• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Mình về nhà thôi
  3. Trang 20

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 19
  • 20
  • 21
  • Sau

4Tin tưởng

K

hoảng ba tuần sau, trước ngày sinh nhật mười bảy tuổi của tôi, mẹ nảy ra ý định mua ô tô. Lúc đó là buổi sáng, và tôi đang nằm trên giường đọc sách thì mẹ ló đầu qua tấm vách ngăn phòng. Tôi chưa bao giờ thích mẹ làm như thế. Tôi muốn mẹ coi tấm vách ngăn đó là một cánh cửa. Nói chung thi thoảng mẹ cũng làm theo mong muốn của tôi, nhưng chỉ khi nào mẹ thấy thích thôi.

“Mẹ đang nghĩ về ngày sinh nhật của con”, mẹ nói. “Sinh nhật con thì sao ạ?”

“Con thấy một chiếc ô tô riêng thế nào?”

Tôi đặt cuốn sách đang đọc dở xuống. Rồi nheo mắt nhìn mẹ. Trên lý thuyết thì đó là chuyện tốt. Chuyện quá tốt ấy chứ. Có lẽ đó cũng là lí do tôi thấy có gì đó… sai sai.

“Con thấy rất vui nếu chúng ta đủ tiền mua ô tô. Nhưng chúng ta làm gì có tiền?”

“Nếu con tìm được một chiếc ô tô giá rẻ, khoảng hai hoặc ba nghìn đô, thì mẹ sẽ mua tặng con nhân dịp sinh nhật.”

“Mẹ dùng tiền đặt cọc nhà của chúng ta à?”

Tôi thấy mặt mẹ tối sầm lại. Chắc mẹ cũng biết chúng tôi sẽ lại nói đến chuyện đó. Giống như mẹ sắp đặt trước vậy. Mẹ định tiêu tiền vào một thứ tôi không thể chối từ, vì làm gì có đứa nào tầm tuổi tôi lại từ chối một chiếc ô tô đâu?

“Không ạ” tôi đáp. “Con không muốn mua ô tô, nếu mẹ định lấy tiền cọc nhà để mua cho con. Con thà chở mẹ đến chỗ làm, rồi mượn xe của mẹ để tiết kiệm tiền mua nhà còn hơn. Mà không, con thà đi bộ và đi xe buýt để tiết kiệm tiền mua nhà còn hơn.”

“Nhóc, tiền của chúng ta không phải tiền cọc nhà đâu nhé. Vì chúng ta có đủ tiền mua nhà đâu.”

“Vâng, thế thì con không muốn mua xe nếu mẹ định tiêu tiền tiết kiệm của nhà mình.”

Mẹ hít một hơi thật sâu. Trong giây lát, tôi cứ nghĩ mẹ chuẩn bị dạy dỗ tôi đến nơi. Nhưng đúng lúc đó chúng tôi nghe thấy tiếng còi xe van của trường Sophie.

“Mẹ sẽ dắt con bé xuống”, mẹ nói. “Nếu con định chở mẹ đến chỗ làm thì con mặc quần áo vào đi.”

Tôi đưa mẹ đến tiệm thuốc, rồi lái xe đến chỗ căn nhà rao bán. Hôm trước tôi đã tới đó thêm một lần. Nhưng lần đó, tôi chỉ đứng từ ngoài đường ngó vào thôi.

Lần này, tôi đậu xe của mẹ trên lối vào nhà. Sau khi ra khỏi xe và nhìn lại, tôi thấy xấu hổ vô cùng. Tôi thực lòng mong là không ai nhìn thấy chiếc xe của chúng tôi. Tôi hy vọng cô môi giới sẽ không dẫn ai đến, vì tôi không muốn bị mọi người nhìn thấy trong chiếc xe cũ mèm đó. Mặc dù chiếc xe rất giống ngôi nhà kia. Nhưng tôi cá là chẳng người khách đến mua nhà nào lại có chiếc xe thảm hại đến vậy đâu.

Tôi đi dạo xung quanh hai mẫu đất. Ở quanh khu nhà có hàng rào dây thép, nhưng không phải loại thép gai. Người ta chỉ mắc bốn sợi dây thép quanh mấy cái cột gỗ thôi. Cây cối ở đây được trồng theo từng luống. Tôi đi dạo quanh mấy hàng cây ăn quả và nghĩ tới thời điểm nơi này còn được dùng làm trang trại, tưởng tượng ra giọng nói của các bác nhân công đi hái quả và thắc mắc không biết họ làm thế nào để hái quả trên những tán cây cao kia nhỉ.

Tôi phát hiện ra một cái cây trông có vẻ khá dễ trèo. Nó có nhiều cành lớn giao nhau ở dưới tầm thấp. Tôi bắt đầu chạy lấy đà rồi bật nhảy lên nắm vào chỗ cành cây đó. Nhưng tôi trượt tay nên tuột xuống đất. Tôi lại thử bật nhảy lên lần nữa, lần này nắm chắc hơn, sau đó lại bám được đế giày vào thân cây nên dễ dàng đẩy người đu lên cành. Rồi tôi đứng dậy, ngước mắt nhìn, sau đó cẩn thận leo lên cành cao hơn. Tôi phát hiện ra một quả đào, nhưng khi lại gần mới thấy nó vẫn còn xanh và cứng lắm. Nên tôi leo cao hơn nữa. Cuối cùng, tôi leo lên cao hơn cả những tán lá, ngồi ngay dưới ánh mặt trời và ngắm nhìn dãy núi. Tôi chưa bao giờ ngắm cảnh từ ngôi nhà đó, bởi khi đứng dưới thì mấy tán cây che hết quang cảnh xung quanh mất rồi.

Tôi chỉ đứng đó một lúc và ngắm cảnh. Khi ấy tôi nghĩ, chắc mình sẽ không bao giờ hết yêu những dãy núi trùng điệp kia. Sau đó tôi thắc mắc không biết trông chúng sẽ ra sao nếu tôi quay về từ hành trình khám phá đỉnh Annapurma trên dãy Himalaya. Tôi nghĩ nơi này sẽ trở nên nhỏ bé và nhàm chán hơn một chút, nhưng có lẽ quang cảnh nơi đây vẫn rất đẹp.

Tôi tìm thấy một quả đào có vẻ chín mọng, nên cẩn thận rướn người qua đó để hái nó xuống. Nhưng tôi không rướn được quá xa, bèn kéo cành cây lại gần. Tôi tóm lấy quả đào và cố kéo nhưng nó không rụng, nên tôi nghĩ ra cách xoắn cuống đào. Cuối cùng thì nó cũng lìa cành.

Tôi ngồi lại trên cành cây đó để ngắm mấy dãy núi thêm một lúc nữa, một tay tôi níu chặt cành cây, tay còn lại thì đưa đào lên miệng cắn một miếng ngập răng. Quả đào đó đúng là chín mọng, và có vị như mùa hè vậy.

Tôi bắt đầu trèo xuống.

Khi trèo đến chỗ mấy cành cây giao nhau ở phía dưới, tôi ngồi xuống và ngoạm chặt quả đào, để hai tay nắm lấy cành cây. Rồi tôi đu người và rơi phịch xuống đất, tạo ra một đám mây bụi nho nhỏ dưới chân. Nhưng tôi không để ý và lỡ cắn phải quả đào, nên phần còn lại bị rơi xuống đất.

“Chết tiệt”, tôi nói to, trong miệng vẫn sót lại miếng đào. Tôi định nhặt quả đào lên, rửa sạch rồi ăn tiếp. Nhưng tôi đã lỡ cắn hai miếng, nên bây giờ trên đó dính đầy đất bẩn.

Tôi đành bỏ lại quả đào ở đó và quay về ngôi nhà, cố gắng thưởng thức nốt miếng đào còn lại trong miệng.

Cô môi giới đưa một người tới xem nhà. Người đàn ông đó khoảng năm mươi tuổi, trông giống kiểu người có thể vung tay kí séc ngay nếu muốn mua khu đất này.

Tôi đứng sững lại khi thấy hai người họ. Tôi nuốt vội miếng đào.

“Cô có thể giúp gì cho cháu không?” Cô môi giới hỏi tôi. Giọng cô có vẻ lãnh đạm.

“Cháu là Angie. Cô còn nhớ cháu và ông Paul Inverness đã tới gặp cô hôm trước không ạ?”

“Ồ, có chứ. Giờ cô nhớ ra cháu rồi.” “Cháu đang định đi về đây ạ”, tôi nói. “Cháu định hỏi thêm gì à?”

“Cháu chỉ muốn biết nơi này có hàng rào không thôi. Vì ông Paul sắp nhận nuôi một chú cún mới, và ông ấy sợ chú cún sẽ chạy đi mất khi chưa được dạy dỗ cẩn thận. Nên cháu nói với ông rằng cháu sẽ quay lại đây xem giúp ông ạ.”

“Thế thì ông ấy sẽ phải làm thêm một cái cổng trên lối vào đấy”, cô môi giới nói.

“Vâng ạ. Cháu sẽ báo lại với ông Paul.”

Sau đó họ chỉ nhìn tôi vì chẳng còn gì để nói nữa. Và có vẻ chẳng ai lo lắng khi thấy tôi ở đó cả.

Nên tôi nhắc lại thêm lần nữa, “Cháu về đây ạ”.

Khi tôi đi tới chỗ ô tô, tôi nghe thấy tiếng cô môi giới nói, “Cũng có vài người quan tâm đến khu đất này, như ông vừa thấy đấy”.

Khi đó tôi biết sự xuất hiện của mình chỉ tạo thêm áp lực và giúp đẩy nhanh quyết định của người mua đó hơn thôi. Tôi thấy hơi buồn, nhưng tự nhủ nên quên đi. Đằng nào chúng tôi cũng chẳng đủ tiền mua khu đất đó, nên thực sự tôi chẳng mất mát gì cả.

Nhưng tôi vẫn có cảm giác như mình vừa đánh mất điều gì.

Ba ngày sau, bà Rachel lại đến chơi nhà ông Paul. Tôi thấy khá phấn khích, vì tôi thực lòng muốn biết chuyện giữa hai ông bà đã tiến triển đến đâu.

Chúng tôi không đi cắm trại, vì mẹ nói đã chán cắm trại lắm rồi. Vậy nên chúng tôi thuê lại phòng ở nhà trọ hồi trước.

Đêm đầu tiên chúng tôi tới đó, Sophie lại bắt đầu rền rĩ, nên mẹ phải lái xe vòng quanh khoảng hai giờ thì con bé mới chịu ngủ. Khi mẹ và Sophie quay về thì đã hơn mười một giờ. Tôi biết mẹ sẽ khó mà ngủ được, bởi quá căng thẳng vì chuyện của Sophie. Nhưng sáng mai mẹ phải đi làm, nên điều đó càng khiến mẹ thêm mệt mỏi.

Tôi đánh liều hỏi mẹ lần nữa.

Tôi nói, “Mẹ thử tưởng tượng mà xem, sẽ thật tuyệt nếu chúng ta được sống ở một nơi cách xa hẳn khỏi khu dân cư, và không ai nghe thấy tiếng con bé nữa. Nếu con bé rền rĩ, thì chúng ta chỉ cần bịt nút tai và để mặc cho nó hét tới khi nào mệt thì thôi”.

“Chẳng có chỗ nào xa khu dân cư cả.”

“Chỗ này xa thật mà. Nhà dân gần nhất ở cách đó hơn một dặm cơ.”

“Con nói đùa đấy à?”

“Hôm trước con nói với mẹ rồi mà.”

“Mẹ cứ tưởng con ví von thế thôi. Con biết đấy, kiểu cách xa một dặm. Mẹ cứ tưởng con chỉ muốn nhấn mạnh là chỗ đó ở rất xa so với khu dân cư thôi.”

“Vâng. Là một dặm thật đó ạ. Xa thật sự ấy.” Tôi cảm thấy mình đã chọn đúng thời điểm khi đề cập tới chuyện nhà cửa trong lúc mẹ đang chán nản đến vậy. “Mẹ đi xem thử thì có mất gì đâu.”

“Được rồi. Trưa mai con đến đón mẹ ở tiệm thuốc, rồi mẹ con mình sẽ tranh thủ xem nhà vào giờ ăn trưa. Con có thể lái xe trong khi mẹ ăn nhé.”

Tới chỗ rẽ cuối cùng, tôi lại cảm thấy dạ dày mình thắt lại. Ngộ nhỡ tôi thấy thứ gì đó khác so với lần trước thì sao? Biết đâu ở đó lại xuất hiện vài chiếc xe chở vật liệu xây dựng, hoặc tấm biển “Cần bán” bị gỡ xuống thì sao?

Nhưng tôi tự nhủ rằng ý tưởng đó đúng là ngốc xít, vì mới có mấy ngày trôi qua thôi mà.

Tôi quay sang nhìn mẹ. Mẹ đang nhai ngấu nghiến một chiếc bánh kẹp. Một bên khóe miệng mẹ bị dính chút sa-lát cá ngừ.

“Gì thế?” Mẹ hỏi.

Tôi chỉ vào khóe miệng mình, sau đó mẹ lấy giấy ăn trong hộp dưới chân để lau vệt sa-lát đi ngay.

Chúng tôi tới khúc quẹo cuối cùng.

Tấm biển “Cần Bán” vẫn được treo ở đó. Không có xe đậu trên lối vào. Nhưng khi chúng tôi tiến đến gần hơn, thì lại thấy trên biển có gì đó khác trước. Một dải đỏ cao vài inch và dài khoảng một foot. Khi tới nơi, tôi đọc to dòng chữ lên.

“Đang bán.”

Tôi phanh kít xe ngay chính giữa đường cái. Nhưng cũng chẳng ảnh hưởng đến ai, vì lúc đó chẳng có ai đi trên đường.

“Khỉ thật”, tôi nói, giọng yếu xìu.

“Số trời đã định mà”, mẹ nói.

Tôi chẳng đáp, vì tôi đang quá buồn bực. Thế mà tôi đã nghĩ ngôi nhà này sẽ thuộc về chúng tôi cơ đấy.

“Chà, thế là mẹ con mình vừa đốt mất hai gallon36 xăng rồi. Mình về thôi, nhóc ạ.”

Thế nhưng tôi lại lái xe vào phía trong khu nhà. Có lẽ mẹ nghĩ tôi chuẩn bị quay đầu xe. Cho tới khi mẹ thấy tôi chuyển số về đỗ xe và tắt máy.

“Con định làm gì đấy?”

“Con chỉ muốn vào hái một quả đào thôi. Lần trước con còn chưa kịp ăn hết một quả. Lát nữa con sẽ hái hai quả, một quả phần mẹ ăn tráng miệng nhé.”

“Không phải như thế là… xâm nhập trái phép à?”

“Con chẳng thấy việc đó làm tổn hại đến ai cả. Đến lúc người ta bán xong nhà, thì có lẽ hai quả đào đó đã nằm thối rữa trên mặt đất rồi.”

Tôi nhảy khỏi xe trước khi mẹ kịp nói tiếp. Sau đó tôi chạy theo con đường lái xe vòng ra phía sau nhà, tới chỗ một đám cây. Tôi muốn tìm đến cái cây mình vừa trèo hôm trước, nhưng tôi chọn nhầm chỗ, và tôi cũng chẳng có nhiều thời gian nữa.

Tôi chọn một cây trông có vẻ dễ trèo nhất rồi chạy lấy đà. Tôi dùng sức bật nhảy để tóm lấy cành cây và đu chân lên thân cây.

Nhưng tôi trượt tay.

36 Khoảng 3.78 lít.

Hai đầu gối tôi trượt lên chỗ lõm giữa hai cành cây.

Hôm ấy tôi mặc quần đùi, nên hai đầu gối chẳng còn gì che chắn nữa. Nhưng chuyện sau đó còn tệ hại hơn nữa kìa. Đầu gối tôi không chỉ đập vào cành cây, mà còn trượt thêm một phát nữa. Nên tôi đã trượt ngã khỏi mấy cành cây và tiếp đất bằng đầu gối. Sau đó tôi chỉ nhớ được rằng mình đang quỳ trên mặt đất, còn mắt chân trái thì đau điếng vì bị trật.

Tôi nhìn đầu gối mình. Tôi chỉ thấy chỗ đó hoàn toàn tê liệt. Lớp da trên đó bị rách và bật hẳn lên. Ngoài lớp đất bẩn và vỏ cây găm vào da, thì chỗ đó tự nhiên trắng bệch. Như thể cơn đau chưa kịp truyền đến não tôi vậy. Sau đó thì máu bắt đầu nhỏ giọt li ti, rồi dần gộp lại thành những giọt máu to hơn, sau đó bắt đầu tạo thành vũng.

Tôi phải cố chống lại những giọt nước mắt đang chực trào. Bởi nếu tôi khóc thì mọi chuyện chỉ càng tệ hơn thôi. Cảm giác muốn khóc khi bị đau cũng giống như bạn muốn khóc khi tức giận ấy. Chuyện đó không những tệ hại, mà còn xấu hổ nữa ấy.

Tôi đứng dậy. Nhưng tôi chỉ đứng được bằng một chân thôi. Khi đó, máu đã tuôn chảy trên ống chân tôi và nhỏ xuống cả chiếc giày vải nữa. Tôi thử đứng bằng chân trái, nhưng không được. Nên tôi đành vừa nhảy lò cò về chỗ xe ô tô, vừa cố gắng hết sức để không bật khóc.

Mẹ tôi đã chuyển chỗ sang bên ghế lái. Mẹ không nhìn thấy tôi, vì còn đang mải nhìn xa xăm. Tôi phải lò cò qua bên ghế phụ để gõ cửa. Mẹ không nhìn thấy đầu gối của tôi, vì tôi đứng gần cửa quá. Mẹ chỉ nhún vai, có lẽ vì mẹ không hiểu nổi tại sao tôi không thể tự vào trong xe được.

Tôi đành từ bỏ vì không thể mong đợi mẹ giúp đỡ được.

Nên tôi tự mở cửa, nhoài người vào trong xe và lấy khoảng mười tờ giấy ăn. Tôi gấp đôi tập giấy ăn rồi ép chặt vào đầu gối để cầm máu.

Sau đó tôi phải tìm cách xoay xở ngồi vào ghế bằng một tay, trong khi đang đứng chỉ bằng một chân. Cuối cùng tôi bỏ cuộc và ngã phịch xuống ghế, nhưng cố gắng không kêu đau. Tôi dùng tay còn lại để nhấc cẳng chân đau của mình lên xe, sau đó duỗi thẳng người rồi đóng cửa.

“Con bị thương đấy à?” Mẹ hỏi.

Tôi tự hỏi mẹ đã ở đâu trong khi tôi chật vật xoay xở như vậy. Nhưng tôi không nói ra điều đó.

“Con bị xước chân thôi.”

“Vết xước đó chắc là lớn lắm nhỉ”, mẹ nói, tay mẹ chỉ vào vệt máu trên đầu gối tôi.

“Lúc nãy con chẳng có gì để cầm máu cả. Giờ con có giấy rồi, chắc máu sẽ ngừng chảy thôi.”

Mẹ chỉ lẳng lặng khởi động xe và lái ra đường cái.

“Mẹ đừng chở con về nhà trọ nhé”, tôi nói. “Mẹ chở con về nhà ấy. Ở nhà có nhiều đồ sơ cứu hơn. Và ông Paul sẽ có những thứ nhà mình không có.”

“Con có chắc là sẽ ổn không đấy?”

“Chưa ai chết vì rách đầu gối cả. Cái đó thì con chắc.” “Tiếc thật đấy. Mẹ cứ tưởng sắp được ăn đào cơ.” “Vâng”, tôi đáp. “Con cũng vậy.”

Mẹ đỗ xe ở cuối đường vào nhà ông Paul, rồi chuyển sang số đỗ xe. Tôi chỉ ngồi nhìn mẹ chằm chằm. Sau một lúc như vậy, thì mẹ đành quay sang nhìn tôi.

“Sao thế?”

“Mẹ chở con lên chỗ đầu đường được không? Con bị trật mắt cá rồi.”

“Lúc nãy con có nói thế với mẹ đâu. Con chỉ nói là bị rách đầu gối thôi mà.”

“Vâng. Thì bây giờ con đang nói cho mẹ đây. Con bị trật mắt cá rồi.”

Mẹ chuyển sang số lùi, rồi lùi xe một chút lấy đà, sau đó mẹ lái xe lên phía đầu đường. Mẹ chở tôi đến tận chân cầu thang ở ga-ra.

Bà Rachel đang đứng trên cầu thang. Chiếc cầu thang dẫn đến phòng chúng tôi ấy.

“Thế, bà ấy đang làm gì kia?” Mẹ tôi hỏi.

“Con không biết. Con sẽ hỏi bà ấy. Mẹ cứ quay lại chỗ làm đi, được không?”

Tôi mở cửa xe trước khi mẹ tôi dừng xe. Khi tôi ngước lên thì thấy bà Rachel đang đứng ngay cạnh mình.

“Bà giúp cháu một tay được không ạ?” Tôi hỏi bà Rachel. “Cháu hơi đau một chút ạ.”

“Tất nhiên rồi.”

Bà gật đầu chào mẹ tôi và giữ một cánh tay tôi để giúp tôi ra ngoài. Thậm chí tôi còn chưa giới thiệu bà và mẹ tôi với nhau, và họ cũng chưa từng nói chuyện với nhau. Tôi đứng dưới cầu thang và nghiêng người sang một bên để mọi người không thấy rõ tôi không đứng được bên chân đau. Sau đó tôi chào tạm biệt mẹ, và ra hiệu rõ cho mẹ rằng tôi muốn mẹ rời đi. Thế là mẹ tôi lắc đầu, và lùi xe đến chỗ có thể quay xe được.

Tôi ngước lên nhìn bà Rachel.

“Ta đã đi tìm cháu đấy”, bà nói. “Ta đã tới khu cắm trại tìm cháu.”

“Lần này mẹ con cháu thuê nhà trọ ạ.”

“Ta đang định lên tầng để gửi thư cho cháu. Có chuyện gì với cháu vậy?”

“Chỉ là một tai nạn ngu xuẩn thôi ạ. Là tại cháu không thể điều khiển được cơ thể mình.”

“Chúng ta lên tầng nào.”

Tôi phải quàng tay lên vai bà. Việc đó thật khó, vì bà cao lớn, còn tôi thì thấp bé hơn. Tôi phải kiễng chân lên trong tư thế khá kì quặc. Sau đó bà choàng tay qua eo tôi. Nên tôi không thể lấy tay cầm máu vết thương được nữa. Tôi đành phải để máu trên đầu gối tiếp tục tứa ra.

Khi bà giúp tôi lên tầng thì tôi lại nghĩ về mẹ. Trong khi tôi nhảy lò cò vòng quanh để tìm cách vào trong thì mẹ lại cố thủ trên xe. Cứ cho là mẹ không biết tôi gặp chuyện gì đi. Nhưng tôi vẫn nghĩ đáng ra mẹ nên biết. Giống như bà Rachel vậy.

Tôi mở cửa, và vì chúng tôi tránh bước lên tấm thảm, nên tôi làm rớt vệt máu nho nhỏ trên sàn gỗ cứng khi bà đưa tôi vào nhà tắm.

“Cháu ngồi trên thành bồn tắm nhé”, bà dặn dò. Và bà giúp tôi ngồi lên đó. “Và cháu cố gắng rửa càng sạch càng tốt. Ta sẽ qua nhà Paul lấy bộ đồ sơ cứu.”

Và tôi nghĩ, Thấy chưa? Ông Paul có bộ đồ sơ cứu mà. Ông còn có cả đèn pin đề phòng khi mất điện nữa. Ông là con người như thế đó. Còn chúng tôi thì không.

Tôi ngồi trên tràng kỷ, đầu gối gác trên tay ghế cuộn bằng da. Một chiếc khăn cũ được lót dưới chân tôi để thấm máu và nước oxy già. Bàn chân tôi thì gác lên một chồng gối đặt trên ghế đẩu để cao hơn đầu gối. Bà Rachel đã quấn mắt cá chân tôi lại bằng cuộn băng co dãn trong hộp đồ sơ cứu của ông Paul. Bà còn chườm cho tôi một túi đá lạnh nữa.

Bà đeo kính đọc sách và săm soi thật kĩ đầu gối của tôi. Bà đang cầm một chiếc nhíp để gắp những mảnh thân cây còn sót lại.

“Á!” Tôi ré lên khi bà gắp ra một mảnh. Tôi đã cố gắng không kêu gì cả, nhưng thi thoảng vẫn chẳng thể kiềm chế nổi, nên lỡ bật ra một vài tiếng nho nhỏ.

“Ta xin lỗi”, bà nói.

“Bà đừng nói xin lỗi cháu nữa ạ.”

“Ta cũng không muốn làm cháu đau đâu. Nhưng nếu không rửa sạch bụi bẩn và gắp những mảnh thân cây găm vào đầu gối cháu, thì khó tránh khỏi nhiễm trùng lắm. Ta muốn gắp được càng nhiều càng tốt. Cháu cố gắng thêm một lần nữa nhé.”

Lần này tôi chỉ thở hắt ra một tiếng. Nhưng phải cố lắm mới kiềm chế được đấy. Tôi phải nín thở, rồi cắn chặt hai hàm răng lại.

Tôi không thể ngừng run rẩy. Tôi chỉ nhớ một lần tôi từng đau run mình mẩy đến vậy thôi. Tôi không biết vì sao một vài cơn đau khiến con người ta run rẩy, nhưng số khác thì không. Tôi nghĩ có lẽ điều này liên quan tới việc tôi cảm thấy dễ tổn thương ra sao. Chỗ oxy già bà dùng để rửa vết thương sau khi gắp dằm khiến đầu gối tôi đau buốt như có ngàn chiếc kim châm vậy.

Tôi lại nhìn bà Rachel, và lần này tôi cũng cảm thấy bà là một người mẹ tuyệt vời. Và có lẽ mọi chuyện sẽ tốt hơn nhiều, nếu tôi có một người mẹ đúng nghĩa. Nhưng lần này, tôi chỉ nghĩ thầm thôi.

“Bà tới tìm cháu vì chuyện gì thế ạ?” Tôi hỏi. “Bà định để lại lời nhắn gì cho cháu vậy ạ?”

Mắt bà dường như tối sầm lại. Có một đám mây chẳng hiểu từ đâu đến ngăn cách giữa hai chúng tôi.

“Ôi”, tôi nói. “Có chuyện gì không ổn rồi.”

“Ta xin lỗi, Angie à. Ta đã gây rắc rối cho cháu rồi. Ta không cố ý làm vậy đâu. Đó đúng là một sai lầm ngu ngốc.”

“À, cháu có thể hiểu được mấy sai lầm ngu ngốc mà.” Tôi tự hỏi sao mình lại nói thế, trong khi tôi đang muốn nghe xem chuyện bà định nói là gì.

“Đêm qua ta khá mệt và buồn ngủ, lúc đó chúng ta chuẩn bị đi ngủ rồi. Nhưng ta chẳng nghĩ ngợi gì, nên đã trích dẫn một điều cháu kể khi nói chuyện với ta. Chỉ là một điều nhỏ xíu vô hại thôi. Là chuyện cá có cắn câu hay không ấy.

Và đương nhiên, sau đó ông ấy muốn biết chúng ta đã nói chuyện với nhau khi nào, về cái gì, và tại sao ông ấy lại không biết điều đó.”

Tôi cảm thấy rùng mình và lạnh ớn xương sườn. Tình hình hiện tại đã đủ tệ hại lắm rồi. Tai họa mới này cũng chỉ là thêm dầu vào lửa thôi.

“Bà đã nói gì với ông ấy vậy ạ?”

“Ta cố gắng tiết lộ ít thông tin nhất có thể. Nhưng giờ ông ấy đã biết cháu đến chỗ ta rồi. Sau đó ta không nói gì nữa. Ta cũng từ chối trả lời vài câu hỏi của ông ấy. Nhưng ta không muốn nói dối ngay trước mắt Paul.”

“Cháu không bao giờ muốn bà nói dối ông Paul đâu. Cháu không muốn vậy, nếu bà có hỏi cháu về điều đó.”

“Ừm, ta nghĩ ông ấy sẽ sang hỏi chuyện cháu đấy. Ta sẽ để lại bông và oxy già lại cho cháu. Cháu cố gắng rửa nước oxy già càng lâu càng tốt nhé. Sau đó cháu hãy bôi thuốc mỡ kháng sinh này lên vết thương. Ta cũng để lại cho cháu năm miếng gạc và một cuộn băng dính nữa. Cháu nhớ phải rửa sạch và thay băng gạc khoảng một hoặc hai lần mỗi ngày đấy.”

“Cháu cảm ơn ạ.”

“Ta xin lỗi, Angie à. Ta nghĩ mình đã làm cháu thất vọng.” “Cháu đã lường trước rủi ro mà.” Tôi lại thất bại rồi. Lại rơi xuống tận cùng vực thẳm lần nữa. Và lại đánh mất mọi thứ. Tôi chẳng cần cố gắng che đậy làm gì nữa. Mọi thứ đều quá thảm hại, nhưng tôi đành chấp nhận. “Ông Paul có buồn lắm không ạ?”

“Còn hơn ta tưởng nữa. Paul không tin tưởng nhiều người, nên ta nghĩ đó là lí do ông ấy thấy bị đả kích. Ta sẽ tiếp tục cố gắng nói chuyện với ông ấy.”

Bà lau sạch vết máu trên sàn nhà trước khi rời đi và để tôi lại một mình.

Bình thường tôi vẫn thích được ở một mình. Nhưng lần này, sao tôi thấy cô đơn quá.

Có lẽ tôi không chỉ cô đơn trong mỗi căn phòng này đâu.

Khoảng một giờ sau, ông Paul lên phòng tôi. Khi tôi nghe tiếng ông bước chân trên cầu thang, tự nhiên tôi cảm thấy nhẹ nhõm lạ thường. Giống như phạm nhân chờ đợi đao phủ đến hành hình ấy. Thà tôi cứ đối mặt cho xong còn hơn.

Ông gõ cửa, và tôi nói vọng ra, “Cửa đang mở, ông cứ vào đi ạ”.

Ông thấy tôi đang nửa nằm nửa ngồi trên tràng kỷ, chân giơ lên cao, và trên đầu gối còn có một cục bông đẫm oxy già đang nhỏ giọt lên chiếc khăn phía dưới. Khoảnh khắc đó như ngưng lại vì cái đau như ngàn chiếc kim châm của oxy già. Tôi chẳng muốn tự biện hộ cho mình nữa. Giả như lúc này ông rút ra một con dao, có lẽ tôi cũng sẽ để ông đâm chết tôi luôn.

Nhưng ông chẳng hề mang dao tới. Ông cũng chẳng hề to tiếng với tôi. Tôi thì đã mong ông quát mắng mình.

“Cháu đến nói chuyện với Rachel à?” Ông chỉ hỏi nửa câu thôi.

Tôi im lặng một lúc.

Rồi tôi nói, “Ông còn nhớ ngày đầu tiên cháu gặp ông không ạ? Cháu đã hằm hằm đi tới nhà ông và một mực nói ông là người đã gọi điện báo chuyện nhà cháu cho cảnh sát. Ông đã nói khi ông làm chuyện gì, thì đó là vì ông nghĩ chuyện đó là đúng đắn. Vậy nên sau đó ông sẽ không nói dối rằng mình không làm. Ông sẽ thừa nhận mình đã làm, và giải thích tại sao ông lại làm thế. Nên là… vâng. Cháu đã về nhà cũ và nói chuyện với bà Rachel. Vì ông quả quyết rằng ông sẽ không bao giờ tỏ tình với bà. Nhưng cháu thì muốn hai ông bà đến được với nhau”.

“Và có thể chuyện đã không thành. Cháu có thể đã làm mọi chuyện hỏng hết.”

“Có thể ạ” tôi đáp. “Nhưng khi đó cháu nghĩ rằng, nếu cháu nói với bà ấy, và nếu bà ấy không có tình cảm với ông, thì bà ấy có thể vờ như cháu chưa từng nói. Và hai ông bà sẽ chẳng thấy ngượng ngùng khi ở bên nhau. Và như thế thì tình bạn của hai người sẽ chẳng sứt mẻ gì cả. Cháu cũng biết chuyện đó là mạo hiểm. Cháu đã biết ngay từ đầu rồi. Nhưng cháu làm thế, vì cháu nghĩ đó là điều đúng đắn, dù cháu hoàn toàn hiểu lí do ông tức giận đến thế. Cháu biết mình đã đem tình bạn của ông và cháu ra đánh cược.”

Ông đứng nhìn tôi thêm một phút nữa. Nhưng tôi không thể nhìn ông lâu được. Vì tôi không nhận ra khuôn mặt ấy. Tất nhiên đó vẫn là khuôn mặt của ông Paul. Nhưng đó không phải ông Paul tôi quen. Không phải ông-Paul-bạn-tôi. Ông Paul đó đã đi đâu mất rồi ấy.

“Cháu làm gì mà bị thương vậy?” Ông hỏi tôi.

“Chuyện đó không quan trọng đâu ạ. Là do cháu ngu xuẩn thôi. Cháu đã cố trèo cây. Người ta bán ngôi nhà đó rồi ạ. Chúng cháu chẳng còn cơ hội mua lại nó nữa. Thực ra không hẳn là chúng cháu định mua, nhưng…”

“Cháu nghe này.” Ông nói thẳng thừng, khiến tôi thấy sợ. Và mệt mỏi nữa. “Ta hiểu là cháu đã làm một chuyện sai trái vì mục đích đúng đắn. Nhưng cháu đã đánh mất lòng tin của ta. Đó là thông tin nhạy cảm nhất ta từng kể với người khác, và cháu lại đem kể nó cho một người nhạy cảm nhất trong cuộc. Ta hiểu việc cháu làm không phải là nói xấu hay ngồi lê đôi mách, nhưng ta nghĩ mình vẫn không thể tha thứ cho cháu được.”

Mấy từ cuối giống như một cú thụi vào giữa bụng tôi vậy. Tôi nghĩ không còn gì tệ hơn được nữa, vì tôi đã xuống tới tận đáy rồi. Và tôi làm gì còn đáy nào để rơi xuống nữa đâu.

Nhưng tôi đã lầm.

Khi tôi ngước lên, thì ông đã đi đến cửa, bàn tay ông đặt trên tay nắm. Đầu ông nghiêng nghiêng. Trông ông có vẻ thấp hơn bình thường, như thể những điều xảy ra khiến ông nhỏ bé lại.

“Vậy”, tôi nói. “Cháu nghĩ mẹ con cháu phải dọn khỏi đây ngay thôi.”

Ông quay lại nhìn tôi. Ánh mắt ông có vẻ bối rối và xa lạ. Như thể ông vừa phải dọn dẹp sạch sẽ tâm trí để trả lời tôi vậy.

“Ta đã nói với cháu từ khi cháu chuyển tới đây, rằng nếu mọi chuyện không ổn, thì cháu có thể ở tạm cho tới khi tìm được nơi ở mới. Nên ta sẽ giữ lời hứa về điều đó. Nhưng còn chuyện ta và cháu là bạn bè thì… bạn bè phải là những người ta có thể tin tưởng được.”

Tôi không định xấu tính đâu, nhưng khi đó tôi đã thắc mắc bạn bè ông Paul là ai đấy. Ngoài bà Rachel ra.

Và, dường như ông đọc được suy nghĩ của tôi, ông nói tiếp, “Ta không có nhiều bạn đâu. Và giờ cháu biết lí do rồi đấy. Ta sẽ không làm bạn với những người ta không thể tin tưởng, kể cả khi điều đó nghĩa là ta không có người bạn nào hết”.

Tôi chợt hiểu ông đang nhớ Rigby nhường nào. Có lẽ chỉ có Rigby mới đáp ứng được yêu cầu của ông thôi.

“Cháu hy vọng chuyện này không ảnh hưởng tới mối quan hệ của ông và bà Rachel. Cháu cảm giác gần đây chuyện giữa hai người đang có nhiều tiến triển. Ông đừng để chuyện của cháu làm ảnh hưởng, ông nhé? Cháu xin ông đấy.”

Ông lại nhìn tôi bằng ánh mắt từ phía bên kia hàng rào nhà Dì Vi. “Cháu vẫn chưa chịu hiểu rằng chuyện giữa Rachel và ta là chuyện riêng của chúng ta nhỉ?”

“Vâng. Cháu hiểu rồi ạ. Cháu xin lỗi.” Sau đó ông về nhà.

Mẹ tôi về nhà sau ba giờ chiều một chút. Mẹ tự mở cửa, sau đó mẹ cứ đứng đó nhìn tôi như thể tôi cố tình làm khổ mẹ vậy.

“Con không nói với mẹ là con bị thương nặng đến thế.”

“Lúc đó tâm trí mẹ còn đang mải lang thang đi đâu ấy.”

“Nghĩa là sao?”

“Con không biết. Trông mẹ như thể người trên trời ấy.” Mẹ lại chống nạnh. Mẹ thường làm thế mỗi khi biện hộ cho chính mình. “Nếu con định nói là mẹ không chú ý đến con khi con bị thương, thì có thể con nên nghĩ lại rằng mẹ luôn hỏi con có ổn không, và con lúc nào cũng nói là ổn. Như kiểu con muốn mẹ đừng can dự đến chuyện của con ấy.”

Tôi nghĩ ngợi một hồi, rồi đáp, “Mẹ nói đúng ạ”.

Có lẽ đó không phải phản ứng mẹ mong đợi. Nên chúng tôi chẳng tiếp tục tranh cãi về chuyện đó nữa.

Một lát sau, mẹ nói, “Thôi. Đi nào”. “Đi nào gì cơ ạ?”

“Sophie sắp về nhà đến nơi rồi. Chúng ta còn phải quay lại nhà trọ mà.”

“Chắc không cần đâu ạ. Chúng ta bị đuổi luôn rồi. Nên có lẽ chúng ta có thể lẳng lặng ở lại đây. Con không nói là chúng ta bị đuổi ngay hôm nay đâu. Nhưng chúng ta chẳng còn được chào đón ở đây nữa. Nên có lẽ điều đó chẳng quan trọng nữa rồi.”

“Chuyện quái gì đã xảy ra vậy hả, Angie?”

“Chuyện dài lắm ạ. Ngày hôm nay của con đã đủ tồi tệ lắm rồi. Hôm khác con kể cho mẹ được không ạ?”

Bà Rachel gọi lại cho tôi lúc chín rưỡi tối hôm đó.

Mẹ mang điện thoại đến cho tôi. Một tay mẹ bịt ống thoại rồi thì thào, “Điện thoại của con đấy. Là Bà hoàng đấy”.

“Con mong mẹ đừng gọi bà ấy như thế nữa. Con thấy khó chịu lắm.”

Mẹ chẳng nói năng gì, chỉ đưa điện thoại cho tôi. “Bà Rachel ạ?” Tôi hỏi.

“Ừ”, bà đáp. Như thể câu hỏi của tôi làm bà đau lòng. Như thể câu hỏi ba từ đó làm đảo lộn mọi thứ. “Ta xin lỗi vì gọi điện cho cháu muộn thế này. Mong là ta không làm mẹ và em cháu tỉnh giấc.”

Tôi nhìn xuống Sophie. Con bé đang cuộn người ngủ say sưa trên tấm thảm.

“Trừ Sophie ra thì cháu và mẹ vẫn còn thức ạ. Và bà không làm con bé tỉnh giấc đâu ạ. Sao bà không lên chỗ cháu nói chuyện ạ?”

“Ta về nhà rồi. Chứ không phải ở bên nhà Paul đâu.” “Ôi, không.”

“Không sao mà. Paul và ta sẽ làm lành thôi. Ta nghĩ vậy. Ta nghĩ chúng ta quen nhau quá lâu rồi, có lẽ chẳng còn gì ngăn trở chúng ta được nữa. Nhưng ta lo lắng về Paul và cháu ấy.”

Tôi quay sang nhìn mẹ. Mẹ tôi đang ngồi bên bàn bếp, lưng mẹ cố rướn thẳng. Rõ ràng mẹ đang nghe tôi nói chuyện. Tôi chẳng có chỗ nào riêng tư trong căn phòng này. Nhưng lết ra ngoài kia nói chuyện thì cũng chẳng bõ công. Nên tôi đành để mẹ tiếp tục nghe lén.

“Chẳng còn ‘Paul và cháu’ nữa đâu ạ. Ông ấy không muốn làm bạn với cháu nữa. Và cháu nghĩ mình phải tôn trọng quyết định của ông ấy.”

“Ôi trời, ta đã sợ điều đó sẽ xảy ra mà. Có lẽ ông ấy sẽ nghĩ lại thôi.”

“Cháu không nghĩ vậy đâu ạ. Có lẽ ông ấy vẫn đối xử với cháu như một người bình thường. Nhưng cháu nghĩ chúng cháu không thể làm bạn được nữa rồi.”

“Ta sẽ tiếp tục thuyết phục ông ấy. Có lẽ ta sẽ giúp được gì đó chăng.”

“Thế thì tốt quá ạ. Nhưng cháu sẽ chẳng cố gắng chờ đợi nữa đâu.”

“Nếu cháu được làm lại thì sao?” “Ý bà là sao ạ?”

“Chuyện đến gặp ta ấy. Và kể cho ta sự thật. Nếu cháu được làm lại thì sao?”

“Cháu vẫn sẽ làm thế ạ.”

“Kể cả khi cháu phải hy sinh mái ấm và người bạn thân của cháu á?”

“Cháu chỉ cảm thấy…” Nhưng tôi dừng lại. Tôi biết mình cảm thấy thế nào. Nhưng tôi không biết nên diễn tả cảm giác đó ra sao. Tôi cố nói lại lần nữa. “Cháu cảm thấy một tình yêu như vậy… một tình yêu vẫn vẹn nguyên sau năm mươi năm trời… Cháu không nghĩ người ta nên bỏ lỡ thứ tình cảm đó.”

“Ta sẽ kể lại điều cháu nói cho ông ấy”, bà đáp.

Khi tôi gác máy thì thấy mẹ đang nhìn tôi chằm chằm.

“Mẹ có rất nhiều thời gian để nghe câu chuyện dài của con đấy”, mẹ nói.

Tôi thở dài. “Con đã quay lại nhà cũ của ông Paul và kể cho bà Rachel về tình cảm của ông ấy. Và ông không hề biết con định làm thế. Nhưng bây giờ ông đã biết, và ông đang cực kì tức giận với con.”

Mẹ im lặng hồi lâu. Một lát sau, tôi ngước lên nhìn mẹ. “Ồ”, tôi nói. “Trông mẹ cũng có vẻ tức giận.”

Tôi nghĩ, Chà, mọi thứ thành sự thật rồi này. Bây giờ, ngoại trừ bà Rachel, thì cả thế giới đều ghét mình rồi.

“Con làm việc đó… dù biết nếu chuyện không thành thì mọi thứ sẽ bung bét hết, còn nếu thành công thì chúng ta sẽ bị đuổi khỏi nhà á?”

Tôi gật đầu.

“Và con vừa nói với bà ấy là con sẽ làm lại điều đó.” “Hóa ra mẹ nghe lén con nói chuyện.”

“Mẹ không hiểu điều đó, Angie ạ. Mẹ thề, mẹ thật không hiểu nổi con chút nào.”

“Con biết mẹ không hiểu. Mẹ tin con đi. Con biết mà. Nhưng những điều con thích nhất về bản thân mình lại là những điều mẹ không hiểu nổi. Con không cố ý làm mẹ tổn thương đâu. Con cũng không nói ra những lời này vì tức giận đâu nhé. Con cũng đã mong mẹ và con hòa hợp với nhau hơn. Nhưng con sẽ không thay đổi phần tốt đẹp của bản thân chỉ vì mẹ không hiểu được đâu.”

Tôi đợi mẹ trả lời, nhưng mẹ chẳng nói năng gì cả.

Một lúc sau, tôi quyết định từ bỏ và không đợi mẹ nữa.

Sáng hôm sau, tôi nhét một lá thư nhỏ vào khe cửa sau nhà ông Paul. Mặc dù phải đi bộ và trèo cầu thang với cái chân đau để lên đó, nhưng tôi vẫn cố gắng.

Tôi viết trên đó rằng, “Sau khi đọc xong, ông có thể bỏ lại mấy tờ báo ở đầu cầu thang sau nhà được không ạ? Cháu muốn tìm nhà cho thuê”.

Ông không bao giờ trả lời lá thư đó. Nhưng sau đó, ngày nào tôi cũng thấy có báo để trên đầu cầu thang sau nhà trước tám giờ sáng.

Mười hay mười một ngày trôi qua, và lúc ấy tôi đang ngồi bên bàn bếp cùng mẹ. Còn Sophie đang lẳng lặng vẫy tay trong không khí, thậm chí con bé còn chẳng buồn đụng đến bữa sáng. Tôi đang đọc mục quảng cáo nhà đất, một tay tôi cầm tờ báo, còn tay kia xúc ngũ cốc. Lúc đó mới khoảng bảy rưỡi sáng. Ông Paul đã bỏ báo ra đầu cầu thang sớm hơn mọi hôm.

“Có chỗ nào phù hợp không?” Mẹ tôi hỏi.

Sáng nào mẹ cũng hỏi vậy, trừ khi tôi đọc báo sau khi mẹ đi làm. Tôi thắc mắc tại sao mẹ không tin tưởng rằng tôi sẽ báo cho mẹ khi tìm được gì đó. Nói chuyện phiếm kiểu lo lắng, hồi hộp thế này khiến tôi thấy không thoải mái.

“Cũng tùy ạ”, tôi đáp. “Mẹ muốn hỏi về giá phù hợp với nhà mình á?”

“Nếu không phải thì mẹ nghe làm gì?”

“Thế thì không có đâu ạ. Chẳng có chỗ nào phù hợp cả.” “Con đang đọc mục ‘Nhà cho thuê’, chứ không phải ‘Nhà cần bán’, phải không?”

“Con đọc cả hai mà.”

“Con đang tốn thời gian thôi, nhóc ạ. Chúng ta còn chẳng đủ tiền mua lại chỗ tồi tàn đó, và có lẽ chúng ta chẳng bao giờ tìm được chỗ nào rẻ đến thế nữa đâu. Xung quanh đây không có đâu. Con chấp nhận đi. Chúng ta sẽ quay lại thành phố. Ở đó mới có nhà cho thuê giá rẻ, và Sophie cũng sẽ ở trong thành phố, nếu chúng ta muốn gặp con bé.”

Trước khi mẹ kịp nói hết câu, thì tôi chợt nhìn thấy gì đó trong danh sách.

“Có chỗ này rẻ như chỗ lần trước này mẹ. À. Khoan đã. Là chỗ lần trước mà.”

Tôi đọc cả danh sách, không thể nào trùng hợp đến thế được. Thậm chí cả tên nhân viên môi giới cũng giống nữa.

“Có lẽ họ nhầm thôi”, tôi nói. “Có lẽ họ đăng nhầm quảng cáo cũ rồi.”

“Hoặc có khi người ta lại không mua chỗ đó nữa. Nhưng mẹ không chắc có khác biệt gì không, nhóc ạ. Vì chúng ta vẫn chẳng có tín chấp gì hết. Và giờ con cũng chẳng còn chuyên gia tư vấn khoản vay làm quân sư nữa chứ.”

“À. Phải rồi.” Tôi ăn thêm ba thìa ngũ cốc nữa, hai hàm răng nhai rào rạo. Sau đó tôi nói, “Mẹ tới văn phòng môi giới cùng con đi. Hôm nay mình đi sớm hơn một chút. Con sẽ đưa mẹ đi”.

“Mắt cá chân con lành hẳn chưa?”

“Cũng kha khá rồi ạ. Con có thể đi khập khiễng được mà.” “Mẹ không nghĩ là văn phòng môi giới mở cửa sớm thế đâu.”

“À vâng. Thế thì đợi giờ ăn trưa vậy. Con sẽ đến đón mẹ.” “Nhưng để làm gì hả nhóc?”

“Con chỉ muốn hỏi xem chuyện gì đã xảy ra với khu đất đó thôi. Con muốn biết tại sao người ta lại tiếp tục rao bán nó. Nhưng con không thể đến đó một mình được. Con không nghĩ người ta sẽ coi trọng con, nếu con tới đó một mình. Con cần đi cùng người lớn.”

“Mẹ con mình giao kèo đi”, mẹ nói. “Hôm nay mẹ sẽ đi đến văn phòng môi giới cùng con, nếu con chịu đặt ra một thời hạn để ngừng tìm nhà ở đây rồi chuyển về sống ở thành phố. Mẹ cho con hai tuần nữa nhé.”

Tôi ghét kiểu đó kinh khủng. Vì đánh cược kiểu đó rất tệ. Tôi biết mình nên tránh kiểu đặt cược đó, khi phải chọn một hy vọng mong manh và đặt cược tất cả những thứ còn lại.

“Được rồi”, tôi đáp. “Con đồng ý.”

Đó là một văn phòng nhỏ với không gian mở. Trong đó chỉ có bốn bàn làm việc, và hiện tại chỉ có hai người trong văn phòng. Một chú tôi không biết, và cô môi giới tôi từng gặp lần trước.

Cô môi giới ngước lên nhìn chúng tôi và nheo mắt. Tôi ước cô ấy đừng lúc nào cũng chỉn chu đến thế. Tôi ước cô ấy đừng làm mẹ tôi sợ hãi.

“Cô biết cháu, phải không?” Cô hỏi trong khi nhìn tôi.

“Cháu… à nhà cháu có ý định mua ngôi nhà xập xệ có vườn cây ăn quả đó. Cháu đã tới đây cùng ông Paul Inverness để gặp cô. Cô còn nhớ không ạ?”

“À, có chứ”, cô đáp, sau đó cô đứng dậy, và bắt tay với mẹ tôi. Chứ không phải với tôi. Tôi nghĩ như thế thật kì quặc. “Đây là mẹ cháu phải không?”

“Vâng”, tôi đáp. “Sáng nay cháu lại thấy trên báo đăng thông tin về ngôi nhà đó.”

“Ừ, giao dịch đó thất bại rồi.” “Thất bại ạ? Có chuyện gì thế ạ?”

“Cô không thể cung cấp thông tin chi tiết về khách hàng tiềm năng của mình được.”

“Vâng. Chắc chắn rồi. Cháu chỉ… Ý cháu là, cháu không hiểu nổi điều đó nghĩa là sao? Tại sao một người có ý định mua nhà, sau đó giao dịch lại thất bại được ạ? Điều gì khiến họ suy nghĩ lại thế ạ?”

“Ồ. Nói chung là.” Cô lại ngồi xuống. Có lẽ cô biết việc này không đáng để cô tốn nhiều công sức đến thế. “Thi thoảng người mua nhà có thể thay đổi ý định, nhưng thông thường chuyện này có liên quan đến vấn đề tiền nong. Họ nghĩ mình xoay xở đủ số tiền đặt cọc, hoặc ngân hàng sẽ chấp nhận cho họ vay tiền. Nhưng thi thoảng suy nghĩ của họ hơi lạc quan quá.”

Tôi cứ đứng yên như phỗng. Mặc dù tôi biết mình nên nói gì đó. Vì tôi vừa nghiệm ra một điều làm thay đổi toàn bộ thế giới quan của mình. Người mua nhà tôi đã gặp, người trông có vẻ sẵn sàng viết séc chi tiền mua nơi đó ấy. Bác ấy hóa ra cũng chẳng giàu có như tôi từng nghĩ. Vậy đó, tôi cứ nghĩ là mọi người đều có điều kiện, và họ đều coi thường chúng tôi. Nhưng hóa ra nhiều người trong số họ chỉ ra vẻ có tiền thôi. Họ chỉ lạc quan thái quá thôi.

Cô môi giới đã chán ngán vì chờ đợi.

“Nếu ông cháu vẫn muốn mua khu đất đó, thì cháu nhắn ông tới gặp cô nhé.”

“Vâng ạ”, tôi đáp.

Mẹ và tôi lại bước ra ngoài, trong ánh nắng chói chang của mùa hè.

“Thế con hỏi được thêm điều gì vậy?” Mẹ hỏi trong khi chúng tôi đứng chớp chớp mắt trên vỉa hè.

“Con không biết.” Mà đúng thế thật. Về chuyện ngôi nhà, tôi chẳng biết nữa. Nhưng hôm nay tôi đã biết thêm một chuyện khác. Một điều mà trước đây tôi chưa từng nghĩ tới. “Mẹ có nghe thấy cô ấy nói gì không?”

“Gì cơ?”

Mẹ ra hiệu rằng chúng tôi nên vừa đi vừa nói. Chúng tôi đến chỗ ô tô. Vì đau chân nên tôi đi khá chậm, và hầu như không thể đuổi kịp theo mẹ.

“Cô ấy nói là nhiều người quá lạc quan.” “Ừ, thế thì sao?”

“Nhân viên môi giới nhà đất gặp chuyện đó suốt mà.

Có nhiều người mua nhà ngay cả khi không có đủ tiền, hay tín chấp ngân hàng ấy.”

“Mẹ không rõ con đang định chứng minh điều gì.”

“Thì mẹ nghĩ mỗi chúng ta là không có tín chấp, cũng chẳng có tiền. Mẹ thừa nhận đi. Mẹ từng nghĩ những người đi đến văn phòng nhà đất, hay bước vào ngân hàng, đều có đủ tư cách. Mẹ từng nghĩ họ sẽ đối xử với chúng ta, như thể chúng ta là trường hợp đầu tiên không đủ điều kiện vay tiền mua nhà vậy.”

Mẹ lặng thinh.

Chúng tôi lẳng lặng tiến về chỗ ô tô. Mẹ vào trong xe trước, rồi mở cửa bên ghế hành khách cho tôi. Tôi ngồi vào đó, thắt dây an toàn, và tiếp tục suy nghĩ xem mình có nên nói tiếp về vấn đề này không.

Khi mẹ đánh xe ra ngoài, mẹ nói. “Chắc là mẹ đã nghĩ thế thật. Ừ, đúng vậy.” Rồi, một lúc sau, mẹ nói tiếp, “Nhưng mẹ không chắc điều con nói có thể thay đổi được gì không”.

Tôi không đáp. Vì chính tôi cũng không rõ. Trong suy nghĩ của tôi có gì đó đã thay đổi. Nhưng tôi không chắc mục tiêu mua nhà của tôi có khác đi không.

Nói chung tôi đã đầu hàng trước thế giới quan mới được khai sáng kia, và chuẩn bị sẵn tinh thần chuyển về thành phố.

Tôi đưa mẹ đến chỗ làm rồi lái xe về nhà. Tôi lê bước lên tầng và tựa cả người vào tay vịn. Tôi nhặt tờ báo trên bàn, tìm một chiếc bút nhớ rồi khoanh tròn tin quảng cáo nhà. Sau đó tôi vẽ mấy mũi tên to đùng chỉ vào ngôi nhà đó. Phía dưới, tôi viết “NÓ ĐÃ TRỞ LẠI” bằng chữ in hoa cỡ lớn.

Rồi tôi lại lết xuống dưới nhà, và chậm rãi lê bước lên cửa sau nhà ông Paul. Tôi để tờ báo lên hiên nhà và nhét một góc báo vào khe cửa để nó khỏi bay đi mất.

Khoảng một giờ sau, tôi nhòm qua cửa sổ thì tờ báo đã biến mất. Ông Paul đã đem nó vào nhà.

Tôi ngồi trên mép tràng kỷ cả ngày và hy vọng. Tới tận lúc tôi phải đi đón mẹ.

Sau đó tôi lại ngồi trên mép tràng kỷ cả tối và hy vọng tiếp, cố không tỏ vẻ quá lộ liễu.

Nhưng tôi chẳng thấy ông Paul có động tĩnh gì cả.

Hai ngày sau, tôi vẫn cứ thấp thỏm chờ đợi thì nghe thấy tiếng bước chân lên cầu thang. Lúc đó mới có hai giờ chiều, nên chắc mẹ tôi còn lâu mới về nhà. Tôi chạy - à, tôi cố cà nhắc thật nhanh đến chỗ cửa để chực mở cửa khi nghe thấy tiếng gõ.

Nhưng cuối cùng lại chẳng có tiếng gõ cửa nào cả.

Thay vào đó, tôi thấy một bức thư được nhét qua khe cửa. Bức thư đó nằm trong một chiếc phong bì dán kín màu tím oải hương. Tôi nhặt bức thư và quay lại chỗ tràng kỷ. Hai tay tôi run run, nhưng cuối cùng tôi cũng xé được phong bì và mở bức thư ra.

Đó không phải thư của ông Paul. Mà là của bà Rachel. Ruột gan tôi chùng xuống. Tôi biết mình có thể ngả người xuống ghế và tiếp tục thở bình thường được rồi. Vì sự đổi thay đột ngột mà tôi hy vọng sẽ chẳng bao giờ xảy ra đâu.

Tôi cứ nghĩ việc ngôi nhà đó được tiếp tục rao bán sẽ khiến ông thay đổi suy nghĩ. Nhưng tôi ngồi đó cùng bức thư chưa đọc của bà Rachel trên đùi, và thấy mình hơi ngốc khi đã nghĩ như vậy. Rốt cuộc chỉ có mỗi tôi quan tâm đến ngôi nhà xấu xí, tồi tàn đó thôi. Tôi chẳng hiểu sao bản thân lại mong có người khác có cùng suy nghĩ như mình cơ chứ.

Tôi cầm thư lên đọc.

Bà Rachel chỉ viết trong đó là bà tới đây chơi, và bà muốn báo cho tôi biết. Và bà sẽ cố gắng thuyết phục ông lần nữa.

Nhưng tôi nghĩ mình biết rõ kết quả sẽ ra sao rồi.

Khoảng chín, mười giờ sáng hôm sau, tôi đi bộ vào thị trấn.

Dù xét trên cấp độ nào, thì đó vẫn là một quyết định ngu ngốc.

Thứ nhất là mắt cá chân tôi vẫn chưa khỏi hẳn để đi bộ xa đến thế. Đầu gối tôi vẫn chưa lên vảy hết, một phần vết thương vẫn còn hở, nên mỗi lần gập đầu gối tôi đều đau điếng người. Và toàn bộ mục đích của chuyến đi bộ này, theo cách nói của mẹ tôi, là một việc vô ích.

Tôi dự định đến xem ngôi nhà đó một lần nữa. Để chào tạm biệt nó trước khi chúng tôi rời thị trấn. Hơn nữa, tôi muốn thử cảm nhận xem mình đã bao giờ thực sự thuộc về nơi đó chưa. Như thể đáp án có thể thay đổi vậy.

Thật không may là tôi chẳng nghĩ tới những điều này trước khi mẹ đi làm.

Tôi đang cà nhắc vào thị trấn thì một chiếc xe ô tô dừng ngay bên cạnh. Tôi cố tình không nhìn, bởi nếu như một gã biến thái bám đuôi bạn bằng ô tô, thì bạn không nên làm gì để khuyến khích hắn thêm nữa.

Nhưng tôi nghe thấy người đó gọi, “Angie ơi!”. Chắc chắn đó là giọng ông Paul.

Ông đã mở sẵn cửa xe, nên tôi lết về phía đó rồi nghiêng người nhìn ông. Tôi muốn nói gì đó, nhưng tim tôi đập quá mạnh, và tôi gần như không thở nổi. Vì tôi không biết ông tới đây với mục đích gì, liệu ông định nói gì tốt đẹp hay làm tổn thương tôi, và tôi thì không chịu nổi khi phải chờ đợi.

“Ta đang đi tìm cháu đấy”, ông nói.

“Sao mọi người lại làm thế nhỉ? Những người lái xe đi tìm cháu ấy. Như thể cháu là nhân vật nào quan trọng lắm ấy.” Tôi cố gắng giấu vẻ sợ hãi của mình. Những câu tôi nói hầu như chẳng có ý nghĩa gì cả. “Lần trước, ông tìm cháu để báo tin buồn. Hôm nay ông cũng định đến báo tin buồn cho cháu ạ?”

“Không”, ông đáp.

Nên tôi mở cửa xe và ngồi vào ghế. Chúng tôi cứ ngồi im lặng một lúc lâu.

Sau đó tôi nghe thấy tiếng đồ vật chuyển động ở ghế sau. Tôi quay lại nhìn. Ở đó có một chú chó. Nếu tôi có thể gọi như vậy. Nó giống một chú cún con hơn, nhưng chắc nó cũng phải vài tháng tuổi rồi, và chú cún đó to đùng. Nó đang nằm choán hết cả khoang ghế sau. Chắc chắn nó thuộc giống Great Dane. Nhưng lông nó không đen như Rigby, mà lại có màu xám bạc như giống chó Weimaraner. Nó gầy dã man, gầy đến tội nghiệp. Bạn có thể thấy từng đốt sống lưng và từng chiếc xương sườn của nó. Khi tôi nhìn nó, thì nó lại ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Tai nó dài và vẫn chưa bị cắt.

“Ôi, Chúa ơi. Ông nhận nuôi chú chó này ạ?” “Đúng vậy.”

“Ông nhận nuôi nó ở đâu vậy ạ? Nó là đực hay cái thế ạ?” “Là chó đực đấy. Ta lái xe đến tận Sacramento để đón nó từ một trung tâm cứu hộ chó.”

“Nó gầy quá ạ.”

“Ta biết chứ. Nhân viên ở đó đã cố gắng cho nó ăn. Giờ ta sẽ cố gắng nuôi cho nó béo lên. Nhưng nó có vấn đề với thức ăn. Hình như nó sợ thức ăn hay sao ấy. Nó sợ tất cả mọi thứ. Rõ ràng nó đã bị chủ cũ đánh đập và bỏ rơi. Nhưng dần dần nó sẽ khá hơn thôi.”

“Tên nó là gì ạ?”

“Là Scout. Đó là cái tên nhân viên trạm cứu hộ đặt cho nó, nhưng ta nghĩ ta sẽ giữ cái tên này. Vì nó khác Rigby nhiều lắm. Ta nghĩ ta phải phân định rõ ràng giữa chú chó mới và cô chó vừa mất.”

“Chào Scout.” Tôi chìa tay ra với nó. Nó nhanh chóng nhổm dậy và trốn tránh tôi.

“Hãy cho nó thêm chút thời gian đi cháu.” “Nó có để ông chạm vào người không ạ?”

“Hiếm lắm. Nhưng nó đang quen dần rồi. Cháu thích tai nó chứ?”

“Cháu thích lắm ạ. Đôi tai đó đẹp lắm. Sao ông lại đi tìm cháu thế ạ? Ông định nói với cháu điều gì, hay ông chỉ muốn cho cháu gặp chú chó này thôi ạ?”

Tôi nghe thấy ông hít một hơi thật sâu rồi lại thở hắt ra. Tôi thấy hai tay ông nắm chặt vô-lăng, rồi lại thả ra. Thủ tục này mất khá nhiều thời gian, nhưng tôi vẫn kiên nhẫn đợi.

“Sáng nay…” ông nói.

Và ông ngừng lại. Tôi biết ngay, chắc ông đã diễn tập trước bài nói này rồi.

“… ta dậy rất sớm. Trong phòng vẫn tối. Khi đó trời vẫn còn sớm tinh mơ. Và tình yêu của đời ta… người phụ nữ ta thầm yêu từ hồi cấp ba… đang nằm kế bên ta.”

Ông ngừng lại, có vẻ như ông không thể nói tiếp. Tôi muốn hét thật to rằng điều đó thật tuyệt. Nhưng tôi không làm thế. Trái lại với suy nghĩ trong đầu, tôi chỉ im lặng.

“Ta ngắm bà ấy ngủ rất, rất lâu. Ta còn không để ý là bao lâu nữa. Có lẽ là hàng giờ. Và ta cứ nghĩ đi nghĩ lại về một chuyện này.”

Ông lại im lặng một lúc. Tôi thấy thật khó khăn, nhưng tôi tiếp tục chờ đợi.

“Ta đã nghĩ, ‘Tên điên nào… Kẻ ngốc nào… có thể nghĩ tới điều gì khác về người đã giúp chuyện này thành sự thật… ngoài lòng biết ơn cơ chứ?’.”

Đột nhiên nước mắt tôi ứa ra. Chẳng hiểu chúng từ đâu đến nữa. Tôi cố kìm nén, và ngăn chúng lại. Nhưng một vài giọt nước mắt thoát ra được. Tôi chẳng lau chúng đi nữa.

“Cháu rất xin lỗi ông vì chuyện cháu làm đã khiến ông tổn thương”, tôi nói.

“Thấy chưa, cháu lại thế nữa rồi. Đừng xin lỗi. Cháu lại cư xử kiểu Angie điển hình rồi. Cứ khi nào người ta định thả cháu ra, thì cháu lại cố tình quay lại cắn câu là sao?”

“Ồ. Cháu xin lỗi.”

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc. Tôi cũng không nhớ là bao lâu nữa. Scout trở mình trên ghế sau và thở dài thườn thượt đầy buồn bã.

“Chuyện của ông và bà Rachel thật tuyệt vời”, tôi nói. Sau đó chúng tôi lại tiếp tục im lặng. Tôi tiếp tục, “Ôi, trời ơi. Ông lại vừa kể cho cháu một bí mật nhạy cảm nữa kìa”.

“Ừ”, ông đáp. “Buồn cười là lần này ta không thấy thua thiệt gì cả.”

“Liệu có cách nào tốt hơn cách của cháu không ạ? Nếu là ông, thì ông sẽ làm gì ạ?”

“Ta nghĩ ta sẽ tiếp cận kiểu khác. Nếu ta biết người đó không làm chuyện đúng đắn, ta không nghĩ mình sẽ sửa sai giúp họ đâu. Ta nghĩ ta sẽ dùng cách khác để yểm trợ cho họ. Ta sẽ lùi lại phía sau, để xem có giúp được gì cho họ không.”

“Cháu vẫn chưa tưởng tượng ra nổi.” “Giờ ta sẽ chỉ cho cháu nhé.”

Ông chuyển sang số tiến và chạy xe vào thị trấn. Tôi không hỏi gì cả.

Dù cũng có vài thắc mắc, nhưng tôi quyết định không hỏi ông.

Ông dừng xe trước tiệm thuốc của mẹ tôi rồi tắt máy. “Trước khi ta làm chuyện này”, ông nói, “ta phải hỏi, nếu mẹ cháu có nhà rồi, thì mẹ cháu có đảm bảo sẽ trả được tiền cho ngân hàng đúng hạn không?”.

“Nếu mẹ cháu không trả được thì cháu sẽ trả. Cháu sẽ kiếm việc để góp tiền với mẹ.”

“Đó là điều ta muốn nghe đấy.”

Ông ra khỏi xe và đi vào trong tiệm thuốc.

Tôi nhìn về phía Scout và nói với nó, “Chuyện quái gì vậy?”.

Một phút sau, ông Paul bước ra, và mẹ tôi đi ngay sau ông. Ông mở cửa xe chỗ tôi đang ngồi.

“Cháu ngồi phía sau với Scout nhé”, ông nói với tôi. “Cháu đừng thử vuốt ve nó. Nó sẽ không cắn cháu đâu, nhưng tốt nhất là cháu đừng làm nó hoảng.”

Tôi bước ra ngoài, trọng lượng toàn thân dồn lên chân bên phải, rồi mở cửa ghế sau. Scout giật mình ngồi dậy. Tôi ngồi xuống cạnh nó, còn nó thu mình sát cửa xe và cố gắng thu chân lại hết cỡ để không chạm phải người tôi. Nó coi tôi như thể là nham thạch đang tuôn chảy xuống chỗ nó ngồi vậy. Tôi lại nhìn nó, và nó lại lảng mắt sang chỗ khác.

Chúng tôi xuất phát, và ông Paul bắt đầu nói không ngừng. Nhưng ông không nói với tôi, mà với mẹ tôi.

“Cháu không phải thấy xấu hổ vì trước đây chưa từng vay ngân hàng đâu. Cháu nên tự hào khi mua nhà lần đầu tiên. Cháu đã sẵn sàng để trở thành tầng lớp trung lưu rồi.

Trước đây cháu chưa bao giờ thử vay tiền mua nhà vì cháu biết mình còn thiếu sót những gì. Cháu cảm thấy mình chưa sẵn sàng. Giờ thì cháu sẵn sàng rồi. Thu nhập của cháu thấp không phải do lỗi của cháu. Đáng lẽ cháu có thể làm việc toàn thời gian, nhưng cháu còn phải chăm sóc cho một đứa bé tự kỉ nữa. Vậy nên cháu chỉ làm việc hai ca mỗi ngày, thay vì làm việc toàn thời gian. Con bé đang học chương trình giáo dục đặc biệt ở trường công, nên cháu sẽ không phải chi trả thêm khoản nào cho con bé nữa. Con gái lớn của cháu thì già dặn hơn những đứa trẻ bình thường, và giờ cô bé đã mười bảy tuổi. Cô bé đỡ đần được cho cháu rất nhiều. Nếu cháu có thể đợi đến khi con bé đủ mười tám tuổi, đi làm thêm và góp tiền cho gia đình thì tốt hơn, nhưng hiện tại con bé cũng đã sẵn sàng để giúp đỡ nếu gia đình cần thêm tiền.”

“Vâng…”, mẹ tôi nói.

Tôi không biết sao mẹ tôi lại được nghỉ giữa giờ làm việc như thế. Tôi cũng không biết ông Paul đã phải cố gắng thuyết phục mẹ ra sao để mẹ đồng ý đi thế này. Tôi càng không biết mẹ tôi đang phấn khích, hay xấu hổ nữa. Khi ấy có rất nhiều thứ tôi không biết.

“Cháu cứ để ta nói. Nếu ta nhìn thẳng vào cán bộ tín dụng, tức là ta sẽ lo liệu trả lời phần đó, nhưng nếu người đó hỏi cháu trực tiếp, thì ta sẽ quay sang phía cháu. Đó là dấu hiệu để cháu nói đấy. Cứ nói chuyện thẳng thắn và lịch sự. Đừng tỏ ra khúm núm. Ngân hàng cần những khoản vay này, đó là phần quan trọng trong nguồn thu của họ. Nhiệm vụ của cán bộ tín dụng là giúp mọi người làm giấy tờ thế chấp thôi.”

“Vâng…”, mẹ tôi nói.

Chúng tôi dừng xe trong bãi đậu của một trong hai ngân hàng địa phương. Chúng tôi đều ra ngoài. Trừ Scout. Ông Paul mở hé cả bốn ô cửa sổ cho nó, rồi khóa xe lại.

“Ngẩng đầu lên cháu”, ông nói. “Sao ạ?” Mẹ tôi nhìn quanh và hỏi.

“Không. Thật đấy. Tất cả ngẩng cao đầu lên nhé.” Chúng tôi cùng ngẩng cao đầu, và đi theo ông Paul vào ngân hàng.

Ông dẫn chúng tôi đến thẳng bàn làm việc của một người đàn ông, mà tôi đoán là cán bộ tín dụng. Chú ấy còn trẻ, có lẽ mới ngoài ba mươi thôi. Trông chú còn trẻ hơn cả mẹ tôi. Tôi hy vọng điều đó sẽ giúp ích phần nào. Chú ấy có râu quai nón, và mặc dù đang mặc một bộ vest rất đẹp, trông chú không đến mức quá chỉn chu hay đáng sợ cho lắm.

Ông Paul bắt tay chú ấy và giới thiệu chúng tôi. Tôi nghe hai người họ nói chuyện, và có lẽ do đầu óc tôi hơi choáng váng nên có thể đoán nhầm, nhưng tôi có cảm giác họ đã nói chuyện với nhau từ sáng nay rồi.

“Mời mọi người ngồi”, chú tín dụng nói. Tên chú ấy là Joseph Greely. Tôi biết điều đó khi ông Paul giới thiệu, và tôi cũng nhìn thấy bảng tên của chú đặt trên bàn. “Ta cùng xem xét các thủ tục nhé. Tôi phải nói là gia đình mình thật may mắn khi được ông Inverness giúp đỡ đấy. Chúng tôi là bộ phận tín dụng, và tất nhiên chúng tôi rất mong mọi người tới vay tiền mua nhà. Và chúng tôi luôn cố gắng hết sức để giúp đỡ những người mua nhà lần đầu tiên. Nhưng, đối với trường hợp của gia đình mình, thì thực sự là chẳng có giấy tờ đảm bảo nào tốt hơn chữ kí bảo lãnh của một người lớn tuổi và có uy tín như ông Inverness đây. Điều đó làm nên khác biệt lớn đấy.”

Im lặng. Mọi người đều im bặt. Tôi cứ đợi ông Paul nói với chú Greely là chú ấy đã hiểu nhầm. Nhưng ông Paul chẳng nói gì cả.

“Tôi xin lỗi” chú Greely nói.“Trông mọi người bối rối quá. Mọi người không biết điều đó sao?”

Mẹ tôi định mở miệng ra nói gì đó, nhưng cuối cùng mẹ chẳng nói gì hết.

“Chúng cháu biết ạ”, tôi đỡ lời giúp mẹ. “Chúng cháu biết rất rõ mình may mắn đến nhường nào khi được ông Paul giúp đỡ như vậy.”

Mẹ tôi bước tới chỗ xe ông Paul như thể người mộng du vậy. Tôi cố tình đi chậm lại. Tôi mong ông Paul sẽ dừng lại và nói chuyện với tôi.

Ông dừng lại thật.

“Bà Rachel đâu ạ?” Tôi hỏi. “Cháu không thể tin được là ông để bà ấy ở nhà một mình đấy. Trong ngày đầu tiên hai người… là… ý cháu là… ở cùng nhau.”

“Ta nói với bà ấy rằng ta có chuyện làm ăn quan trọng. Cháu thấy có vấn đề gì à?”

“Cháu nghĩ là không ạ.”

Tôi đang định choàng tay qua ôm ông, thì ông nói, “Đừng có mà ủy mị với ta nhé. Giống hôm chúng ta ra hồ câu cá ấy”.

“Cháu á? Là ông bắt đầu trước mà. Ông đã hôn lên trán cháu mạnh tới nỗi cháu suýt gãy cổ luôn ấy.”

“Chúng ta lạc đề rồi. Cháu tập trung đi. Chúng ta còn nhiều việc cần làm lắm. Tiếp theo chúng ta sẽ đến văn phòng nhà đất và thử mặc cả với họ xem sao.”

“Ông có nghĩ họ sẽ giảm giá không ạ?”

“Chúng ta không biết được. Ta chỉ biết đó là bước tiếp theo trong kế hoạch thôi. Cháu cứ làm theo ta, nhóc ạ. Ta sẽ chỉ cho cháu cách làm chuyện đó.”