Jessica Blakely không tin vào Định Mệnh.
Tuy nhiên, khi đứng trên đỉnh chiếc cầu thang xoáy kiểu Trung Cổ và ngó xuống vực sâu ảm đạm phía dưới, cô phải tự hỏi mình, phải chăng từ trước đến nay, có ai đó đang chèo lái cuộc đời cô. Mọi thứ xảy ra không như cô nghĩ. Định Mệnh hẳn biết rõ cô chẳng có hứng thú gì với những tòa lâu đài trơ trọi, hoang vu hay những chàng hiệp sĩ trong những bộ áo giáp gỉ sét.
Hẳn là như thế.
Cô hít một hơi thật sâu và cố sắp xếp lại lần lượt tất cả những gì đã xảy ra, những gì đã khiến cô rơi vào hoàn cảnh hiện tại. Dường như chẳng có gì bất thường. Cô đi hẹn hò xem mặt rồi nhận lời mời cùng anh ta đến Anh trong kỳ nghỉ phép của khoa trường Đại học nơi anh ta dạy và rồi đầy háo hức lên máy bay với anh ta hai tuần sau đó.
Chủ của trang viên xinh đẹp được bảo tồn từ thời nữ hoàng Victoria nơi hai người ở là Lãnh chúa Henry de Galtres. Jessica mê mệt ngôi nhà ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nơi đây có những bữa tiệc sang trọng với những món ngon siêu phàm và được bao bọc trong lòng một vùng đồng quê bình dị. Vấn đề duy nhất là chẳng hiểu vì sao, Lãnh chúa Henry lại cho rằng tòa lâu đài đổ nát trong khuôn viên nhà mình là thứ gì đó rất cần được gìn giữ. Chỉ cần nhìn thấy nó là Jessica đã thấy lạnh hết cả sống lưng. Cô không hiểu tại sao và cũng không muốn tìm hiểu câu trả lời.
Thay vào đó, cô để mình tận hưởng tất cả những tiện nghi hiện đại mà nhà Lãnh chúa Henry có. Và chắc chắn khi cô có thể buộc mình rời khỏi nơi được coi là căn nhà thứ hai này, cô có thể sẽ đi khắp London mua sắm bằng tiền tiết kiệm tại Harrods. Thế nhưng trước khi nhìn thấy những chiếc máy tính tiền, cô lại bị thôi thúc tìm nơi trốn trong lâu đài đổ nát ấy.
Cuộc đời cô có điều gì đó vô cùng bất ổn.
Một tờ giấy bốc mùi mốc meo suốt bảy thế kỷ đáp thẳng vào mặt khiến cô ho sặc sụa và phải phẩy tay trước mũi liên tục. Có lẽ lúc nãy, cô nên im lặng và tránh việc bày tỏ bất kỳ sự bất mãn nào trước Thượng Đế.
Mọi thứ biết đâu sẽ tốt đẹp hơn nếu từ lâu cô biết giữ im lặng, có lẽ trước khi cô đồng ý với cuộc hẹn ấy. Cô nghĩ một lúc, nhưng rồi lại lắc đầu. Rắc rối của cô bắt đầu đã lâu, từ trước khi chuyến đi chơi với Archibald Stafford III diễn ra. Thật ra, cô có thể biết rõ từ khoảnh khắc nào cuộc đời cô đã lạc vào tay Định Mệnh.
Đó là từ những buổi học piano. Khi cô 5 tuổi.
Bạn sẽ chẳng bao giờ nghĩ rằng thứ mà tưởng chừng như rất vô thưởng vô phạt, rất ngây thơ, rất thân thiện với lũ trẻ lại dẫn một người phụ nữ theo con đường cô ấy chẳng có ý định đi. Nhưng Jessica chẳng tìm được một bằng chứng nào để phủ nhận điều đó.
Những buổi học piano mang đến những học bổng nhạc lý, rồi dựng nên sự nghiệp âm nhạc cho cô, nhưng rồi không hiểu sao lại phá hủy các mối quan hệ xã hội, khiến cô không có sự lựa chọn nào ngoài việc chấp nhận lời mời mới nhất trong chuỗi những cuộc hẹn hò xem mặt vô vọng: Archie Stafford và đôi giày lười bóng lộn của anh ta. Archie là người bao trọn tất cả chi phí mời cô tới Anh trong một tháng. Anh ta đã giành được chuyến đi này nhờ chăm chỉ nịnh nọt trưởng khoa. Anh ta thực sự không hòa hợp với những người thường hội họp cùng trưởng khoa hay Lãnh chúa Henry ngồi hút xì gà từ nửa đêm cho tới lúc gà gáy, nhưng cũng có thể đó lại là những gì Archie khao khát.
Jessica tự hỏi không hiểu anh ta cần một bạn hẹn tới mức nào mà lại mời cô đi cùng. Lúc anh ta ngỏ lời, cô còn bận nghĩ về những tách trà và bánh xốp nên không lo nghĩ gì về lời mời ấy. Một chuyến đi chơi do trường đại học tài trợ, điều đó đã khiến cô cảm thấy cực kỳ an tâm.
Thật không may, làm khách của Archie nghĩa là phải nói chuyện với anh ta và đó là điều cô ước giá như mình có thể tránh trong ba tuần tới. Chỉ đến khi lên chuyến bay, cô mới khám phá ra anh ta đáng ghét đến mức nào. Cô tự nhủ sẽ không bao giờ để lộ hộ chiếu của mình cho bất cứ ai mà cô biết chưa đầy một tháng như trong trường hợp này nữa.
Nhưng dù muốn hay không, cô vẫn bị kẹt với anh ta suốt chuyến đi này, có nghĩa là ít nhất thì cũng phải lịch sự trò chuyện. Hơn nữa, mẹ cô đã dạy phải luôn tỏ ra lịch sự.
Tất nhiên, lịch sự không có nghĩa là cô không thể thỉnh thoảng trốn đi. Đó chính xác là những gì cô đang làm lúc này. Thật không may, trốn nghĩa là phải kiếm một nơi Archie sẽ không bao giờ nghĩ rằng cô sẽ ở đó.
Sâu trong lâu đài thời Trung Cổ nhà Henry.
Cô tự hỏi, liệu báo động có kêu không nếu cô làm đứt mấy sợi dây chão chắn đường. Cô nhìn sang bên trái và nghĩ sẽ có khá nhiều người nghe thấy tiếng chuông báo động nếu nó kêu lên. Và có lẽ trong cơn hoảng loạn, sẽ không có ai chú ý đến cô. Rõ ràng Lãnh chúa Henry kiếm tiền để sửa chữa nhà mình bằng cách thực hiện các chuyến tham quan lâu đài này. Những chuyến tham quan này có vẻ như rất thu hút. Đoàn người hiện tại cho thấy điều đó.
Jessica nhìn những khách tham quan. Họ đi thành hàng như một đàn gia súc và có thể họ sẽ chạy loạn lên nếu cô làm họ giật mình. Họ khó chịu đứng sát lại với nhau, trầm trồ nhìn những món đồ gia truyền, cũng đang chen chúc nhau. Marcham là một điểm đến thu hút hàng đầu và Jessica dường như đã hòa mình vào đám đông nhộn nhịp ngay lúc mà cô cần sự bình lặng và yên tĩnh nhất. Cô đã tham quan lâu đài và biết được nhiều thứ hơn cả những gì cô kỳ vọng về lâu đài Burwyck-trên-biển và lịch sử kèm theo nó. Và một bài học nữa về những sự kiện phức tạp thời Trung Cổ là điều cuối cùng cô cần đến lúc này.
“Đương nhiên, lâu đài tại Marcham, hay còn gọi là Merceham, tên gọi của nó vào những năm 1300, là một trong những tài sản nhỏ mà gia đình này sở hữu. Mặc dù đã được mở rộng trong nhiều năm và đại tu trong thời kỳ Victoria nhưng nó cũng chưa phải là của cải quý giá nhất của gia đình. Tài sản quý giá nhất của gia đình de Galtres nằm cách đây 150 cây số trên bờ biển phía đông. Nếu đi thêm đoạn nữa, các vị sẽ thấy một bức tranh vẽ tòa tháp.”
Đám đông khán giả ngoan ngoãn đi sang bên trái trong khi hướng dẫn viên tiếp tục nói.
“Như các vị có thể thấy trên bức tranh vẽ Burwyck-trên-biển, theo ý kiến của tôi, thì điểm đáng chú ý nhất trong cơ ngơi của gia đình này là việc tháp vòm không xây tại trung tâm của sân trong như ở lâu đài Pembroke mà xây phía tường ngoài hướng ra biển. Tôi cá là chủ nhân đời thứ ba của gia đình de Galtres không muốn tầm nhìn ra biển bị cản trở...”
Jessica hoàn toàn đồng ý với anh ta nhưng bây giờ, cô không quan tâm đến việc ngắm biển. Nếu tầng hầm được chăng dây thừng để ngăn cách thì có nghĩa là nó không có khách du lịch và hướng dẫn viên. Dưới đó có thể đầy nhện và những bóng ma, nhưng cô phải liều thôi. Archie sẽ không bao giờ nghĩ đến việc tìm cô ở đó. Cô có thể làm ngơ những bóng ma. Lũ nhện cũng có thể bị giẫm bẹp.
Cô hơi co vai lại, tháo móc sợi dây chão rồi đi xuống.
Cô dừng lại dưới chân cầu thang và tìm kiếm một nơi nào đó phù hợp. Những bộ giáp đứng nghiêm im lặng dọc theo bên bức tường. Ánh sáng lờ mờ cùng đầy rẫy những sinh vật không tưởng cũng chẳng thể ngăn cản cô. Cô bước qua từng phiến đá lót nền cho đến khi thấy một chỗ có vẻ phù hợp, rồi ngồi vào giữa một hiệp sĩ dữ tợn đang vung một thanh kiếm và một vị khác cầm giáo vẻ đáng sợ. Phủi qua chút mạng nhện, cô khẽ tựa lưng vào bức tường đá. Đây là lần đầu tiên trong ngày cô cảm thấy may mắn vì đã mặc một bộ váy dày. Một bộ trang phục thời Trung Cổ phù hợp với môi trường xung quanh, nhưng dường như rất ngớ ngẩn cho một buổi trà chiều - buổi trà chiều mà cô xuống tầng hầm này để trốn.
Cả buổi trà chiều và Archie.
Cô đưa tay vào túi và lôi ra vài thứ để thư giãn. Cô đặt một bịch kẹo bơ lạc ướp lạnh trên sàn đá một cách cẩn thận. Những thứ này cô sẽ để dành ăn sau. Một lon nước ngọt nữa. Sàn nhà đủ lạnh để bảo quản nó. Sau đó, cô lôi máy nghe đĩa CD cầm tay ra, đeo tai nghe, thả lỏng và cuối cùng, thở dài nhắm mắt lại rồi nhấn nút Play. Cảm giác lạnh lẽo lan ra khắp sống lưng nhưng không phải là do bức tường đá.
Bản giao hưởng số 7 của Bruckner vào đúng thời điểm có sức ảnh hưởng như thế đối với cô.
Jessica hít một hơi thật sâu và chuẩn bị cho những điều sắp đến. Bản giao hưởng bắt đầu một cách nhẹ nhàng. Cô biết rồi nó sẽ dần mạnh mẽ vàlớn hơn cho tới khi bao bọc lấy cô, làm cô không thở được.
Cô cảm thấy hơi thở của mình bắt đầu gấp gáp và phải lau lòng bàn tay lên bộ váy. Bản nhạc vẫn hay như 139 lần trước cô nghe nó. Đây là thứ âm nhạc đến từ thiên đ...
Chít chít.
Jessica gần như hóa đá. Cô định mở mắt ra, nhưng cô biết chắc cô sẽ chỉ nhìn thấy một con chuột to bự bên cạnh mình. Lúc đó, cô sẽ ra sao? Đồ ăn vặt của cô vẫn còn trong bọc và vì nó cũng chẳng được tính là đồ ăn nên một con chuột muốn gì cơ chứ? Cô hướng sự chú ý của mình vào bản giao hưởng. Đó là London Philharmonic, một trong những ban nhạc yêu thích của cô.
Kẹt, kẹt, kẹeeeeeeeeet.
Một cái cửa chớp han gỉ chăng? Có cửa chớp trong tầng hầm? Không biết nữa. Cô không định mở mắt ra nhìn. Có lẽ có cái cửa nào đó gần đây và nó bị gió rít do những vị khách du lịch đi loanh quanh. Hoặc có thể đó là một cánh cửa sập vào ngục tối. Cô ngay lập tức phủ định cái ý nghĩ ấy, vì đó không phải là chỗ cô muốn tới. Cô nhắm mắt chặt hơn. Thật may là cô đã quen với việc tách mình ra khỏi những phiền nhiễu. Nếu không thì tiếng ồn này đã làm hỏng buổi chiều của cô.
Kẹt, kẹt, kẹeeeeeeeeet.
Được rồi, quá lắm rồi đấy. Chắc là một đứa trẻ con nào đó nghịch những bộ áo giáp. Cô muốn mắng nó một trận rồi đuổi nó đi và tiếp tục những gì mình đang làm.
Cô mở mắt, rồi rít lên.
Trời, một hiệp sĩ được trang bị đầy đủ giáp khí đang hung hãn nhìn cô. Cô vội nép sát vào tường đá, ngồi lên chân và tự hỏi phải làm sao để tự vệ. Nhưng người hiệp sĩ kia dường như chẳng chú ý gì đến thân trên của cô bởi vì anh ta cúi xuống nhìn chân cô. Anh ta đột nhiên nghiêng người và cô biết chuyện gì sắp xảy ra.
Tiếng áo giáp kêu lên cọt kẹt rồi một bàn tay đưa ra. Sau đó, không chút do dự, các ngón tay đã tóm gọn lấy gói bơ lạc. Cái mũ sắt mở ra và gói kẹo bị xé rách nhanh như chớp. Thế rồi món đồ ăn Mỹ cuối cùng của Jessica biến mất sau hai tiếng nhai.
Anh ta ợ một tiếng.
“Này, Jess,” anh ta vừa nói vừa khẽ liếm khóe môi, “anh nghĩ em sẽ xuống đây để trốn. Mấy thứ này có còn không?” Anh ta chỉ vào khoảng trống gần chân cô, từ cánh tay vang lên những tiếng loạch xoạch của áo giáp.
Quy tắc số một: Không ai được cắt ngang khi cô đang nghe nhạc Bruckner.
Quy tắc thứ hai: Không ai được chén bơ lạc của cô, đặc biệt là khi cô đang bị kẹt ở Anh cả tháng mà chẳng thể tới siêu thị Mini Mart ở dưới phố. Cô vẫn chưa thấy kẹo bơ lạc ở Anh và đây là hai hộp cuối cùng cô để dành cho lúc yên tĩnh một mình. Còn may là ông trộm này không xử lý luôn lon nước của cô...
“Hừ, Jess,” anh ta nói, tay với lấy lon nước ngọt của cô, bật nắp và uống cạn, “làm sao em phải trốn?”
Cô không nghĩ được gì tử tế. “Tôi đang nghe Bruckner.”
Anh ta ợ to. “Chẳng hiểu sao lại có người mê mệt mấy tên đồng bóng chơi violin.” Anh ta bóp bẹp chiếc lon, sau đó, cười toe toét vì thành quả của chiếc găng tay sắt. Rồi anh ta nhìn cô và nháy mắt. “Em có muốn đến đây tặng hiệp sĩ mặc áo giáp của em một nụ hôn không?”
Tôi thà hôn một con chuột còn hơn. Lời nói ở ngay trên đầu lưỡi cô, nhưng Archibald Stafford III không để cô nói hết. Anh ta đẩy cô khỏi khe hở giữa hai vị thần hộ mệnh của cô. Hai bộ áo giáp rỗng không thật có ích. Anh ta làm máy nghe nhạc và tai nghe của cô rơi xuống đất, kéo cô về phía mình và tặng cô một nụ hôn cưỡng ép ướt át và nhớp nháp nhất.
Cô muốn đập chết anh ta. Nhưng cô lại không thể thoát khỏi cái ôm kẹt cứng để giải cứu chính mình.
“Thả tôi ra,” cô rít lên.
“Làm sao thế? Em không thích cánh tay mạnh mẽ và nam tính của anh à?” Anh ta vừa nói vừa ôm cô thật chặt như thể chứng minh cho sự mạnh mẽ và nam tính mà anh ta nói.
“Không, nhất là khi anh đang muốn bóp chết tôi,” cô thở hổn hển. “Archie, thả tôi ra.”
“Cái này có ích cho nghiên cứu đấy.”
“Trời ạ, tôi là nhạc công. Tôi không cần cái loại nghiên cứu này. Còn anh thì là...” cô phải dừng lại vì không thể tin nổi sự thật này, nhất là khi cô vừa biết thêm về cái người đang muốn bóp chết cô, “...một triết gia,” cuối cùng, cô cũng nói được ra. “Một giáo sư triết học tại một trường đại học lớn, chứ không phải là một hiệp sĩ.”
Archibald thở dài với sự kiên nhẫn vô hạn. “Em có nhớ là còn có buổi tiệc hóa trang không?”
Giá mà cô có thể quên đi, nhất là khi cô đang mang một chiếc khăn đội đầu thời Trung Cổ cùng một đôi giày xấu mù. Cô không thể hiểu tại sao các giảng viên lại có thể nghĩ đến việc mặc đồ hóa trang thành hiệp sĩ và những quý cô. Đây hẳn là đứa con tinh thần của vị giáo sư lịch sử dở người - ông ta đã không thể mang theo thanh kiếm của mình qua an ninh sân bay. Chỉ cần nhìn là đã biết ông ta phiền phức rồi.
Giá như cô đủ tinh ý để nhận ra con người thật của Archie. Còn giờ đây, cô đang nhìn vào cái người lúc đầu vốn có vẻ khá hơn những bạn hẹn trước của cô. Cô khó có thể kết nối con người hiện tại với con người triết lý của anh ta. Hoặc là anh ta đã nhầm lẫn giữa tinh thần hiệp sĩ với quan niệm coi thường phụ nữ, hoặc là do mặc bộ áo giáp quá lâu nên kim loại đã ngấm vào não và làm thay đổi tính cách anh ta.
“Anh sẽ bế em lên,” Archie đột nhiên nói. “Như thế sẽ rất hay.”
Nhưng rồi thay vì được anh ta bồng lên - dù điều này cũng đã đủ tệ rồi - cô lại bị xốc ngược lên vai như một bao khoai tây.
“Máy nghe nhạc của tôi,” cô vùng vẫy.
“Lấy sau cũng được,” anh ta nói, rồi bước về phía cầu thang.
Cô vùng vẫy nhưng vô ích. Cô định cất tiếng rủa anh ta nhưng lại nghĩ thế không đáng. Rồi anh ta cũng phải đặt cô xuống và đến lúc đó, cô sẽ cho anh ta một trận. Còn vào thời điểm này, điều cô cần để ý nhất là đừng để đầu va vào cầu thang trong khi Archie bước nặng nề lên từng bậc. Anh ta bỗng dừng lại và Jessica nghe thấy một tràng những tiếng trầm trồ. May mắn thay, cô đang bị vác ngược, nên mặt cô không thể đỏ hơn được nữa.
“Anh thích những thứ thời Trung Cổ,” Archie tuyên bố với đám người trước mặt, “Còn em?”
Nói xong, anh ta vui vẻ vỗ mông cô một cái - lại thêm vài tiếng trầm trồ - và đi tiếp.
Jessica tự hỏi thanh gươm cô nhìn thấy ở người hiệp sĩ trong hầm có đủ sắc bén hay không. Nhưng dù nó có cùn cũng vậy thôi. Không hiểu sao, cô có cảm giác rằng bản thân sẽ phải dùng nó để đối phó người đang vác cô một cách vui vẻ, bất chấp danh dự của cô, đi xuống cầu thang nơi cô biết chắc mình sẽ còn phải xấu hổ hơn nữa.
Sau đó, cô bị mắc kẹt gần một giờ ở buổi tiệc hóa trang trước khi có thể lỉnh đi. Cô phải cảm ơn Lãnh chúa Henry vì đã giải thoát cho cô. Ông đã cứu cô khỏi nanh vuốt của Archie với một câu bông đùa “Chậc chậc, này anh bạn, đừng có độc chiếm cô ấy như thế chứ,” rồi đưa Jessica đến cửa và bỏ qua lời cảm ơn chân thành của cô.
“Cô cứ đi dạo ngoài vườn nhé,” Henry nói với một nụ cười nhẹ. “Tôi sẽ giữ anh chàng kia lại. Chúng tôi sẽ thảo luận về Platon1.”
1 Triết gia cổ đại Hy Lạp.
Cô dành thời gian để tìm một phòng tắm, rửa mặt và cởi bỏ chiếc khăn trùm đầu mà cô đội từ sáng. Cô cố tình quên đi lúc nhìn thấy mình ngay sau bữa tiệc, chiếc khăn đã bị lệch. Tất cả là nhờ Archie khệnh khạng vác cô đi, làm cô bối rối đến mức chẳng thể chỉnh trang bất cứ thứ gì.
Lại thêm một lý do nữa để tìm một lưỡi dao cùn và chém gã đần ấy.
Cô giắt khăn trùm đầu vào thắt lưng và rời khỏi nhà vệ sinh. Khu vườn có vẻ như là một nơi lý tưởng. Bây giờ là tháng Mười, cái lạnh đã nhen nhóm trong không gian, nhưng con đường rộng rãi êm ái đã giúp cô thả lỏng tinh thần dẫu cho nó chẳng có những bụi hoa hồng nở rộ.
Cô dừng lại ở đầu cầu thang tầng hầm và tự hỏi có nên để chiếc máy nghe CD dưới đó không. Cô lắc đầu và quay đi trước khi nghĩ thêm về điều đó. Nó đã bị kẹt lại phía sau bộ áo giáp và chẳng thể mất đi đâu được. Mà cô cũng không muốn phải đối mặt với bóng tối thêm nữa. Có lẽ một trong những nhân viên của Lãnh chúa Henry sẽ lấy nó cho cô.
Cô quay lại và hướng tới phòng tranh - nơi cô làm đám khách du lịch kinh ngạc nhờ chuyến đi của cô trên vai Archie. Ở cuối căn phòng có một cánh cửa kiểu Pháp hướng ra vườn. Jessica cố tình bước về phía đó, chẳng hề ngó ngàng gì đến những món đồ quý giá mà Lãnh chúa Henry trưng bày trong phòng.
Nhưng, dù vậy, cô vẫn dừng bước trước bức tranh vẽ Burwyck-trên-biển.
Góc quan sát được đặt từ biển hướng vào. Từng lớp sóng ầm ào vỗ lên gờ tường đá của lâu đài. Ở một góc của lâu đài có một tháp vòm lớn ngự trên đỉnh những chỏm đá, nhìn như thể nó mọc ra từ đó vậy. Ai đó có thể cho rằng lâu đài đó thật rộng rãi, thoải mái, còn với Jessica, cô chỉ thấy ở đó toàn là gió rít và giá lạnh.
Đó chắc chắn không phải là nơi dành cho cô.
Cô bước đi một cách nhanh chóng. Những gì cô cần là một bầu không khí trong lành và sau đó trở về phòng mình, đóng cửa, thưởng thức một cốc sô-cô-la nóng. Cô mở một trong những cánh cửa kiểu Pháp và bước ra bóng đêm bên ngoài.
Cô khẽ khép lại cánh cửa, dựa lưng vào nó và hít một hơi thật sâu. Mặt trời đã lặn, không khí yên tĩnh, thoáng đãng. Đây là lần đầu tiên trong ngày cô cảm thấy mình thực sự thư giãn.
Cô muốn có một kỳ nghỉ tránh khỏi cuộc sống thường ngày mà không có ngài Stafford III và cách di chuyển của anh ta. Cô đã thầm hy vọng chuyến đi đến Anh sẽ cho cô một cơ hội để ngẫm lại cuộc đời. Cô hình dung ra một chút thời gian rảnh rỗi nằm lười trong phòng, vẫn không có ngài Stafford III, suy ngẫm về những mục tiêu và ước muốn sâu thẳm nhất của cô. Cô đã nghĩ những chiếc bánh kẹp dưa chuột sẽ giúp cô tìm ra những điều còn thiếu.
Cô vòng tay ôm lấy mình và lang thang theo những con đường thông qua các bụi cây được cắt tỉa cẩn thận. Có lẽ tất cả đơn giản hơn nhiều so với những gì cô muốn. Không thể phủ nhận sự thật rằng cô đã có một sự nghiệp tuyệt vời với vai trò một nhà soạn nhạc - tại một trường đại học nhỏ riêng biệt, cô cũng có một căn hộ tuyệt vời ở Manhattan và vòng eo của cô vẫn thon gọn như thời trung học.
Nhưng cô không có được một gia đình riêng.
Cô đột ngột dừng lại khi nhìn thấy một bức tượng phía bên trái. Đó là bức tượng một vị hiệp sĩ oai hùng cưỡi trên một chú ngựa đá cẩm thạch, từ trên cao nhìn xuống cô. Trên khuôn mặt vị hiệp sĩ ấy vẫn luôn có một nụ cười ngạo nghễ, mỉa mai.
“A.” cô nói với vẻ bị xúc phạm, “hôn nhân là một trạng thái tự nhiên của con người.”
Bức tượng vẫn chẳng có phản ứng gì.
“Ben Franklin đã nói như vậy,” cô nói thêm.
Bức tượng vẫn im lặng. Jessica nhún vai và bước tiếp. Đó từng là câu nói yêu thích của cha cô và hôn nhân của ông với mẹ cô là minh chứng. Họ đã sống rất hạnh phúc và mãn nguyện, đến nỗi mẹ cô đến giờ vẫn còn vui vẻ, mặc dù cha cô đã qua đời gần hai năm trước đó.
Có lẽ, đó là một phần trong sự bất mãn của cô. Cuộc đời thật ngắn ngủi. Và thật xấu hổ nếu cô chỉ lãng phí thời giờ cho bản thân nếu cô có thể tìm được cách thay đổi.
Vậy là thêm những cuộc hẹn hò xem mặt.
Cô thở dài và nhìn lên bầu trời. Giá như có cách dễ dàng hơn để gặp được một chàng trai tốt, muốn kết hôn và sinh con. Cô hướng về một ngôi sao và thầm ước.
“Một anh chàng tốt,” cô thì thầm, rồi lắc đầu. Cô đang ước. Vậy thì tại sao không ước luôn một thể?
“Được rồi, vì đang ở Anh nên con ước mình gặp được một chàng hiệp sĩ đẹp trai và lịch thiệp,” cô sửa lại. “Một người với tinh thần hiệp sĩ. Một người có công việc ổn định, ôn hòa và có một ngôi nhà với một căn phòng đủ rộng cho một buổi hòa nhạc piano. Và anh ấy sẽ yêu con như yêu chính bản thân. Nhiêu đó cũng không phải quá nhiều, phải không?”
Ông trời im lặng.
Jessica thở dài và đi tiếp. Archie chính là bằng chứng sống rằng tất cả những điều đó chỉ là mơ tưởng. Chỉ một lần, dù chỉ trong vài ngày, cô muốn gặp được người đàn ông coi cô như một người bình đẳng. Chắc chắn phải có ai đó, dù tâm hồn có tăm tối nhưng anh ấy vẫn sẽ còn chút ít tinh thần nghĩa hiệp. Có lẽ bộ mặt của một tên cướp biển nhưng trái tim lại là của một nhà thơ. Những người khác có thể tìm thấy những người đàn ông như thế. Tại sao cô không thể?
Cô có thể và cô sẽ làm được. Cô sẽ nói với Archie rằng mọi thứ đã thay đổi và chẳng có gì có lợi cho anh ta cả, rồi trở về New York. Sau đó, cô sẽ nỗ lực thay đổi để tìm được bạn hẹn khá hơn.
Cô rùng mình, đột nhiên nhận ra bên ngoài thật lạnh. Lửa nóng nhiệt huyết chỉ duy trì được chút xíu khi sương mù xuất hiện. Cô cau mày. Chỗ họ ở cách rất xa bờ biển nên sương mù không thể tràn vào. Có lẽ sắp có một cơn bão lớn. Tự dưng chiếc lò sưởi ấm áp ở nhàLãnh chúa Henry trở nên vô cùng đáng yêu. Chỉ khó chịu vài phút nữa thôi, rồi cô sẽ trở về phòng và nhâm nhi một cốc sô-cô-la nóng hổi.
Ở phía xa xa có tiếng chó săn sủa loạn.
Jessica vấp phải một hòn đá nhỏ và suýt ngã. Cô đứng thẳng và thở một, hai hơi run rẩy, tự hỏi tại sao trên con đường dẫn vào vườn lại có đá. Cô ngó lơ hòn đá, rồi lại đột ngột dừng lại.
Khu vườn đã biến mất.
Ừ, đất liền thì vẫn còn đó nhưng những bụi cây thì biến mất rồi. Jessica cau mày. Chẳng lẽ cô đã kích động đến mức lang thang tới rìa khu vườn của Lãnh chúa Henry mà không nhận ra? Khu vườn đúng là rất lớn nhưng chắc chắn ở đó chẳng có đá hay ruộng nương gì như cô đang thấy.
Nhiều tiếng chó săn sủa ầm ĩ. Mà sao lại là chó săn? Cô không nhớ Henry có con chó săn nào. Có lẽ, cô đã lạc lối trong sương mù và đi lang thang vào khuôn viên của người hàng xóm. Một nhà hàng xóm có những con chó sủa như bị bỏ đói. Một tiếng tù và vang lên ngay sát cô, lẫn vào tiếng chó sủa.
Sương mù bắt đầu tan đi. Cô thề là cô đã nghe thấy tiếng leng keng khe khẽ, không phải là âm thanh của chuông, nhưng chắc chắn là tiếng kim loại ma sát. Cô biết những giọng nói, những tiếng tù và không phải do cô tưởng tượng. Cô bắt đầu nhận ra, việc đứng giữa một cánh đồng, nơi có vẻ đang diễn ra một bữa tiệc săn bắn không phải là một điều thông minh. Tốt nhất là quay lại theo đúng con đường mà cô đã đến. Cô đang định đi thì thấy những con chó săn chạy qua cùng với những người đàn ông cưỡi ngựa.
Cô rất muốn đứng yên, há hốc miệng ngạc nhiên. May mắn thay, một phần nhỏ não của cô đã hành động theo bản năng. Cô lập tức quay lại và cắm đầu chạy để tránh bị giẫm đạp.
Cô phải xách váy đến tận đầu gối để chạy, cố an ủi mình rằng cô chỉ là đang gặp ảo ảnh vì màn sương. Cô đã đi lang thang xa hơn cô nghĩ. Nếu chạy đủ nhanh, cô sẽ vào được nhà và tránh trở thành bữa tối cho chó. Sau đó, cô sẽ nhờ ngài Henry ra mặt tìm những người cưỡi ngựa trên đất nhà ông ấy với những con chó săn lớn đang chảy nước miếng ròng ròng và lịch sự nhắc nhở họ vì đã làm cô sợ ch...
Cô rít lên khi cảm thấy chân mình rời khỏi mặt đất.
Người bắt cô đang lẩm bẩm điều gì đó với một người đi cùng và đáp lại anh ta là một tiếng cười khàn khàn. Jessica đáng lẽ sẽ cố tìm hiểu, nếu như cô không bận nhìn vào đôi chân đang lủng lẳng của mình và mặt đất phía dưới. Thế này cũng khó chịu như khi bị Archie xốc ngược lên vai. Hy vọng là không có những vị khách du lịch chứng kiến cảnh giải cứu này.
Giải cứu? Cô đang nghĩ gì thế? Giải cứu? Cô có thể đang bị bắt cóc. Và đúng là cô đã bị bắt cóc và đang bị mang tới một chỗ nào đấy để bị làm gì đấy. Cô vô thức nhìn quanh và rồi chỉ thấy những người đàn ông trùm áo choàng bẩn thỉu đang tập trung nhìn vào thứ mà mấy con chó săn đang đuổi theo.
Có một điều chắc chắn là: chẳng có bất kỳ chàng hiệp sĩ cưỡi ngựa trắng cầm giáo nào hướng tới đây để giải cứu cô.
“Dù sao thì ý nghĩ này cũng thật ngu ngốc,” cô lẩm bẩm trong khi cố gắng tìm cách thoát thân. Tự cô phải chăm sóc bản thân thôi. Cô luồn tay xuống dưới tay kẻ đang giữ mình và cố hất thật mạnh.
“Khốn nạn,” hắn gầm gừ.
Đầu của Jessica xuýt thì vẹo sang một bên. “Khốn nạn?” May mà bà cô không có ở đây nếu không tên này sẽ phải súc miệng bằng thuốc tẩy.
Những người đàn ông lại bắt đầu gào lên với nhau nhưng lần này, Jessica chăm chú lắng nghe nhiều hơn. Ồ, đó là tiếng Pháp, nhưng với khẩu âm rất kỳ lạ. Cô đã dành một năm sau khi ra trường để đi vòng quanh Pháp và xin lỗi họ hàng của bà cô, vì ông cô đã cưới rồi để bà lại ở Mỹ sau chiến tranh. Trong những chuyến đi, cô cải thiện kiến thức về thứ ngôn ngữ mà bà đã rất siêng năng dạy cô. Nhưng chưa bao giờ cô nghe thấy tiếng Pháp được nói theo kiểu này.
Con ngựa dừng lại đột ngột và Jessica gần như thở phào nhẹ nhõm. Bây giờ, cô có thể tìm cách trèo xuống rồi chạy trốn.
Nhưng sự khuây khỏa của cô chỉ được ngắn ngủi thế thôi. Trước khi có thể động đậy, cô đã bị túm quanh thắt lưng và ấn phịch xuống phía trước chiếc yên ngựa cao, vắt một chân qua vai ngựa và chân kia thì gác trên đùi của một người đàn ông.
Và đó chính xác là thời điểm cô nhận ra có điều gì đó vô cùng sai ở đây.
Không nói đến việc chẳng hiểu sao cô đã bị lạc khỏi lâu đài trong sương mù. Không nói đến việc những người đàn ông xung quanh cô đang nói thứ tiếng Pháp bằng khẩu âm lạ lùng ở giữa một miền quê nước Anh. Không, cái thực sự làm cô đau đầu là chiếc yên ngựa trông giống giống mấy cái thời Trung Cổ trong lâu đài của Henry. Ai lại dùng những thứ thếnày? Tên côn đồđang bắt cô chăng? Cô không muốn nhìn hắn, nhưng cô biết sớm hay muộn, cô cũng sẽ vẫn phải nhìn. Đây là lúc tốt nhất để xác định thảm cảnh của cô.
Cô hít một hơi thật sâu và nhìn lên.
Đang nín thở, cô lập tức thở ra.
Anh ta, cô nuốt nước miếng để khỏi bị sặc, là người đàn ông đẹp trai nhất mà cô từng thấy. Một vết sẹo xấu xí kéo dài từ thái dương xuống má rồi chạy đến tận dưới cằm anh ta. Nhưng dù vậy vết sẹo sậm màu cũng chẳng thể làm giảm đi vẻ đẹp trai của anh ta. Khuôn mặt anh ta góc cạnh và nghiêm nghị ngay cả trong bóng đêm sâu thẳm. Anh ta có mái tóc đen nhánh và một đôi mắt đầy hoài nghi.
Đang băn khoăn thì cô cảm thấy mình được kéo xuống ngựa nhờ một bàn tay luồn vào tóc. Cô không thể hiểu được, nhưng bằng cách nào đó, người đàn ông ấy có thể vừa ôm cô trong tay, vừa xuống ngựa mà không gặp khó khăn gì. Jessica kéo tóc mình lại để khỏi đau. Lúc cô đang đứng thì có tiếng nắm đấm chạm vào da thịt.
Cô ngẩng lên vừa đúng lúc nhìn thấy một người đàn ông cưỡi ngựa ngã ngửa ra sau và chửi thề. Khi hắn đang chạm vào cái mũi chảy máu của mình, cô chỉ đoán hắn là người giật tóc cô và bị ăn đòn vì làm thế.
Hắn có mái tóc sáng màu và một khuôn mặt hằn rõ sự khó chịu. Khuôn mặt đó, cùng với cái mũi be bét máu, tất nhiên là đã nhăn lại vì tức giận. Hắn quát tháo gì đó với vị cứu tinh của cô. Jessica biết ngay cô không có ý muốn tìm hiểu tên này, nhất là khi hắn bỏ tay khỏi mũi và rút ra một thanh kiếm. Hắn vung kiếm qua đầu nhưng lại có vẻ loạng choạng như không tỉnh táo.
Jessica cảm thấy miệng mình há ra. Hoặc là cô đang mơ hoặc là đường huyết của cô đang tụt xuống nhanh chóng. Cô nhìn người trên ngựa khua khoắng thanh kiếm như thể đang nghiêm túc nhưng rồi cô nhận ra một điều khác.
Người đàn ông đứng cạnh cô chẳng buồn phản ứng lại. Anh ta cũng có kiếm. Cô biết vì chuôi thanh kiếm đang cọ vào người cô. Chuyện vị cứu tinh của cô - cô chắc chắn muốn gọi anh ta như thế, còn hơn là người đáng sợ mang kiếm - cũng đeo một thanh kiếm cũng đủ làm cô muốn ngồi xuống để suy nghĩ thấu đáo.
Cô suy nghĩ mất một lúc. Sau đó, cô nhận ra rằng vị cứu tinh của cô đang nói gì đấy. Chỉ bằng giọng nói, anh ta cho thấy việc ở trong tầm mắt anh ta chẳng vui vẻ gì. Jessica lập tức quyết định đối đầu với người này sẽ là giải pháp cuối cùng. Có lẽ, cô có thể dùng con ngựa của anh ta trốn đi trong lúc anh ta đang bị phân tán sự chú ý. Cô lui người dần về phía sau. Chẳng có lý do gì để không dùng anh ta làm lá chắn trong khi có thể.
Jessica nhìn qua vai anh ta thấy người đàn ông kia vẫn đang ngồi dạng chân trên lưng ngựa, ánh kiếm sáng lấp lánh đang dần giơ lên cao. Dường như hắn đang quyết định điều gì đó. Hắn cho thanh kiếm của mình trở lại bao và thúc vào hông ngựa. Con vật hí lên rồi chồm về phía trước. Người đàn ông phóng vụt qua. Chỉ sau khi lớp bụi tan hết, Jessica mới nhận ra là cô đang nín thở. Sau đó, cô nhận ra một điều khác.
Người đàn ông đang nắm chặt cổ tay cô vừa mới đánh bại một người đàn ông khác cũng to cao không kém, ngồi trên yên ngựa với một thanh kiếm được rút ra. Vậy mà anh ta vẫn giành chiến thắng chỉ bằng lời nói.
Anh ta quay lại vànhìn xuống cô. Mỉm cười khi đối diện với khuôn mặt dữ tợn không phải làchuyện dễ. Nhưng cô vẫn có thể lên tiếng.
“Cảm ơn,” cô nói nhưng lại nghe như một tiếng than rầu rĩ. “Chắc thế.”
Anh ta nhún vai, coi như ghi nhận lời xin lỗi của cô rồi gạt đi. Anh ta đặt tay lên eo Jessica làm cô giật bắn mình ngạc nhiên.
“Buông tôi ra,” cô nói, cố đẩy anh ta ra. “Tôi nghiêm túc đấy, thưa anh. Tôi biết ơn sự giúp đỡ của anh, nhưng giờ tôi ổn rồi. Bây giờ, thì xin anh thứ lỗi...”
Cô thở hít vào một hơi ngạc nhiên khi người đàn ông này dễ dàng bế bổng và quẳng cô lên trên yên ngựa. Cô thậm chí còn không có thời gian để chỉnh lại chiếc váy khi phải ngồi dạng chân trên ngựa. Anh ta nhảy vọt lên ngồi phía sau.
Mọi thứ không theo kế hoạch mà cô đã tính.
Nhưng trước khi cô kịp phản đối, người đàn ông đã với lấy dây cương, rồi thúc ngựa đi về phía trước. Jessica nắm chặt phía trước yên ngựa và cầu nguyện cô sẽ lành lặn trở về nhà, giả sử thực sự là họ đang trên đường trở về nhà. Mặt trời đã xuống núi và hoàng hôn đang nhanh chóng phai dần. Cô đã thử hết sức mình để đoán nơi họ đang đến. Như thế thì cô mới nhẹ nhõm một chút. Cảm giác như được trở về ngôi nhà của ngài Henry vậy.
Cô nghe thấy một vài âm thanh trước khi có thể thấy rõ mọi thứ. Cô có thể nghe thấy tiếng súc vật kêu la. Có tiếng đàn ông hét lên và cười ầm ĩ. Có tiếng người nói bằng thứ ngôn ngữ cô không hiểu được. Những âm thanh gợi cô nghĩ đến một khu chợ nhộn nhịp với các lái buôn lớn tiếng khoe khoang sự vượt trội của hàng hóa. Nhưng những âm thanh này đáng ra không nên xuất hiện. Vườn nhà Lãnh chúa Henry luôn rất yên tĩnh và chắc chắn, thị trấn thì không ở gần thế này. Hơn nữa, khách du lịch đã không còn ở đây nữa rồi.
“Lãnh chúa Henry đã làm cái...” Giọng cô nhỏ dần khi thấy một thứ rất lớn đang hiện dần ra sau lớp sương mù.
Không, không phải là lớn, mà là khổng lồ.
Cô đang kiềm chế không hét ầm lên.
Đó là một tòa lâu đài. Tòa lâu đài ở đúng vị trí ngôi nhà của Lãnh chúa Henry. Thật ra, cô thấy nó khá giống tòa lâu đài mà Archie đã thô lỗ vác cô ra khỏi khoảng hai giờ trước.
Và ở đó, ngay vị trí sân vườn là một cây cầu. Một cây cầu còn dùng được, với những người đàn ông cưỡi ngựa và những ngọn đuốc sáng rực. Jessica ngước mắt nhìn tường thành nơi có ít nhất ba tầng gác trên cao và giật mình khi thấy những người đàn ông đang đi qua đi lại bên trên. Những lính canh với chiếc mũ giáp sắt lấp lánh ánh bạc dưới ánh trăng.
Thế nhưng chẳng thấy bóng dáng ngôi biệt thự Victoria xinh đẹp mà cô đã đem lòng yêu mến đâu.
Jessica cố gắng thoát khỏi yên ngựa, nhưng người đàn ông vẫn ghì chặt cô trong vòng tay. Cô nắm lấy dây cương ở phía trước, nơi bàn tay anh ta đang nắm và giật mạnh. Con ngựa thiến chồm lên và người đàn ông phía sau lẩm bẩm chửi thề. Jessica kéo dây cương lại một lần nữa, cố gắng quay đầu con ngựa lại. Cô thúc mạnh gót chân của mình vào hông ngựa. Con ngựa lại lồng lên. Jessica thảdây cương ra và huých người phía sau thật mạnh. Anh ta loạng choạng. Jessica lại giật dây cương và huých thêm cái nữa làm anh ta ngã xuống đất. Jessica quay đầu con ngựa và đạp gót chân của mình vào sườn nó.
“Đi đi!” cô hét lên. “Allez, con ngựa ngu ngốc!”
Lạy Chúa, con ngựa đã nghe lời. Jessica vuốt nhẹ đầu nó và để cho gió mạnh tạt vào khuôn mặt cho đỡ hoảng loạn. Cô sẽ thoát khỏi chuyện này ngay khi cô thấy đường và ra tới quán rượu. Cô chỉ cần tìm một cái điện thoại. Lãnh chúa Henry sẽ giải quyết tất cả.
Cô nghe thấy tiếng huýt sáo chói tai cùng những tiếng lầm bầm ngay cả trước khi cô thấy con ngựa thiến đứng khựng lại. Cô giật dây cương, hoàn toàn mất kiểm soát. Cô chẳng thể làm gì ngoài việc tận hưởng chuyến đi. Nhưng chẳng được lâu.
Cô ngã ngửa xuống đất, choáng váng. Cô thoáng nghĩ đầu mình chưa đập vào đá trước khi cô nhận ra mình không thở được. Không chút nào cả.
Cô cố gắng hít thở, thật đấy. Đôi mắt cô mở lớn, hướng về những vì sao, cố làm cơ thể có phản ứng. Sau đó, cả bầu trời của cô bị che khuất bởi hình bóng người đàn ông kia, chân ở hai bên người cô, nhìn xuống, ngực phập phồng. Đây là người đàn ông đẹp nhất cô từng gặp cũng có sao. Anh ta đeo kiếm bên hông cũng có sao. Ngay cả cái cau mày hay cách cái cau mày làm nổi bật vết sẹo trên khuôn mặt nghiêm nghị cũng không làm cô sợ.
Thứ duy nhất làm cô phiền lòng là con ngựa chết tiệt của anh ta. Hình như nó đang cố đền bù cho việc hất cô xuống đất bằng cách thở phì phò và nhỏ dãi lên trán cô. Người đàn ông xua con ngựa ra chỗ khác và lẩm bẩm vẻ chán ghét.
Một người đàn ông sẽ yêu cô nhiều như yêu chính mình.
Jessica mỉm cười gượng gạo. Đó là những gì cô mong ước, phải không? Đúng và cũng có câu nói thường đi kèm với ước muốn: Cẩn thận với những gì bạn ước vì có khả năng nó sẽ thành hiện thực.
Thế giới của cô xoay mòng mòng trước khi cô có thể đưa ra bất cứ chiêm nghiệm nào cho sự trớ trêu của câu nói đó.