

Vả lại, tôi cũng chuẩn bị sẵn tinh thần cho điều đó từ trước khi tới gặp bà rồi. Tôi biết từ trước khi đến đó, rằng nếu họ thành công, thì chúng tôi sẽ lại phải ra đường lần nữa.

Nhưng đúng là một số chuyện nên được ưu tiên hơn thật.

Khi tôi lên phòng, thì mẹ và Sophie đang nằm gọn trên chiếc tràng kỷ. Hình như hai người đã ngủ rồi.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhưng không dám thở quá mạnh. Mẹ chẳng tha cho tôi dễ dàng vậy đâu. Trước đây tôi cũng gặp chuyện tương tự rồi.

Tôi lẻn vào góc nhỏ của mình và thay bộ quần áo ngủ.

Nhưng tôi chẳng thấy ai động đậy cả. Nên tôi tin rằng mẹ đã ngủ thật.

Phải mất một lúc lâu sau tôi mới ngủ được, vì đầu cứ xoay mòng mòng với suy nghĩ mãi. Nhưng cuối cùng tôi cũng chìm vào giấc ngủ.

Tôi giật mình tỉnh giấc khi thấy có thứ gì vừa chạm vào trán mình.

Tôi khẽ thốt lên một tiếng và nhổm người dậy.

Nhưng sau đó tôi nghe mẹ nói, “Là mẹ đây, con yêu. Là mẹ thôi mà”.

Tôi lại nằm xuống, và mẹ vuốt tóc tôi thêm chút nữa. Tôi ngắm dáng hình mẹ trong ánh trăng, và tự hỏi làm sao mẹ lại gọi mình là “con yêu” vậy nhỉ. Đã lâu lắm rồi mẹ mới gọi tôi như vậy. Và tôi chưa từng thấy tôi và mẹ xa cách đến thế, cho tới đêm qua khi chúng tôi chìm vào giấc ngủ.

Nhưng tôi chẳng có lí do gì để phá hỏng khoảnh khắc tốt đẹp này, nên bèn im lặng.

Một lúc sau, mẹ nói, “Chú Andy biết nhiều hơn mẹ. Nhưng mẹ sẽ kể hết cho con những điều mẹ biết”.

Chú Andy là em họ của ba. Chúng tôi đã lâu không gặp chú, kể từ khi ba tôi qua đời. À, thực ra tôi chưa gặp lại chú lần nào. Linh tính mách bảo tôi phải gồng mình lên, vì tôi sắp được nghe sự thật. Nhưng tôi chẳng làm vậy. Bởi dù cho chuyện gì từng xảy ra, thì cũng không thể tệ hơn những điều tôi phải chịu đựng bấy lâu được.

Ngoại trừ…

“Nếu họ quá tàn nhẫn với ba, thì mẹ đừng kể quá chi tiết cho con nhé. Con không muốn biết phần đó.”

“Mẹ tưởng con đọc mấy bài báo rồi?”

“Không, con có nói thế đâu. Con chỉ nói tên ba xuất hiện trong kết quả tìm kiếm trên mạng thôi. Con có một người bạn đọc giúp, và người đó không kể tường tận mấy chi tiết dã man cho con.”

“Vậy thì tốt quá.”

“Tệ đến thế cơ ạ?” Nhưng, tôi nhanh chóng nói thêm trước khi mẹ kịp trả lời, “Thôi ạ. Con không muốn biết đâu. Mẹ chỉ cần kể cho con những điều mẹ biết về lí do ba bị giết thôi”.

“Ba con vay nặng lãi, rồi nợ nhiều lắm. Mẹ còn chẳng biết ba con nợ bao nhiêu, vì mẹ cố gắng không khơi ra chuyện đó. Vì mẹ sợ. Và vì mẹ giận ba con nữa. Mẹ không hiểu sao ba con không thể ngưng bài bạc được. Ba yêu mẹ và con, nên mẹ nghĩ ba sẽ vì mẹ con mình mà thôi cờ bạc. Nhưng sau khi ba con mất, mẹ đã tới nói chuyện với bác sĩ tâm lý, và mẹ hiểu rằng việc đó chẳng dễ dàng như mẹ tưởng.”

“Con không biết mẹ đã đến gặp bác sĩ tâm lý đấy.” “Mẹ gặp một người, và gửi con cho một người khác.” “Sao con chẳng nhớ gì cả.”

“Con chỉ đi khoảng năm lần thôi. Vì mẹ chỉ đủ tiền cho con đi từng ấy số buổi trị liệu thôi.”

“Dù gì thì, mẹ cứ nói tiếp đi ạ.”

Mẹ thở dài. Có lẽ mẹ hy vọng mình không phải nói tiếp.

“Mẹ nghĩ nếu ba con còn sống, thì mẹ sẽ hiểu ông ấy hơn. Dù sao thì mẹ cũng sẽ cố gắng. Nhưng khi đó, mẹ không hề hiểu cho ba. Mẹ lúc nào cũng phẫn uất. Mẹ không muốn con nghĩ ba là kẻ xấu đâu nhé. Ba con là người tốt. Ba không phải tên đểu cáng hay tồi tệ đâu. Ba con là người tốt bụng, nhưng cờ bạc đối với ba giống như một căn bệnh ấy. Đại khái là khi ấy mẹ không muốn biết ba con đã lún sâu vào nợ nần đến đâu. Nhưng sau khi vụ việc xảy ra, mẹ đã nói chuyện với chú Andy để hỏi thêm thông tin. Và tất nhiên cảnh sát cũng nói chuyện với chú ấy nữa. Mẹ nghĩ ba con có kể cho chú Andy rằng ba có kế hoạch kiếm tiền trả nợ. Bởi nếu ông ấy không làm vậy, thì bọn cho vay nặng lãi sẽ đập vỡ hai đầu gối ba. Và nếu ba lại chậm nợ thêm nữa, thì tính mạng của chúng ta sẽ bị đe dọa. Con biết đấy. Chúng ta là gia đình của ba con mà. Nên… Mẹ không biết kế hoạch chính xác là gì. Nhưng mẹ nghĩ nó có liên quan tới việc ba con định phản bội hay lừa lọc một kẻ có máu mặt. Và ba con đã hy vọng mình không bị bắt quả tang. Chú Andy nói là không biết chi tiết mọi chuyện, nhưng có thể chú ấy không muốn ta cung cấp thông tin cho cảnh sát.”

“Nhưng chú ấy cũng muốn bọn tội phạm bị bắt chứ ạ?” “Ừ, nhưng… mẹ cứ có cảm giác nếu chú ấy kể cho ta mọi chuyện, thì cũng không có lợi cho chú ấy. Có thể chú ấy cũng sẽ gặp nguy hiểm. Mà mẹ cũng chưa bao giờ ép buộc chú ấy phải kể ra hết. Vì… làm thế cũng có ích lợi gì đâu chứ? Mẹ thực sự chẳng muốn biết kế hoạch đó ngu xuẩn cỡ nào đâu. Ngu xuẩn tới mức ba con bị giết hại kìa. Đó là tất cả những gì con cần biết về kế hoạch của ba con.”

Chúng tôi lặng im một lúc. Tôi im lặng và đợi xem mẹ có nói gì nữa không. Nhưng mẹ vẫn tiếp tục vuốt tóc tôi. Và tôi cảm thấy dễ chịu. Không phải dễ chịu về thể xác đâu. Mà dễ chịu vì lúc này tôi và mẹ được ở cùng một phe. Chứ không phải chọi nhau giống hai đấu sĩ trên sàn đấu như mọi khi.

“Con ước khi đó con biết ba chết vì cờ bạc”, tôi nói. “Để con còn biết mà tránh.”

“Con đâu phải con bạc.”

Đáng lẽ tôi có thể tranh luận với mẹ. Lúc đầu, tôi cũng muốn vậy. Tôi muốn nổi đóa lên một chút rồi nói, “Mẹ thấy chưa? Mẹ thực sự chẳng hiểu con tẹo nào”.

Nhưng tôi đã quá mệt mỏi khi cả hai chúng tôi cùng giận dữ và căng thẳng với nhau. Chúng tôi đã tốn rõ nhiều năng lượng vì chuyện đó. Vả lại, nếu mẹ không hiểu tôi, thì cả tôi và mẹ đều cùng có lỗi.

“Nếu mẹ sai”, mẹ nói, “thì cho mẹ xin lỗi. Khoảng thời gian đó thực sự quá tồi tệ đối với mẹ. Có lẽ việc mẹ làm là sai. Có lẽ mọi điều mẹ làm khi đó đều là sai lầm và chậm trễ. Nhưng khi ấy mẹ đã cố làm tất cả mọi thứ trong khả năng của mình rồi. Mẹ hy vọng con hiểu điều đó. Mẹ mong con sẽ chấp nhận lời xin lỗi của mẹ”.

“Con chấp nhận lời xin lỗi của mẹ.”

“Mẹ sẽ mua cho con một chiếc rương mới.”

“Không sao đâu ạ. Ông Paul đã cho con một chiếc hộp gỗ to. Con chỉ cần đi mua thêm bản lề và móc khóa, sau đó ông ấy sẽ lắp vào giúp con. Chiếc hộp đó đẹp lắm ạ.”

“Ồ”, mẹ nói. “Được rồi.”

Tôi biết mẹ sẽ thấy vui hơn nếu được giải quyết vấn đề giúp tôi. Có lẽ mẹ đã chán khi tôi suốt ngày chạy tới chỗ ông Paul rồi. Nhưng mẹ chẳng nói gì về chuyện đó nữa.

Mẹ ngừng vuốt tóc tôi. Chúng tôi chỉ yên lặng như thế thêm một lúc, trong ánh trăng mờ rọi qua khung cửa sổ phía trên giường tôi. Tôi nghĩ chúng tôi đã nói hết chuyện. Thế nhưng mẹ vẫn chưa đi, nên có lẽ mẹ vẫn muốn nói gì đó nữa.

Sau đó mẹ nói, “Con biết dù con là gì, thì mẹ vẫn yêu con mà, phải không? Dù con không giống mẹ. Và dù con… dù con trở thành người như thế nào. Và cách con…”.

Tôi chờ đợi, nhưng có vẻ mẹ đã hết hơi.

Tôi không định tranh cãi với mẹ, mà chỉ muốn giúp mẹ nói hết câu thôi. “Chúng ta có thể nói thẳng điều đó ra mà? Mẹ có thể nói là ‘Angie à, mẹ vẫn yêu con, cho dù con đồng tính’.”

Mẹ im lặng.

“Angie à, mẹ vẫn yêu con, cho dù con đồng tính.” “Con cảm ơn mẹ. Con cũng yêu mẹ.”

Mẹ hôn lên hai thái dương tôi. Sau đó mẹ quay lại chỗ tràng kỷ.

Tôi thấy hơi nặng đầu vào buổi sáng, khi ngồi vào bàn ăn. Đầu tôi cứ ong ong. Có lẽ do tôi thiếu ngủ trầm trọng.

Sophie cũng đang ngồi bên bàn và chìm đắm trong thế giới của riêng mình. Trên tay con bé cầm một dây xúc xích.

Nói một cách tích cực, thì chúng tôi đã được ăn ngon hơn. “Có trứng bác và xúc xích trên bếp nhé”, mẹ tôi nói. Mẹ cố gắng tỏ ra vui vẻ, nhưng vẻ mặt vui tươi thì chẳng thật chút nào.

“Ồ”, tôi đáp.

Tôi không biết tại sao mình phải cố ngồi vào bàn nữa. “Con muốn mẹ lấy cho con không?”

“Không ạ, để con đứng dậy.” “Trông con có vẻ mệt mà.”

“Đúng là con mệt thật. Mấy đêm nay con không ngủ được trọn giấc rồi.”

“Ồ. Mẹ xin lỗi. À… mẹ xin lỗi vì đêm qua nhé. Con ngồi đi. Mẹ sẽ mang bữa sáng tới bàn để đền bù cho con. Con uống cà phê không?”

“Có ạ.”

Tôi quan sát Sophie một lúc, sau đó cầm dĩa lên ăn suất của mình.

“Con muốn báo trước cho mẹ luôn”, tôi nói, “con nghĩ mình sắp phải đi cắm trại nữa rồi”.

Tôi cứ nghĩ mẹ sẽ phản đối dữ lắm.

Nhưng cuối cùng, tôi chỉ nghe thấy một tiếng “Úi chà” nho nhỏ.

“Mẹ úi chà gì cơ ạ?”

“Bà hoàng sẽ đến đây thường xuyên hơn, phải không?”

“Bà hoàng á? Sao mẹ lại gọi bà ấy thế?”

“Mẹ không biết nữa. Mẹ nghĩ là vì mọi hoạt động thường ngày đều ngưng lại mỗi khi Bà hoàng chiếu cố ngự giá nơi đây.”

Tôi thấy hơi choáng.

“Có phải mẹ không thích bà Rachel không? Vì con thấy thích bà ấy lắm.”

Mẹ đặt một đĩa trứng bác và xúc xích trước mặt tôi. Sau đó là một cốc cà phê. Tôi múc đường vào cốc trong khi đợi mẹ trả lời.

Mẹ nhăn nhó ngồi xuống ghế, rồi thở hắt ra.

“Mẹ thậm chí còn chẳng quen bà ấy mà”, mẹ nói.

“Phải rồi. Con cũng nghĩ vậy mà. Nhưng tại sao mẹ đột nhiên lại trở nên xấu tính khi con nhắc tới bà ấy thế?”

Mẹ lại thở dài.

Tôi rót sữa vào cốc cà phê của mình rồi uống một ngụm thật to. Cà phê trôi thẳng xuống dạ dày tôi. Thật ngon và sảng khoái, đúng là thứ tôi đang cần. Giống như ma túy dạng nhẹ ấy. Ừm, tôi nghĩ cà phê cũng là một chất gây nghiện.

“Chỉ là… Mẹ nghĩ bà ấy thích ông Paul”, mẹ nói. Mẹ than vãn hệt như một đứa thiếu niên đang rầu rĩ về mấy chuyện hẹn hò ấy.

“Nếu bà ấy thích ông Paul thật thì tốt quá.”

“Tốt á? Tốt như thế nào? Sophie ngày càng om sòm hơn rồi, và cứ mỗi lần bà ấy tới chơi, chúng ta lại phải lánh đi nơi khác. Con định nói với mẹ rằng khi bà ấy chuyển hẳn tới đây thì chúng ta không phải ra đường à?”

“Không ạ. Chắc chúng ta sẽ phải chuyển đi thật.” “Thế sao con nói chuyện đó là tốt?”

“Vì ông Paul cô đơn mà.”

“Mẹ không muốn chuyển đi đâu! Ở đây miễn phí mà!”

Khi nhắc đến từ miễn phí, mẹ gần như rít lên. Mẹ nói to đến nỗi, chỉ thiếu chút nữa thôi là tôi đưa tay lên bịt tai lại rồi.

Tôi nghĩ mình không hề nhận thấy mẹ hoảng sợ về chuyện đó đến mức nào.

Sau đó tôi tự hỏi sao mình không thấy hoảng. Trong hoàn cảnh đó.

“Ông Paul sống cô độc cả đời rồi. Giờ ông cũng chẳng còn Rigby bầu bạn nữa. Ông ấy sắp bước sang tuổi sáu mươi tám rồi. Nếu chuyện này không thành, thì mẹ nghĩ ông ấy còn bao nhiêu cơ hội nữa? Mẹ biết đấy, ông ấy xứng đáng được hạnh phúc mà.”

“À, thế thì mẹ xin lỗi khi quan tâm tới gia đình mình hơn là bận tâm đến ông ấy nhé.”

Nhưng, thực lòng mà nói, thì tôi không nghĩ mình chấp nhận được lời xin lỗi đó của mẹ. Sau tất cả những gì ông đã làm cho gia đình tôi.

“Mục đích chúng ta ở đây là để tiết kiệm tiền”, tôi nói. “Để chúng ta dành dụm đủ tiền mua nơi khác. Một nơi nào đó của riêng chúng ta, nơi ta có phòng ngủ riêng và mỗi phòng đều có cửa. Lúc nào chỗ này cũng chỉ là giải pháp tạm thời thôi. Mẹ nói mẹ đang tiết kiệm tiền cơ mà...”

“Mẹ đang tiết kiệm tiền mà.”

“Mẹ nói mẹ có thể tiết kiệm được một nghìn đô mỗi tháng cơ mà.”

“Không được nhiều đến thế đâu.”

“Nhưng chúng ta tiết kiệm được thêm khoảng một nghìn rưỡi mỗi tháng khi không phải thuê nhà cơ mà?”

“Cuộc đời nhiều bất trắc lắm, nhóc ạ.”

Đây không phải lần đầu tiên mẹ nói câu đó với tôi. Những lần trước, tôi cũng thấy khó chịu.

“Thế chúng ta có bao nhiêu ạ?” “Xấp xỉ mười hai ngàn.”

“Khoản đó chỉ bằng một nửa số con nghĩ thôi. Nhưng ít nhất chúng ta có đủ tiền đặt cọc một căn nhà đấy. Con nghĩ vậy.”

“Con quên mất hai điều rồi, Angie ạ. Một khoản tiền đang ngồi ăn xúc xích ngay trước mặt con kìa. Còn một điều nữa là mẹ không có tín chấp để vay tiền. Mẹ nói với con từ trước rồi. Lần nào con nhắc tới chuyện mua nhà thay vì đi thuê, mẹ cũng đều nói thế. Còn con thì lúc nào cũng quên.”

“Con có quên đâu.”

“Thế trong con còn có phép màu gì mà mẹ không biết đến hả?”

“Có thể lắm.” “Và đó là…?”

“Một người bạn làm cán bộ tín dụng có thâm niên công tác trong ngân hàng bốn mươi lăm năm.”

Mẹ nhăn mặt. Rồi uống một hớp cà phê. Rồi lại lắc đầu. “Mẹ không nghĩ vấn đề ở đây là mình quen ai. Vấn đề là mình có bao nhiêu tiền mới đúng.”

“Con chỉ nghĩ là ông ấy có thể cho chúng ta lời khuyên về việc vay vốn ngân hàng thôi.”

“Tất nhiên rồi. Ông ấy sẽ nói rằng, ‘Phải bắt đầu từ tín chấp cái đã’.”

Tôi lắc đầu và chẳng nói năng gì nữa. Tôi lại có cảm giác nói chuyện thế này ích gì. Tôi nhận ra mình luôn cảm thấy thế khi nói chuyện với mẹ. Nếu là một, hay hai ngày trước, thì có thể tôi đã nhảy dựng lên và đi khỏi bàn ăn. Nhưng trò đó cũ rồi.

Vả lại, tôi cũng đang đói ngấu.

Hai ngày sau, bà Rachel đến. Nhưng bà chỉ ở lại có hai ngày thôi.

Hôm bà rời đi, mẹ cho tôi quá giang đến nhà ông Paul trên đường đi làm. Một lí do là vì xe đón Sophie vẫn chờ em ở đó mỗi sáng, và đưa con bé về đó mỗi buổi chiều. Lí do còn lại là bởi nếu tôi ở đó vào ban ngày, thì sẽ biết khi nào bà Rachel rời đi, và liệu chúng tôi có cần cắm trại thêm một đêm nữa không. Vả lại, tôi ở đó thì chẳng sao. Họ sẽ không nghe thấy tôi, và tôi cũng chẳng làm gì ảnh hưởng đến họ.

Nhưng Sophie thì khác. Chúng tôi không quản được Sophie.

Tôi lên nhà, tắm vòi sen, rồi tự thưởng cho mình một bát ngũ cốc cho bữa sáng. Trước khi kịp ăn, thì tôi nghe tiếng xe của bà Rachel ra khỏi ga-ra. Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ và hy vọng hai người họ cùng đi đâu đó.

Nhưng trên xe chỉ có bà Rachel thôi.

Tôi lại ngồi xuống bàn, cố nghĩ xem mình có nên hỏi ông Paul về tình hình bên đó không. Nhưng tôi chẳng bao giờ quyết được. Suy nghĩ của tôi cứ lấn cấn mãi thôi. Vả lại, tôi đang nghĩ có khi bà ấy chỉ lái xe ra cửa hàng hay đi đâu đó, rồi sẽ quay lại sớm thôi.

Bỗng chuông điện thoại reo lên khiến tôi giật bắn người.

Tới hồi chuông thứ hai thì tôi nhấc điện thoại lên. Đó là ông Paul.

“Cháu ở bên đó à”, ông nói. “Tốt quá.” “Giọng ông có vẻ vui thế ạ.”

“Ta đang vui mà. Sao ta lại không vui được chứ?” “Cháu không biết nữa. Tại bà ấy đến chơi ít ngày quá ạ.” “Nhưng chúng ta đã rất vui. Cháu đi câu cá với ta nhé.” “Vâng ạ. Ông muốn kể chuyện gì ạ? Ý cháu là, ông định kể cho cháu về chuyện đã diễn ra ở đó ạ? À, nếu như ở đó có chuyện gì thật. Cháu không nói là có chuyện gì đâu nhé. Chỉ là… cháu thấy có vẻ ông đang rất vui.”

“Gặp nhau ở ga-ra nhé”, ông đáp. Sau đó tôi xuống ga-ra.

Chúng tôi lấy dụng cụ và lái xe đến một cái hồ bé xíu và lạnh cóng trên núi.

Nhưng trong khi chuẩn bị đồ câu, hay trong lúc lái xe, ông cũng chẳng hề hé răng nửa lời về chuyện của ông và bà Rachel.

Chúng tôi đứng trong hồ. Nước ở đây ngập đến eo - chính xác là eo tôi. Một lúc sau, ông mở lời, “Ta thấy hơi kì quặc khi nói ra chuyện đó”.

“Vậy ông sẽ không kể cho cháu chuyện của hai người ạ?”

“Ta có nói vậy đâu? Có lẽ ta sẽ kể. Ta chỉ thấy hơi kì thôi.”

“Vậy ông muốn cháu làm gì trong khi chờ đợi ạ? Chỉ đứng câu cá trong im lặng ạ? Hay cháu phải đặt câu hỏi cho ông đây?”

“Ý kiến của cháu hay đấy. Ta không biết nữa.”

Khi đó tôi đang nhìn ông, rồi tự nhiên tôi bật cười. Ông muốn biết lí do tôi cười, nhưng tôi chẳng biết nên giải thích ra sao nữa. Thực ra ông không trực tiếp hỏi tôi điều đó. Ông chỉ nhìn tôi, và tôi cũng hiểu rằng ông đang tò mò. Tôi nghĩ thật thú vị khi chúng tôi có thể giao tiếp mà không cần nói thành lời như vậy.

Còn đây là lí do tôi cười, nếu khi đó tôi có thể diễn tả được. Đó là bởi, lúc đó ông quá hạnh phúc và phấn khích… nên tôi thấy… trông ông… khá đáng yêu. Ông Paul tôi từng biết chưa bao giờ có vẻ hạnh phúc đến thế. Nhưng đó không phải điều bạn nên nói với một người lớn sáu-mươi-tám tuổi, cho dù khi đó bạn có nghĩ ra hay không.

“Chúng ta sẽ chơi trò Hai mươi Câu hỏi ạ”, tôi nói. “Ông Paul ơi, chuyện gì đã xảy ra ạ?”

“Ừ. Cũng không phải điều gì to tát cả. Ừm. Thực ra thì. Cũng to tát đấy. Nhưng có thể cháu sẽ không nghĩ như ta. Có gì đó đã xảy ra, nhưng không phải tất cả mọi thứ. Cháu có hiểu được câu đó không?”

“Cháu mới hỏi ông có một câu thôi mà.”

“Bà ấy đã hôn ta. Ý ta là, chúng ta đã hôn nhau. Nhưng bà ấy đã hôn ta trước. Ta không nói là mình không đáp lại nụ hôn đó đâu nhé. Tất nhiên là có rồi. Nhưng bà ấy hôn ta trước. Chuyện đã bắt đầu như thế đó.”

“Khi nào ạ?”

“Đêm qua.”

“Thế thì… tại sao bà ấy lại đi ạ?”

“Chúng ta… hai chúng ta đã nói chuyện về nụ hôn đó. Chúng ta không muốn vồn vã quá. Cháu biết đấy. Vội vàng quyết định mọi chuyện. Chúng ta quyết định tạm xa nhau để suy nghĩ về điều đã xảy ra. Ta cá là cháu sẽ thấy chuyện đó thảm hại, và cổ lỗ sĩ lắm. Cháu mười sáu tuổi rồi, nên có lẽ cháu sẽ thấy chuyện này thảm hại lắm nhỉ.”

“Là một đứa mười sáu tuổi chưa từng được ai hôn trong đời, cháu làm gì có quyền đánh giá ông ạ?”

Ông choàng tay trái qua vai tôi... còn tay phải vẫn giữ cần câu cá... và ông kéo tôi lại gần, sau đó hôn chụt một phát lên trán tôi. Mạnh đến nỗi đầu tôi ngả hẳn ra đằng sau.

Tôi lại cười phá lên.

“Cháu cảm ơn, nhưng cái đó không được tính đâu.” “Tất nhiên là không rồi. Ta cũng không có ý đó mà. Nếu cháu nghĩ việc chưa từng được hôn là thảm hại, thì hãy tưởng tượng ta là nụ hôn đầu của cháu. Như thế mới thật sự là thảm hại đó.”

“Cháu cá là bà Rachel không nghĩ vậy đâu.”

“Tất nhiên rồi, chuyện đó thì phải khác chứ. Rachel là...” Ông ngừng nói để kéo dây câu.

Ông kéo con cá lên khỏi mặt nước, và nó vùng vẫy ở đầu dây. Còn ông chỉ đứng chăm chú nhìn nó. Ông chưa bỏ cá vào lưới câu, mà chỉ nhìn nó lơ lửng quẫy cựa ở đầu dây thôi.

Như thể ông chưa từng nghĩ mình sẽ câu được con cá này ấy.

Có vẻ nó nuốt lưỡi câu quá sâu, nên chẳng thể trốn thoát nữa.

Cuối cùng tôi mở giỏ câu và giơ giỏ xuống dưới con cá để ông bỏ vào giỏ và gỡ lưỡi câu ra.

“Vấn đề là phải tập trung ạ”, tôi nói.

Ông lại quăng dây câu ra giữa hồ, còn tôi thì kẹp cần câu vào giữa hai đầu gối để khỏi làm rơi. Tôi choàng tay ngang người ông, và ôm ông một cái đầy ngượng nghịu. Cái ôm khiến tay ông bị huých qua một bên, lại còn làm nước hồ bắn lên người chúng tôi nữa chứ.

“Cái ôm đó là sao?” Ông hỏi sau khi tôi thả tay ra. “Cháu rất vui khi thấy ông hạnh phúc.”

“Mặc dù…?”

Ông cứ bỏ lửng câu hỏi của mình ở đó. Nhưng không sao, bởi tôi biết ông định nói gì tiếp mà.

“Vâng ạ. Mặc dù nếu chuyện giữa hai người thành công, thì mấy mẹ con cháu sẽ phải tìm nơi ở mới. Cháu vẫn vui khi thấy ông hạnh phúc như vậy.”

Chúng tôi lại lẳng lặng câu cá một lúc nữa.

Rồi ông nói, “Lạ nhỉ. Hầu hết mọi người thường nghĩ cho bản thân trước. Cháu đúng là một người bạn tốt đấy”.

“Dạ, cháu mừng là ông cũng nghĩ vậy, vì người bạn tốt này sắp sửa nhờ ông một chuyện lớn lắm. Ông cũng biết cháu hay xem mấy tin rao bán nhà trên báo của ông chứ ạ? Cháu vừa tìm được một nơi khá thích hợp. Cháu hy vọng ông sẽ đưa cháu tới đó. Cháu biết mình đã nói với ông rằng sau khi cháu có bằng lái thì ông không cần chở cháu đi nữa. Nhưng cháu không muốn hỏi mượn xe mẹ, vì cháu chưa muốn mẹ biết ngay. Nếu biết, thì mẹ cháu sẽ lại cố gắng thuyết phục cháu không đi nữa. Vì mẹ lúc nào cũng gạt phăng ý tưởng mua nhà đi. Mẹ cháu nói chúng cháu chẳng bao giờ mua nhà được đâu. Vì mẹ không có tín chấp.”

“Thế mẹ cháu có đủ tiền đặt cọc không?”

“Mười hai nghìn đô có đủ để đặt cọc không ạ?” “Có thể lắm.”

“Tốt quá ạ. Cháu đã rủ mẹ đi xem nhà hai lần rồi, nhưng mẹ cháu không chịu. Cháu nghĩ mẹ cháu thấy khó chịu khi họ hỏi về vấn đề tiền nong.”

“Họ không hỏi đâu.” “Thật ạ?”

“Người bán nhà không hỏi chuyện tiền nong đâu. Ngân hàng cho cháu vay mới chịu trách nhiệm về tài chính, nên ngân hàng mới là nơi hỏi cháu về tiền nong. Và câu trả lời tốt nhất là thông qua các loại chứng từ. Những người bán nhà hay môi giới chỉ dẫn cháu tới xem nhà thôi.”

“Ồ. Thế thì cháu không hiểu tại sao mẹ không muốn đi. Cháu không thể tự đi được, ngay cả khi cháu có xe. Vì cháu không nghĩ họ sẽ dẫn cháu đi xem nhà. Ý cháu là, chẳng có ai bán nhà cho một đứa nhóc mười sáu tuổi cả. Nhưng nếu ông và cháu không nói rằng chúng ta không phải họ hàng, thì…”

“Việc này không phải chuyện gì to tát mà.”

“Nhưng chỗ đó nằm cách thị trấn gần hai mươi dặm đấy ạ.”

“Ta nghĩ ta lo liệu được. Thế họ ra giá thế nào?”

“Rẻ lắm ạ.”

“Rẻ là bao nhiêu?”

“Rẻ đến mức cháu không dám nói với ông, vì có thể ông sẽ nói đó là lừa đảo.”

“Chà”, ông đáp. “Thế thì chỉ còn một cách để kiểm tra thôi. Chúng ta sẽ câu cá thêm khoảng nửa tiếng nữa, rồi đi xem họ có lừa đảo không nhé.”

Chúng tôi lái xe trên một con đường nhỏ quanh co, càng lúc càng ra xa trung tâm thị trấn. Ông Paul đang mải suy nghĩ chuyện gì đó, còn tôi thì ngắm nhìn khung cảnh xung quanh. Dù quanh đó chẳng có gì ngoài cây với cối cả.

Nhưng còn có những thứ tệ hơn cây cối mà.

“Tại sao chuyện này lại xảy ra chứ?” Ông hỏi. Tự nhiên ông thốt lên như vậy.

“Tại sao chuyện gì lại xảy ra ạ?”

“Chuyện với Rachel ấy. Tại sao năm mươi năm qua giữa ta và bà ấy chẳng có gì, rồi đột nhiên chuyện này xảy ra?”

Tôi nuốt khan, cố gắng nghĩ xem ông định nói gì. Ông có vẻ căng thẳng, và tôi không rõ liệu ông đang tự vấn, hay ông thực sự nghĩ rằng có chuyện gì khả nghi.

“Dạ, thì trong bốn-tám năm trong số đó, bà ấy sống cùng chồng mà ông.”

“Bốn-bảy.”

“Cháu thì nghĩ bốn-tám, hay bốn-bảy cũng như nhau thôi ạ. Bốn mươi bảy năm bà ấy sống cùng chồng, còn khoảng thời gian trước đó thì bà ấy là sinh viên Đại học, còn ông chỉ là cậu nhóc học sinh cấp ba thôi.”

“Nhưng tại sao sau khi Dan mất, bà ấy chẳng hề có động tĩnh gì, thế rồi đột nhiên chuyện này xảy ra là sao? Ta vẫn không hiểu sao lại thế được.”

Tôi ngồi im trên ghế một lúc, và tự hỏi mình sẵn sàng nói dối đến mức nào. Tôi nghĩ là không nhiều lắm. Tôi tự thuyết phục bản thân rằng ông Paul chỉ đang tự vấn thôi. Chứ không phải ông hỏi tôi vì nghĩ là tôi biết hết. Nhưng dù cho đó là một câu hỏi tu từ, trong lòng tôi vẫn thấy lấn cấn vì phải nói dối ông Paul. Nhưng sau đó tôi nhận ra mình đã giấu giếm ông điều đó từ lâu rồi. Và lúc nào tôi cũng thấy mình thật tệ. Nhưng đó là quyết định của tôi trước khi đến nói chuyện với bà Rachel. Bây giờ thì tôi chẳng còn đường lui nữa rồi.

“Ông đang chê của biếu đấy ạ?”

Ông nhìn qua kính chắn gió, đôi lông mày nhau lại, và ông cứ nhìn xa xăm như vậy trong khoảng nửa phút. Nhưng vẻ mặt đó tan biến rất nhanh.

“Ừ, ta nghĩ cháu nói đúng đấy. Ta hy vọng là chúng ta không phải hẹn trước. Trong trang quảng cáo có ghi là ‘Chỉ tiếp người đã đặt hẹn trước’ hay ‘Không được làm phiền người thuê nhà’ không? Hay họ có ghi chú gì khác không?”

“Cháu không biết. Để cháu xem lại ạ.”

Tôi lôi danh sách từ trong túi áo, mà tôi đã giấu nó rồi chuyển chỗ qua lại khi thay áo ba ngày nay rồi. Tôi mở ra và đọc thật kĩ khoảng mười lần từ đầu đến cuối.

“Cháu không thấy ạ.”

“Chà, chúng ta đã đi cả quãng đường xa đến vậy cơ mà. Ít ra chúng ta có thể đứng nhìn từ xa chứ nhỉ?”

Tại điểm giao giữa đường cao tốc và đường lái xe vào nhà có một tấm biển của người môi giới treo trên chiếc cột gỗ. Nhưng tôi không thấy căn nhà đâu cả. Xung quanh chỉ toàn cây với cối. Nhưng những cái cây ở đó đều rất đẹp, đẹp quá sức tưởng tượng. Nơi này trông giống một nông trại, nằm ở một nơi chẳng ai biết tới, và đẹp như thiên đường vậy. Điều đó nghĩa là mẹ con tôi không thể thuộc về nơi này được.

Tôi càng chắc chắn hơn bao giờ hết. Chắc chắn là lừa đảo rồi.

Ông Paul lấy hai tờ bướm từ trong hộp nhựa đặt trên chiếc cột gỗ. Tôi chưa từng nghĩ đến việc nhìn lên đó.

“Đây, cháu cầm lấy một tờ đi”, ông nói.

Tôi nheo mắt lại dưới ánh mặt trời. Hóa ra đó là tờ thông tin về ngôi nhà này. Tôi chợt có cảm giác buồn cười ghê gớm. Tôi đã chắc chắn mình không thuộc về nơi này, và cái biển kia cũng biết vậy. Kể cả chiếc cột gỗ đó cũng biết tôi chẳng thuộc về nơi đây.

“Chà chà”, ông nói. “Đúng là rẻ thật đấy. Hừm. Chúng ta vào đó xem có phải lừa đảo không nhé.”

Chúng tôi cùng nhau đi bộ trên con đường đất cho tới khi ngôi nhà hiện ra sau những tán lá. Khi chúng tôi thấy nó, chúng tôi dừng bước ngay.

“Ôi”, tôi nói. “Đúng là lừa đảo thật rồi.”

Trông nó chẳng giống nhà cho người ở gì cả. Mái nhà và hiên nhà đều đã võng xuống. Sơn trên tường thì đã bong tróc mất một nửa. Vài ô cửa kính bị vỡ, nên bạn có thể vô tư nhòm vào trong nhà. Chẳng ai sống trong đó cả. Chắc ngôi nhà đó không có người ở từ lâu lắm rồi.

“Chúng ta lo lắng thừa về việc làm phiền người thuê nhà rồi”, ông nói.

“Cháu nghĩ chúng ta nên đi thôi. Cháu xin lỗi vì ông phải tốn thời gian đưa cháu tới đây.”

“Chờ đã. Cháu chờ chút đã nào. Cháu đừng chạy đi vội thế chứ.”

Chúng tôi đứng ngắm ngôi nhà thêm một phút nữa. Sau đó tôi nói, “Vẫn chẳng có gì khá khẩm hơn đâu ạ.” “Ừ, đúng vậy. Sao mà khá hơn được. Chỉ có mỗi cách dành ra hàng đống thời gian và công sức để cải tạo và sửa sang lại căn nhà thôi.”

“Ông nói là cháu vẫn nên suy nghĩ về việc mua căn nhà này ạ?”

“Ta chưa biết.”

Ông bước lên hiên nhà để thử bằng sức nặng của mình trước. Tôi đi theo ông. Chúng tôi nhòm qua ô cửa sổ. Bên trong nhà chẳng có gì, trừ một vài tấm ván gỗ và khoảng một tấn bụi bẩn.

“Cần nhiều công sức lắm đây”, tôi nói.

“Ta sẽ giúp cháu. Nhưng gia đình cháu chưa bao giờ có nhà riêng nhỉ. Thi thoảng những gia đình trẻ tự mua một căn nhà không ma nào nhòm ngó tới, sau đó họ phải dùng mồ hôi nước mắt của mình thì mới biến nó thành một nơi ở được.” “Cháu không hiểu.”

“Kiểu như cố gắng cật lực ấy.” “Dạ?”

“Lao động. Lao động cật lực, và chăm chỉ.” “Ố. Sao ông không nói vậy từ trước.”

“Ta nói vậy mà.” “À. Vâng.”

“Cháu phải kiểm tra kĩ càng tình trạng ngôi nhà nhé. Hãy đảm bảo móng nhà còn tốt, và sàn nhà vẫn vững chãi. Cháu phải kiểm tra xem bọn mối đã ăn hết đồ gỗ trong nhà chưa. Nếu nền móng còn tốt, thì chỉ cần sửa sang và trang trí lại nữa thôi. À, cháu cần làm lại mái hiên và mái nhà nữa đấy.”

“Thế thì không rẻ đâu ạ.”

“Đúng vậy. Nên bây giờ cháu phải làm thế này. Cháu tới chỗ người môi giới và nói ‘Cháu rất muốn mua ngôi nhà này, nhưng chắc cháu sẽ phải tốn mấy nghìn đô để sửa mái nhà và mái hiên, nên cô chú giảm giá cho cháu nhé’.”

“Và sau đó người ta sẽ nói, ‘Thế cháu nghĩ tại sao lúc đầu chúng ta lại ra giá rẻ thế chứ?’.”

“Có thể. Còn tùy xem ngôi nhà này đã chờ bán bao lâu rồi. Và phụ thuộc vào việc người chủ của nó có muốn bán ngay không.”

“Ông nghĩ nói vậy có được không ạ?”

Ông bóc lớp sơn khỏi bậu cửa sổ và kiểm tra lớp gỗ phía dưới. “Ta nghĩ cũng giống như chuyện đi câu cá thôi.”

“Vâng”, tôi đáp. “Cháu hiểu rồi.”

“Ta có thể dạy cháu cách thay mấy tấm kính cửa sổ. Và thay ổ khóa mới, và khoảng bốn mươi giờ lao động nữa. Sau đó cháu có thể ở tạm cho đến khi trời mưa. Nhưng đừng kì vọng quá nhé. Cháu đừng tưởng không ai muốn mua vì nó xấu. Những người có tiền có thể đến đây mua lại mảnh đất. Họ sẽ phá nhà, và xây nên một căn nhà ba tầng chỉ trong vòng sáu tháng thôi đấy.”

Ông lại nhìn vào tờ bướm.

“Ồ, chỗ này cũng không rộng đến thế đâu. Chỉ có hai mẫu Anh thôi. Chắc họ đã chia ra thành nhiều mảnh và bán gần hết đất rồi. Có lẽ giữa nơi này và các khu dân cư lân cận có một vùng đệm trồng lương thực và cây ăn quả. Vì ta chẳng nhìn thấy ngôi nhà nào khác quanh đây cả.” Ông khum tay lên miệng thành cái loa, rồi ngửa đầu ra phía sau và nói thật to, “Xin chào! Có ai nghe thấy tôi không?”.

Chúng tôi chờ đợi. Nhưng hình như chẳng ai nghe thấy. “Điểm cộng lớn đó ạ”, tôi nói.

“Ừ. Nhưng cháu biết trước rồi, phải không? Chẳng phải đó là lí do cháu muốn đến đây xem nhà à? Không phải vì nó nằm ở chốn đồng không mông quạnh sao?”

“Dạ… không ạ. Cháu chưa hề tưởng tượng ra ở quanh đây có bao nhiêu hàng xóm. Cháu chỉ muốn tới xem nhà vì thấy giá rẻ quá thôi.”

“Nếu cháu muốn, thì chúng ta sẽ rẽ qua chỗ văn phòng môi giới và hỏi thêm thông tin về khu đất này.”

“Vâng ạ. Cháu cảm ơn ông.”

Tôi ngửa mặt lên trời, thay vì tiếp tục nhìn ngôi nhà xấu xí khủng khiếp kia, để cho hai mắt được nghỉ ngơi. Hình như tôi nhìn thấy một vài loại quả lấp ló trong tán lá, nhưng không rõ đó là loại quả gì.

Tôi nghĩ về cảm giác khi đi tới văn phòng môi giới cùng ông Paul, thay vì phải đi một mình. Tôi cảm giác khi tới đó mình sẽ không gặp phải vấn đề gì cả. Họ chẳng có quyền cười nhạo hay xua đuổi tôi. Nhưng sau đó tôi nhận ra, không phải tôi thấy vậy vì chưa đủ mười bảy tuổi. Mà vì tôi không có tiền, và tôi nghĩ họ sẽ phát hiện ra điều đó. Tự nhiên tôi thấy thông cảm với mẹ hơn, khi biết lí do mẹ luôn cố gắng trốn tránh những nơi này.

Ông Paul như nhìn thấu suy nghĩ của tôi ấy. Ông hỏi, “Cháu nghĩ cháu có thể đưa mẹ tới đây xem nhà không?”.

“Cháu nghĩ việc đó sẽ khó khăn đấy ạ. Mẹ cháu còn chẳng hề có ý định mua nhà mà.”

“Vì tín chấp á? Hay vì khoản nợ?”

“Cháu nghĩ vậy. Cháu nghĩ mẹ luôn cảm thấy mình là kẻ đạo đức giả, vì mẹ không thể trả lời cháu về chuyện tiền nong. Mẹ cháu cố gắng trốn tránh để không phải tới những nơi người ta hỏi về tiền.”

“Ngân hàng không đến mức đáng sợ thế đâu. Ta có thể chuẩn bị cho mẹ cháu, giống như luật sư chuẩn bị cùng nhân chứng cho phiên xét xử ấy.”

“Cháu cũng hy vọng thế. Cháu mong ông có thể làm gì đó giúp mẹ cháu. Vì với tình hình hiện tại, chúng cháu thực sự đang lạc lối.”

Quả thực, điểm khác biệt duy nhất giữa tình hình hiện tại của chúng tôi và tình cảnh của chúng tôi khi vừa mới chuyển lên núi là khoản tiền mười hai nghìn đô kia. Khác biệt đó cũng khá lớn mà. Nhưng chỉ khi mẹ sẵn lòng dùng số tiền đó để mua nhà thôi. Nếu không thì chúng tôi lại phải thuê nhà, và mẹ sẽ phải rút ruột số tiền đó để trả tiền thuê nhà hàng tháng, vì lương của mẹ không trang trải hết chi phí sinh hoạt và thuê nhà được.

Thật đáng kinh ngạc khi ta mất hàng đống thời gian tiết kiệm tiền, nhưng cuộc đời chẳng cần tốn nhiều thời gian đến thế để đốt sạch chúng.

“Chỗ đó từng là vườn cây ăn quả”, tôi nói với mẹ trong bữa tối. “Nhưng khu đất này chỉ là một mảnh nhỏ thôi. Họ từng trồng đào và cây óc chó ở đó. Có cả cà chua nữa, nhưng người ta phá hết dây cà chua rồi ạ. Và giờ mấy cái cây đã già quá rồi, chúng không ra nhiều quả như trước nữa, và mảnh đất đó không có hiệu quả kinh tế như trước. Nhưng tin tốt đây ạ. Khu đất này cách nhà dân và khu dân cư gần nhất những hơn một dặm cơ. Và cô môi giới bảo con, nếu con dám trèo cây, thì có lẽ con sẽ hái được số đào và óc chó nhiều hơn số đào và óc chó của ba người ăn trung bình mỗi năm cơ đấy.”

“Mẹ không thể tin con lại bắt mẹ nhắc lại điều đó đấy”, mẹ nói.

Sophie bắt đầu lấy dĩa đập lên bàn, mỗi lần đập con bé lại rít lên khe khẽ. Có lúc con bé kêu đúng nhịp, có lúc lại lạc nhịp.

Tôi nói to hơn để mẹ nghe thấy.

“Ông Paul còn nói sẽ giúp mẹ chuẩn bị hồ sơ vay tiền, giống như luật sư chuẩn bị cho nhân chứng trước phiên xét xử ấy.”

Mẹ tôi đập mạnh khăn giấy xuống bàn và lườm tôi cháy mặt.

“Này, hai chuyện đó đâu có giống nhau đâu, đúng không nào? Vì nhân chứng chỉ cần nói thôi. Mẹ còn phải chuẩn bị cuống lương, rồi điền tờ khai thuế nữa chứ. Mẹ cần nhiều thứ khác ngoài tiền đặt cọc và sự chấp thuận từ ngân hàng. Và chúng ta sẽ chẳng bao giờ được ngân hàng chấp thuận đâu. Còn chuẩn bị cả giấy tờ thế chấp nữa chứ.”

Cạch. Rít. Cạch. Rít.

“Đằng nào thì mẹ cũng phải xoay xở kiếm tiền thuê nhà mà.”

“Này nhóc. Con không nghe mẹ nói à. Mẹ không kiếm đủ tiền để mua nhà đâu. Mẹ không cần nhân viên ngân hàng nhắc nhở điều đó. Mẹ rất biết ơn nếu con không nhắc lại chuyện này nữa.”

“Thế thì chúng ta nên bắt đầu tìm nhà thôi”, tôi nói. “Vì có thể chúng ta sẽ phải chuyển đến nơi khác. Con chưa chắc chắn lắm, nhưng khả năng rất cao là như vậy. Con chỉ nghĩ nếu chúng ta tìm được một nơi có thể đưa Sophie đi cùng thì tốt.”

“Mẹ đang tìm trung tâm cho con bé rồi.”

Trong một giây lát, não tôi đã nổ tung. Tôi định hét thật to, và trút cơn giận lên mẹ, rồi trách móc rằng lúc nào mẹ cũng chỉ chăm chăm sợ hãi cái ngân hàng hơn là chăm lo cho em gái tôi. Tôi mở miệng, nhưng sau đó lại thấy mệt quá. Cơn giận vừa nãy ào qua như làn sóng, còn tôi giống một bãi cát khô. Tôi nghĩ, Làm thế thì có ích gì chứ? Tôi cãi nhau với mẹ làm gì? Tôi và mẹ đã đấu khẩu hàng năm nay rồi. Thật phí thời gian và công sức của tôi, nhưng kết quả lúc nào cũng thế.

Khi tôi tưởng mình đã né được tấn bi kịch khi đầu hàng mẹ, thì mẹ lại không chịu đựng nổi Sophie.

“Dừng lại đi!” Mẹ hét lên. Đúng là mẹ đã hét toáng lên thật. Sophie im bặt khoảng một hoặc hai giây gì đó, rồi con bé bắt đầu ra sức hét ầm ĩ. Mẹ tôi phải túm lấy con bé rồi ôm xuống ô tô, giống như chúng tôi hay làm hồi trước, để có thể lái xe vòng quanh, cho đến khi Sophie mất giọng và ngủ gục.

“Đúng là sai lầm sơ đẳng”, tôi nói với cánh cửa khi mẹ đóng sầm lại.