H
oàng Phượng Khoát là thôn làng cổ nằm trên đồng bằng Dự Đông, có con phố dài kéo dài từ bắc xuống nam, cứ cách một ngày lại có một phiên chợ. Cũng chính vì có chợ phiên mà mọi người gọi Hoàng Phượng Khoát là “chợ phiên Hoàng Phượng”. Chợ phiên vô cùng náo nhiệt, có quầy bánh màn thầu, sạp vải, cửa hàng bán cá tươi, cửa hàng vàng bạc, quán trà bày một cái ấm trà to bằng đồng thau, nồi thịt hầm gia truyền đun bằng than củi, có người bán gà vịt giống, củ sen tươi, đồ dùng bằng gỗ, cắt tóc, vá nồi, đoán chữ, xem bói, người mua kẻ bán đông đúc, tiếng hò hét, tiếng rao bán đinh tai nhức óc.
Phía nam Hoàng Phượng Khoát là cánh đồng lúa mì bao la ngút tầm mắt, phía bắc là dòng sông mang tên Hoàng Phượng. Sông Hoàng Phượng là một nhánh của sông Hoàng Hà, khi mùa xuân tới, lau sậy xanh rì mọc um tùm bên bờ sông, dưới gốc chỗ nào cũng thấy rau ngải dại, rau cần, măng non,... có thể hái ăn. Nằm sâu trong bụi lau là nhà của loài chim hải điểu, những chú cò trắng muốt chân dài, chim vàng anh với bộ lông vàng rực rỡ thường được người xưa đưa vào trong thơ ca trong tranh họa, chim tước mỏ đỏ móng đỏ, còn có từng đàn vịt trời cánh lấp lánh màu xanh ngọc. Nếu đi sâu vào trong bãi lau, thường xuyên nhặt được cả vốc trứng chim vịt trời, với người dân Hoàng Phượng Khoát đó là chuyện rất đỗi bình thường.
Nước sông Hoàng Phượng xanh màu vỏ đỗ, nước trong vắt như ánh trăng trên trời, lớp sương màu xanh nhạt lãng đãng trên mặt hồ, cá, tôm, nghêu sò trong hồ nhiều vô kể, nhất là cá chép đỏ nổi tiếng gần xa, được mệnh danh là “cá chép Hoàng Hà”. Nhà nào muốn cảm tạ bà mối, làm cơm đãi khách, thì cá chép Hoàng Hà là món không thể thiếu trong mâm cỗ, có món này thì bữa tiệc mới trọn vẹn, không khí mới tưng bừng vui nhộn.
Lan Nhi sống ở ven sông đến năm lên mười, còn chưa biết thế nào là âu lo.
Hoàng Phượng Khoát là vùng đất màu mỡ tổ tiên của Lan Nhi đều sinh sống ở đây. Ngoài đồng, tháng tư trồng cao lương, tháng năm trồng ngô, tháng bảy trồng bông, tháng chín trồng cải dầu, tháng mười trồng lúa mì, không lo thiếu lương thực. Lúc quả bông già, cánh đồng bông trắng xóa như tuyết, nhìn tuyết nở rộ trên đất là biết ngay vì sao bà con Hoàng Phượng Khoát đều mặc những chiếc áo bông mới. Không lo cái ăn cái mặc, người dân Hoàng Phượng Khoát lúc nào cũng cười vui hớn hở.
Duy nhất một việc khiến người dân sinh sống ven sông Hoàng Hà luôn thấp thỏm lo âu là khi lũ về.
Lan Nhi nghe ông kể, khi Hoàng Hà bị vỡ bờ và đổi dòng, nước lũ gào thét như con mãnh thú, nuốt chửng toàn bộ thôn trang và đồng ruộng, trong dòng nước lũ, trong nháy mắt con người biến thành con kiến, nhỏ bé và yếu đuối túm lấy bất cứ thứ gì có thể giúp mình đứng vững. Nhưng con người rất quật cường, chỉ cần túm được một mảnh gỗ nổi thì cũng có thể vật lộn để sống tiếp, đợi đến khi nước rút, sông Hoàng Hà phẳng lặng, con người lại giống đàn kiến đào lỗ đắp ổ, nuốt nước mắt vào trong, vẫn mặt trời mọc ra đồng, mặt trời lặn nghỉ ngơi.
Ông nội Lan Nhi tài giỏi nổi tiếng khắp vùng Hoàng Phượng Khoát, có thể làm thợ mộc, thợ sơn, thợ nề, đan lưới bắt cá, xây nhà khắc hoa, tay nghề chăm sóc ruộng vườn thì hiếm có khó tìm trong phạm vi vài chục dặm. Gia đình Lan Nhi có cuộc sống đầy đủ sung túc, đều do một tay ông nội làm chủ hướng dẫn mọi người trong nhà.
Lan Nhi được ông nội nuôi nấng từ tấm bé, ông yêu quý Lan Nhi nhất, Lan Nhi cũng gần gũi với ông nhất.
Ông nội thích hát Dự kịch, nhìn thấy những thứ bay trên trời, chạy trên đất, bơi dưới nước, bất cứ lúc nào ông cũng có thể sáng tác và hát trôi chảy một đoạn Dự kịch. Giọng ông trầm lắng, khỏe khoắn, chỉ cần ông cất tiếng hát, những người xung quanh đều giỏng tai lên nghe như tai thỏ.
Thừa hưởng niềm đam mê ca hát của ông nội chỉ có chị hai Lê Nhi. Chị Lê Nhi thích hát hay cười suốt ngày ríu ra ríu rít như chim. Lê Nhi cũng thích sáng tác Dự kịch, nhưng lại không đầu không đuôi, khiến người nghe cười vỡ bụng.
Ông nội rất thích hát một đoạn ngắn ông sáng tác: Đồng ruộng bao la, lương thực đầy ắp cũng không bằng Hoàng Phượng Khoát. Có tiền mở tiệm kinh doanh nhỏ, cả ngày cười vui hớn hở. Không có tiền thì đến bờ sông Hoàng Phượng, vịt trời gà rừng có vài con, nhặt được trứng vịt ăn trứng vịt, nhặt được trứng gà nấu canh ăn, cho thêm một chút rau sam, thần tiên cũng chẳng sướng bằng mình!
“Hoàng Phượng Khoát là quả hồ lô vàng, sông Hoàng Phượng là dòng nước nuôi dưỡng cây hồ lô, cánh đồng xanh mướt nhìn ngút tầm mắt là tán lá giàn cây hồ lô đó”. Ông nội hay cười hà hà nói như vậy.
Tháng sáu, năm Lan Nhi mười tuổi, đúng vào dịp lúa mì chín rộ, cánh đồng lúa mì thẳng tăm tắp, phóng tầm mắt ra xa, những bông lúa mì nặng trĩu vàng óng ánh như biển cả mênh mông. Đi trong ruộng lúa mì chín vàng, thoắt một cái trở nên nhẹ bẫng, cứ như biến thành chú cá nhỏ giữa biển lớn.
Từng bông lúa nặng trĩu nở bung, như ông mặt trời tỏa ra vô vàn tia nắng vàng, màu vàng kéo kim dài đến tận chân trời. Trên đầu là bầu trời xanh thăm thẳm, dưới gầm trời là cánh đồng lúa mì lấp lánh ánh kim, mùi thơm đậm đà của lúa mì chín lan tỏa trong không khí.
Lan Nhi tay trái xách một hộp mì lạnh được làm bằng nước giếng, bên trên còn được rưới cẩn thận “nước sốt” trộn đều bằng dưa chuột, kinh giới và tỏi băm, tay phải xách chiếc bánh nướng thơm phức, bước đi thoăn thoắt trên con đường đất giữa các luống lúa mì.
Người lớn trong nhà đều đang bận cắt lúa ngoài đồng, không ai dứt ra được, thành ra việc nấu nướng được giao cho Lan Nhi. Từ nhỏ, Lan Nhi đã biết cán mì, hấp bánh, xào rau, ngay cả tráng bánh nướng cũng không làm khó được cô.
Lan Nhi mặc chiếc áo bông vạt khá rộng vải thô dệt bằng sợi màu hồng đào và màu xanh nhạt, cổ áo dựng lên ôm gọn chiếc cổ dài của cô, được cài bằng chiếc khuy vải tròn màu hồng đào. Từ cổ xuống vai, ngực đến chỗ eo bên phải được cài bằng khuy vải cùng màu. Chiếc quần bông màu xanh tím than được giặt sạch sẽ, chân đi đôi giày vải đen thêu hoa mẫu đơn và chim sơn ca.
Lan Nhi chải hai bím tóc đen nhánh, khuôn mặt tròn trịa trắng nõn nà, đôi mắt to tròn là đáng yêu nhất, đôi mắt biết nói cũng biết bày tỏ hỉ nộ ái lạc, chỉ cần chớp nhẹ một cái, những người nhìn vào đôi mắt ấy sẽ hiểu cô muốn nói gì. Lan Nhi tính tình trầm lặng, nụ cười luôn nở trên môi, lúc cô nhoẻn miệng cười, má bên trái có cái núm đồng tiền rất đáng yêu, còn khi cười sảng khoái thì mọi người sẽ thấy hàm răng trắng đều như hạt na của cô.
Lan Nhi mang đồ ăn ra ruộng, cả nhà đang cắt lúa liền dừng tay buông liềm, ngồi xúm lại dưới bóng mát hàng cây bạch dương bên bờ ruộng ăn cơm.
“Không sợ mây lững lờ, chỉ sợ mây vần vũ”. Lúc ăn cơm, thỉnh thoảng ông nội lại ngẩng lên nhìn mây trên trời lẩm bẩm. Sắc mặt ông cũng biến đổi như mây trên trời.
“Ông ơi, sao ông cứ nhìn mây thế ạ?” Lan Nhi cũng ngẩng đầu nhìn mây.
Sắc trời u ám, mây lúc nãy còn trắng phau phau thế mà loáng một cái đã biến thành con mãnh thú đen xì cuồn cuộn, nhìn mà sợ.
“Cháu nhìn kìa, mây vần vũ, thật đáng sợ”. Ông nội chau mày nói, “E là mưa to sắp ập xuống rồi, phải khẩn trương kéo lúa về thôi, dầm mưa ngoài ruộng thì hỏng hết”.
“Chị cũng biết xem mây! Ông đã dạy chị, xem ra sắp mưa to rồi!”, chị hai Lê Nhi khoe tài, “Lan Nhi, em nhìn xem, cơn đằng đông, công dã tràng; cơn đằng tây, ngập chết gà; cơn đằng nam, nước trôi thuyền; cơn đằng bắc, ngói thành tro. Mây đang vần vũ về phía nam, sắp mưa to thật rồi!”
Ông nội và bố mẹ chạy xuống ruộng, vớ một bó thừng cỏ đã bện chặt, nhanh thoăn thoắt bó từng ôm lúa thành bó chắc nịch.
Anh cả, chị cả từ nhỏ làm việc rất ổn thỏa chắc chắn, bận túi bụi cùng người lớn trong nhà, lúc này cũng đang chạy xuống ruộng, xếp từng bó lúa ông nội và bố mẹ đã bó xong lên xe ba gác gỗ.
Lan Nhi vừa thu dọn bát đũa, vừa chốc chốc lại ngẩng đầu nhìn mây trên trời
Chưa bao giờ cô được chứng kiến mây chạy nhanh như vậy!
Mây đen trên trời như đàn ngựa hoang, tung vó lao đi một cách thích thú, cả bầu trời như bị xé nát, nặng trình trịch đến sợ.
Cả nhà lòng như lửa đốt thu dọn lúa, đẩy xe ba gác chạy về nhà.
Vừa vào đến cửa, mưa ào ào trút xuống.
Mưa như trút nước cả nhà ăn cơm sớm, rồi vào buồng ngủ.
Đất sét đào ở ven sông Hoàng Phượng về, xây một ngôi nhà ba gian vững chãi kết cấu “lưng quay phía bắc, mặt hướng phía nam”. Nửa trên ngôi nhà xây bằng gạch mộc, nửa dưới xây bằng gạch xanh, mái nhà lợp cỏ lau. Gian giữa là phòng khách, vừa bước vào cửa đập vào mắt là bức tranh phú quý dán trên tường, trên ban thờ thờ Quan Thế Âm Bồ Tát. Trong phòng khách còn bày chiếc bàn vuông, bàn dài và ghế sơn màu đỏ mận, cửa ra vào và cửa sổ cũng sơn cùng màu rất bắt mắt, trên khung cửa sổ còn dán bức tranh giấy đỏ hình chim hỷ thước bay lượn trên cành mai.
Tất cả đều là tay nghề của ông.
Bố mẹ ở gian trái tây, ông nội và anh cả ở gian trái đông. Ba chị em ở gian chếch nhà bếp, trước cửa, Lan Nhi và chị cả trồng các loại hoa phượng tiên, hoa phấn, hoa ngọc trâm, mùa nào cũng có hoa nở rực rỡ, đó là “khuê phòng” tao nhã của mấy chị em.
Phòng khách nhà hàng xóm nằm ngay trước sân nhà Lan Nhi, vừa hay quây nhà họ thành tứ hợp viện yên tĩnh. Cuối mé đông khuôn viên có một chiếc giếng cổ ghép bằng những phiến đá xanh, nước giếng đông ấm hè mát, ngọt lịm mát rượi, mùa hè hái một chùm nho, rửa sạch cho vào trong làn thả xuống dưới giếng, để cỡ ăn xong bữa cơm thì kéo lên, ăn một quả, chao ôi, tươi ngon mát lạnh đến tậm tim. Ướp lạnh nho, dưa lê, dưa hấu, đào mật là việc Lan Nhi làm không biết chán.
Bên cạnh giếng có trồng một cây lựu già, nghe nói là ông nội trồng khi còn trẻ, đến giờ vẫn cành lá xum xuê, hàng năm cứ đến mùa hè, cây mọc chi chít hoa hình chiếc kèn đỏ rực. Hoa lựu không biết vì duyên cớ gì mà rụng đầy dưới đất, nhã nhặn trầm tĩnh như một bức tranh. Lan Nhi nhặt hoa lên, cánh hoa lựu cứng và dày hơn những loài hoa khác, bên trong có nhụy hoa màu vàng nhạt li ti, đưa lên mũi ngửi sẽ thấy mùi thơm xộc vào mũi.
Đàn kiến cũng bận rộn quanh giếng, một chú kiến vàng tò mò bò vào trong bông hoa lựu mãi không thấy bò ra. Lan Nhi chợt nghĩ, hay lũ kiến coi hoa lựu là ngôi nhà đỏ khổng lồ? Nếu cả đàn kiến ở trong bông hoa, khi đêm xuống, sẽ cùng ngồi trên cánh hoa lựu ngắm trăng.
Lan Nhi thích ngắm những búp lá xanh non vừa đâm trồi, một chú bọ ngựa giơ chiếc lưỡi liềm xanh lên, cô nhẫn nại ngồi đó theo dõi, vừa nhìn vừa lẩm bẩm nói chuyện với chúng: “Lá đào ơi, mày mọc ra từ hôm nào vậy? Lá xanh non phối với hoa đào hồng, đẹp tuyệt!”
“Bọ ngựa ơi, bọ ngựa, mày làm gì mà hung hãn thế, giơ cái lưỡi liềm lên chuẩn bị cắt lúa phải không?’
Lan Nhi bé nhất nhà, được mọi người yêu chiều nhất, cô không mộc mạc hay e thẹn như chị cả, từ sáng đến tối luôn chân luôn tay giúp người lớn làm lụng việc nhà, cũng không giống chị hai suốt ngày cười toe toét, chẳng có dáng dấp con gái gì cả. Lan Nhi xinh xắn và khéo léo hơn cả hai chị.
Bình thường, Lan Nhi thích nhất nghe ông nội hát tuồng trống quân. Ông có chiếc trống nhỏ sơn màu đỏ, mặt trống làm bằng da bò, kê chiếc giá làm bằng 6 cây trúc to bằng ngón tay. Lúc hát, tay trái ông cầm chiếc phách hình lưỡi liềm làm bằng gỗ dâu tía, tay phải cầm chiếc dùi trống làm bằng cành cây táo chua, đứng ngay ngắn trước trống, đánh dạo một hồi chiếc phách gỗ, rồi bắt đầu cất tiếng hát “Chú lừa đen” vô cùng hấp dẫn:
Ô, ô, một chú lừa đen... từ đằng tây chạy lại,
Nói rằng lừa đen, bảo rằng lừa đen,
Nhưng chú lừa đen trông thật lạ,
Chóp đuôi trắng, đầu tai trắng,
Lông lưng trắng rủ xuống mông,
Tôn vẻ đẹp bốn chân trắng,
Lưng lừa đóng yên da, bàn đạp đồng,
Giàm ngựa thắt hoa dây tua rủ,
Gỗ tử đàn gọt một chiếc ngáng hậu,
Nghe tôi hát anh nhìn xem kìa,
Trên lưng lừa một thiếu nữ xinh đẹp,
Nói rằng người đẹp, bảo rằng người đẹp,
Thiếu nữ kia mới mười bảy xuân xanh.
Tay thiếu nữ cầm chiếc giỏ xinh
Nói rằng chiếc giỏ, bảo rằng chiếc giỏ,
Trong chiếc giỏ đựng đầy câu chuyện,
Có đào tươi, có cả lê tươi,
Nào là bánh nướng, nào là kẹo vừng,
Quai giỏ buộc một chiếc khăn hoa,
Vù vù, ào ào... một chiếc giỏ.
Có người muốn hỏi cô là ai
Biện Lương thành, Thập Tự nhai,
Đường phía đông, cánh cửa đen,
Con gái thứ hai nhà Lý Văn Chu.......
Tiếng trống của ông nội vừa vang lên, Lục Hổ nhà đối diện và Thất Xảo mé phía đông liền chạy ào qua.
Lục Hổ có cái đầu tròn xoe, Thất Xảo miệng lưỡi sắc sảo đều là bạn thân chơi từ nhỏ của Lan Nhi.
Vẻ đắc ý ngạo mạn của chú lừa và vóc dáng xinh đẹp của cô gái ngồi trên lưng lừa trong đoạn “Chú lừa đen” này được ông hát vô cùng sinh động hấp dẫn. Lần nào ông cũng mở màn bằng trích đoạn này, vì ông biết đám trẻ con rất mê đoạn này.
“Ông ơi, chú lừa trong kịch thật là oách!” Lan Nhi cười nói, “cô gái đó cũng thật là xinh đẹp, như trong tranh”.
“Tớ thích nhất những câu chuyện đựng trong giỏ!” Thất Xảo nhanh nhẩu nói, “có đào tươi, có cả lê tươi!”
“Còn có bánh nướng và kẹo vừng!” Lục Hổ nói, nước miếng sắp ứa cả ra.
“Cậu đúng là háu ăn! Đúng là mèo ham ăn!” Thất Xảo mỉa mai Lục Hổ.
“Cậu không thích ăn chắc? Thế sao lúc nhắc đến đào tươi, lê tươi, cậu lại nuốt nước miếng?” Lan Nhi cười khúc khích nói.
“Hứ, tớ nuốt nước miếng bao giờ! Tớ chẳng thèm mấy thứ đào tươi, lê tươi gì đó” nói rồi không nhịn được, Thất Xảo lại nuốt ực một cái.
Lan Nhi và Lục Hổ nhìn Thất Xảo không sao nhịn được, cười phá lên.
“Hai kẻ xấu tính này chỉ thích cười nhạo người khác!” Thất Xảo cũng cười, làm nũng với ông nội: “Ông ơi, ông hát thêm một bài đi, đừng chỉ hát về đồ ăn, hai đứa xấu bụng này cứ nghe thấy ăn là nuốt nước miếng ừng ực, tiếng còn to hơn gà trống gáy!”
Ông phì cười, nói: “Thế chúng ta hát tiếp “Ngũ thử đại náo Đông Kinh” nhé!”
“Hay quá” Lan Nhi khoái chí reo lên, “cháu thích nhất Bạch Ngọc Đường, Bạch Ngọc Đường vừa thông minh vừa đẹp trai!”
Thế là ông cười khà khà bắt đầu vừa nói vừa hát vở “Ngũ thử đại náo Đông Kinh”.
Đoạn “Ngũ th̉ử đại náo Đông Kinh” ông nội đã hát rất nhiều lần. Qua ca từ, Lan Nhi biết “Ngũ th̉ử” là năm tráng sĩ hiệp nghĩa: “Toàn Thiên Th̉ử” Lư Phương sống trên thuyền cá từ nhỏ, giỏi leo trèo, nhanh nhẹn như vượn; “Triệt Địa Thử” Hàn Chương giỏi đào hố đặt bẫy; “Xuyên Sơn Thử” Từ Khánh có tài đào núi; “Phiên Giang Th̉ử” Tưởng Bình giỏi bơi lội; “Cẩm Mao Thử” Bạch Ngọc Đường khôi ngô tuấn tú, văn võ song toàn.
Qua diễn xướng của ông, câu chuyện giữa “Ngũ Thử” và “Ngự Miêu” Triển Chiêu diễn ra vô cùng gay cấn, Lan Nhi, Lục Hổ và Thất Xảo lần nào cũng nghe say sưa.
Ông nội còn biết diễn tấu vở “Lưu Công Án”, nói về một viên quan thanh liêm, trí tuệ hơn người, giúp dân xử án, phá hết vụ kỳ án này này đến vụ kỳ án khác. Câu chuyện lắt léo hấp hẫn, tình tiết đan xen, thử thách trí thông minh của người nghe, trẻ con đều thích nghe, đang nghe, thỉnh thoảng Thất Xảo lại reo lên: “Cháu đoán ra ai là kẻ xấu rồi! Chính là người phụ nữ xinh đẹp Bạch Thùy Liên......” lần nào cũng sai be bét, nhưng cứ nghe thấy câu chuyện mới là Thất Xảo lại không kiềm chế được hét lên.
Ngoài hát tuồng trống cơm, ông nội còn giỏi kể chuyện thần tiên ma quỷ mà Lan Nhi vừa thích lại vừa sợ nghe.
“Chính ngọ quỷ dạo chơi”. Ông nói với chúng tôi, giữa trưa trẻ con không được chạy lung tung đến những chỗ hoang vắng, dưới sông có thủy quái lông xanh, mặt nó giống bé trai, chỏm lông đầu xanh nhưng lại có thân hình khỉ. Thủy quái rất gian xảo, thấy trẻ con đến mép nước, nó sẽ ngon ngọt gọi tên đứa trẻ, có thể bắt chước giọng nói của người thân đứa trẻ, vì thế rất dễ bị lừa lôi xuống nước.
Cây cổ thụ lâu năm có nàng tiên cây mặc chiếc váy voan xanh thướt tha, bay qua đầu người như cơn gió. Mắt thường không nhìn thấy, mùa hè khi cơn gió thổi qua, nếu bỗng ngửi thấy mùi thơm tươi mát của cây cỏ, cũng là lúc tiên cây bay qua đỉnh đầu.
Trong kho lương có thần ngũ cốc trông coi lương thực. Thần ngũ cốc vóc người thấp bé, cùng lắm cũng chỉ cao bằng cây hẹ, khuôn mặt tròn vàng suộm, mắt to, lúc nào cũng cười tươi như hoa, là vị thần rất hòa nhã dễ gần. Hàng năm cứ đến Tết, ông nội đều đích thân viết câu đối đỏ bằng bút lông, câu đối dán trên cửa kho là: Ngũ cốc thiên nhiên hữu, Cốc thần vạn niên tồn.
Trong bếp có thần bếp, cửa nhà có thần cửa, trông coi giếng cổ có thần giếng, phụ trách đi tuần thị sát bờ sông Hoàng Phượng có thần sông, ngay cả cái cối giã tỏi đá đỏ tổ tiên để lại cũng có thần linh phù hộ. Lan Nhi hỏi ông thế thì là vị thần nào ạ, ông nghĩ rồi nói, là thần đá.
Hàng ngày ra ra vào vào trong nhà, Lan Nhi lại nhớ đến các vị thần ông nội kể, trong lòng trào dâng cảm xúc vừa ấm áp vừa yên lòng, có nhiều thần tiên trông nom bảo vệ cho cả nhà như vậy, mình không còn sợ gì nữa.
Tối hôm mưa to, Lan Nhi và chị cả ngủ một đầu, đầu kia là chị hai đang nói luyến thoắng.
Chị hai đang kể về chú Thái Thăng ở trong thôn, ở đối diện nhà Lan Nhi.
“Chú Thái Thăng tài thật, căn nhà của chú ấy mới đẹp làm sao!” chị hai Lê Nhi tấm tắc khen.
Chú Thái Thăng bằng tuổi bố tôi, cao to cường tráng, đi nhanh như gió, vừa nhìn đã biết là người nhanh nhẹn hoạt bát. Chú mồ côi từ nhỏ, thế mà giờ đã có ngôi nhà sân trước sân sau vuông vức, xinh xắn. Cậu con trai độc nhất của chú Lục Hổ mới bằng tuổi Lan Nhi, nhưng chú đã chuẩn bị sẵn nhà cho Lục Hổ rồi, cho thấy chú Thái Thăng là người sáng suốt giỏi giang thế nào.
Chú Thái Thăng vốn chỉ có mảnh đất thổ cư. Đối diện nhà Lan Nhi vốn là một hố đất sâu để hoang đã nhiều năm. Cứ đến mùa xuân, trong hố mọc đầy cỏ dại, đàn cừu trắng như tuyết chen nhau chạy đến, ăn ngon lành những ngọn cỏ tươi non.
Hồi đó chú Thái Thăng còn trẻ, đại loại là mười bảy mười tám tuổi, chàng trai không cha không mẹ đã biết lo nghĩ cho mình ngay từ sớm. Ngày ngày, chú vác cuốc chim, xách sọt, vác từng sọt đất, lấp đầy cái hố sâu. Ban đầu, thấy chú vác đất, người trong thôn cười giễu chú. Người phụ nữ đanh đá ăn nói chua ngoa thím hoa ớt cười như nắc nẻ nói: “Cậu làm vậy chẳng khác gì chim én xây tổ, lấp từng tí một, có mà đến mồng thất mới lấp đầy cái hố này! Nếu lấp đầy được thật, tôi sẽ mổ gà làm đồ nhắm thiết đãi cậu!”
Những người xúm lại xem cười ồ lên rồi tản đi.
Thím hoa ớt là người phụ nữ nổi tiếng chua ngoa ở Hoàng Phượng Khoát, thím cứ mở miệng là cay hơn ớt, ai dây vào thím, thím sẽ theo người đó về đến tận nhà, cái miệng chanh chua sẽ nói không ngớt, từ trước đến nay chỉ có thím cả vú lấp miệng em chứ chẳng ai dám dây vào thím.
“Thím hoa” là cách gọi thân mật cô dâu vừa về nhà chồng, sau một năm cách gọi này cũng tự khắc biến mất. Thím hoa ớt đã ngoài ba mươi, nhưng mọi người vẫn hài hước gọi thím là “Thím hoa”, ít nhiều cũng có ý trêu chọc. Chủ yếu là vì thím là người mau mồm mau miệng, bất kể già trẻ trai gái thím đều trêu ghẹo, hơn nữa còn là người phụ nữ đẹp trong thôn, mái tóc đen bóng mượt, đôi mắt to long lanh, nụ cười tươi như hoa, luôn là nhân vật trung tâm, bà con trong thôn đều thích tán dóc với thím.
Chú Thái Thăng nghe thấy thím hoa ớt giễu mình thì mặt lạnh tanh như đóng một lớp băng, mặt không biết sắc, vẫn miệt mài vác đất trong tiếng cười của mọi người.
Cho đến một hôm, những người ưa dậy sớm chợt giật mình nhận ra, cái hố sâu đó đã được chú Thái Thăng lấp đầy từ lúc nào. Không ai ngờ được rằng, từng sọt đất như chim làm tổ ấy lại lấp đầy được cái hố đó. Và rồi, mọi người lại sửng sốt khi thấy chú Thái Thăng lặng lẽ xây móng trên cái hố đã lấp đầy, lặng lẽ xây ngôi nhà vách đất vàng mái lợp cỏ lau khang trang. Giờ thì mọi người mới ý thức được rằng, hóa ra người đàn ông mặt khó đăm đăm, chẳng nói chẳng rằng, suốt ngày làm lụng ngoài đồng kia lại lợi hại như vậy.
Từ đó, chú Thái Thăng trở thành nhân vật được kính nể trong thôn.
Việc đồng áng chú Thái Thăng đều rất thành thạo, khéo tay hay làm, bất kể việc phức tạp đến mấy, chỉ liếc qua là chú đều mày mò ra, trừ ông nội Lan Nhi, không ai vượt qua được chú. Mọi người hay nói, người thông minh thường lắm tâm tư, tâm tư của chú Thái Thăng nhiều như chín mươi chín miếng củ sen tươi cắt lát!
Chị hai cứ nói ra rả, Lan Nhi nghe câu được câu chăng, tiếng mưa ngoài cửa sổ nghe to đến phát sợ.
Không biết cô ngủ mơ màng từ lúc nào, trong mơ nghe thấy tiếng chú dế mèn xanh đang kêu “rít rít”, âm thanh trong trẻo, véo von. Trong giấc mơ Lan Nhi còn ngờ vực, đang là mùa hè mà, sao lại nghe thấy tiếng dế mùa thu kêu chứ? Hơn nữa, chú dế nhìn thấy trong mơ lại xanh biếc! Xanh như lá cải mới mọc trong vườn rau.