L
an Nhi tỉnh lại từ trong giấc mơ.
Lan Nhi mơ thấy mình ngồi trên lưng chú dế xanh biếc đó như ngồi trên con tuấn mã cao to, chú dế đưa cô xuyên qua cánh đồng đã gặt xong. Mùi thơm ngọt mát toả ra từ những cọng lúa mì trên đồng, xa xa là hàng cây bạch dương lá xanh rì.
Cô xúc động đến mức tim như sắp nhảy ra ngoài, cúi xuống nhìn lưng chú dế vừa xanh vừa phẳng, cặp râu xanh như hai cành liễu mềm mại phất phơ trước mắt cô.
Chú dế chạy mải miết về phía trước, chạy qua cánh đồng bao la, Lan Nhi trông thấy ngô mới trồng đã ra lá xanh, dập dờn trong gió nhẹ, cả vùng đất lao la biến thành biển xanh.
Dế mèn vượt qua sông Hoàng Phượng rộng lớn, chạy qua bãi lau rậm rạp, chạy qua bụi hương bồ-mảnh đất màu mỡ của đàn vịt trời, chạy mãi đến trưsc một con sông mà Lan Nhi chưa bao giờ nhìn thấy.
Chú dế xanh vẫn chạy, chạy cho đến giữa con sông đó, đôi cánh nó chìm dần xuống nước, chìm đến bắp chân Lan Nhi, cô thấy nưsc sông lạnh ngắt, nỗi sợ hãi khó tả trào dâng trong lòng, cô bất giác hét lên, tỉnh giấc.
Lan Nhi ngồi dậy, hoảng hốt khi không thấy đôi giày vải đen thêu hoa mẫu đơn và chim sơn ca tối qua cô để ở đầu giường đâu nữa!
Không chỉ giày của cô, mà giày của chị cả và chị hai cũng không cánh mà bay, nước đục ngầu lênh láng, nưsc vẫn đang dềnh lên, đã mấp mé chân giường. Lan Nhi ngồi trên giường, cảm giác hoang mang trong giây lát, cứ như vẫn trong mơ, giường của cô giống như đang trôi trên con sông đó, nhưng cô biết không phải nằm mơ.
“Lũ về rồi! Thu dọn đề đạc mau lên!” Lan Nhi nghe thấy tiếng ông nội hô to. Chị cả và chị hai cũng giật mình tỉnh dậy, ba chị em chân trần chạy ra sân, bố mẹ và anh cả cũng đã chạy ra. Cả nhà đứng trong nước, hoảng hốt nhìn ông nội, dòng nưsc đục ngầu chảy xiết dưới chân.
“Chú ơi, lũ về rồi, làm sao đây?” thím hoa ớt, bố Thất Xảo và Thất Xảo ở mé đông vội vã lao sang.
“Mau lôi hết đồ gỗ trong nhà ra, đóng thành chiếc bè gỗ! Nước lên, miễn là cả nhà ngồi trên bè thì không lo chết đuối, giữ được mạng sống!” ông nói rất nhanh với dặn thím hoa ớt, “bố Thất Xảo về đóng bè ngay đi, mẹ Thất Xảo giọng to, mau đi thông báo cho các nhà trong thôn, khẩn trương đóng bè gỗ! Đồ gỗ trong nhà tận dụng hết, đóng được bè to bao nhiêu thì đóng, tôi ngửi mùi gió, đồ rằng trận lũ lần này sẽ không nhỏ đâu!”
“Chú ơi, chỗ chúng ta gần sông Hoàng Hà nhất, cũng không phải chưa từng gặp lũ, có cần phải cuống cà kê lên thế không?” bố Thất Xảo thật thà như đếm nói.
“Đợi lũ về thì muộn rồi, anh còn đứng ngẩn ra đấy làm gì? Còn không mau về đóng bè đi!”
“Nhà cháu không có đồ dùng gỗ”. Bố Thất Xảo làu bàu.
“Thôi, vào gian chứa đồ gỗ nhà chúng tôi lấy một ít trước, rồi tháo cánh cửa gỗ xuống, nước lên, ngồi trên cánh cửa cũng giữ được mạng sống!”
Ông nội miệng nói nhưng tay cũng không dừng phút nào, ông, bố Lan Nhi và anh cả Bảo Thư, ba người xúm lại đóng một cái bè rất to bằng tấm gỗ trẩu dày, dây thừng to và đinh sắt dùng để đóng thuyền.
Đóng bè xong, ông nội lập tức chỉ huy cả nhà chuyển lương thực lúa mì, đỗ tương, cao lương, v.v. lên xe ba gác, nồi niêu bát đĩa, xô chậu, quần áo bốn mùa, cưa bào làm đồ mộc, bay rãnh làm hồ, dao lưỡi liềm chuyên dùng để cắt lau sậy, một bó củi đã chặt sẵn, một bó cỏ lau buộc chặt, các loại nông cụ cuốc xẻng đều chuyển hết lên bè.
“Đừng quên túi hạt giống rau ở sau cửa bếp!” ông nhắc mẹ Lan Nhi.
“Ông ơi, chúng ta đi đâu thế ạ?” Lan Nhi chưa bao giờ thấy ông bận tối tăm mặt mũi như vậy, chứng kiến cảnh nhà dọn gần như sạch bong, cô vừa thấy sờ sợ lại có chút phấn chấn.
“Nhỡ nước lũ về, cả ngồi ngồi trên bè thì có thể giữ được tính mạng, còn phải ăn cơm!” ông trả lời một cách ngắn gọn.
Mọi thứ đã thu xếp xong, ông bảo bố mẹ Lan Nhi kéo chiếc xe ba gác chất lương thực ra miếu Hoàng Phượng có địa thế cao nhất trong thôn.
Miếu Hoàng Phượng nằm trên gò đất cao bên ngoài thôn, không ai biết miếu được xây từ bao giờ, nghe ông nói, hồi ông còn nhỏ miếu Hoàng Phượng đã nằm sừng sững ở đó rồi.
Ông nội và anh cả Bảo Thư lại chạy sang nhà khác trong thôn giúp một tay. Có nhà không biết đóng bè, có nhà chỉ có phụ nữ, con lại quá nhỏ, không biết xoay sở ra sao.
Lan Nhi và Thất Xảo chạy theo ông, chân trần lội trong dòng nước đến bắp chân, trong lòng thấy lo lo. Nhưng không hiểu sao lại có cảm giác hưng phấn mới lạ.
Ông và anh cả chạy đến nhà cô Phượng trước.
Cô Phượng là mẹ Thạch Sinh, bạn của Lan Nhi.
Người cô dong dỏng, gương mặt tròn trịa phúc hậu, xinh xắn trắng trẻo, là người phụ nữ giỏi giang. Mới ngoài ba mươi đã phải ở vậy nuôi ba con trai khôn lớn, trong nhà việc lớn việc nhỏ gì cũng đến tay, gieo hạt gặt lúa, chăn bò nuôi dê bận rộn suốt ngày, thím hoa ớt cười nói rằng: “giỏi hơn cả mấy lão đàn ông cộng lại!”
Cô Phượng còn rất khéo tay, hoa sen cô thêu dường như có thể ngửi thấy mùi thơm man mát, chim vàng anh như tung cánh bay cao, nhà nào sinh thêm con, chỉ ưsc ao có đôi giày đầu hổ do chính tay cô Phượng thêu. Giầy đầu hổ cô thêu oai phong lẫm liệt, đầu hổ được thêu bằng sợi kim tuyến và sợi chỉ đỏ, đôi mất hổ đen nhánh sinh động như thật, ai nhìn thấy cũng thích.
Những lúc nông nhàn, hàng ngày cô Phượng bán bánh nướng trên phố. Lò nướng bánh là con cả Bảo Sinh và con út Ngọc Sinh đào đất sét vàng chắc nịch về đắp, lúc nhào trộn cô Phượng còn tỉ mỉ cho thêm ít lá ngải cứu lò nướng bánh vừa nhóm xong, mùi lá ngải tỏa ra thơm nức mũi.
Cô Phượng làm bánh nướng cứ như chơi, tay trái cầm một cục bột đã nhào sẵn, tay phải nhanh chư cắt ấn một cái, vê một cái, gạt một cái, thế là cái bánh nướng tròn tròn mỏng mỏng như hạt bàn tính đã nặn xong. Cô nhanh tay đút bánh vào lò, nướng thơm phưng phức, nóng hôi hổi mới dùng xẻng sắt xúc ra. Bánh nướng cô Phượng làm vừa đẹp vừa ngon, ra lò mẻ nào hết mẻ đấy.
Ngoài bánh nướng, mùa hè cô Phượng còn bán mì lạnh, mùa đông bán canh viên đậu xanh nóng, mùi vị thơm mát tươi ngon, lượng vừa đủ, cô lại là người nhiệt tình rộng lượng, nên lúc nào cũng đông khách.
Cô Phượng không có con gái nên rất quý Lan Nhi. Cứ trông thấy Lan Nhi, dù bận đến mấy cũng kéo tay Lan Nhi hỏi chuyện dông dài rất thân mật. Giày thêu hoa Lan Nhi đi từ nhỏ đến lớn đều do cô Phượng làm. Hàng năm, cứ đến ngày sinh nhật Lan Nhi, sáng sớm cô Phượng đã mang một đôi giầy thêu hoa tinh xảo và một chiếc áo vải đỏ thêu hoa lan rực rỡ đến tặng.
Đám con gái trong thôn đa phần mặc áo màu xanh tím than, màu tro hoặc màu đen, ăn mặc qua loa đại khái. Cả thôn chỉ có Lan Nhi mặc áo màu đỏ sặc sỡ. Lan Nhi ít tuổi, lại được chiều nhất nhà, đám bạn đều rất hâm mộ cô.
Cứ mỗi lần lũ về, ông nội và mọi người trong nhà lại lo cho cô Phượng trong nhà không có người đàn ông gánh vác.
Lúc chạy đến nhà cô Phượng, ông nội và mọi người bất ngờ khi trông thấy chú Thái Thăng.
Chú Thái Thăng cao to cường tráng đang hò hét Bảo Sinh và Ngọc Sinh con trai cô Phượng chuyển cái cửa gỗ vừa tháo xuống qua. Chú ngồi trong sân, tay đang đóng bè, Lục Hổ con trai chú đang đứng cạnh giúp đưa dây thừng.
“Thái Thăng, bè gỗ nhà cậu đóng xong rồi sao?” ông nội hỏi
“Vâng, đóng xong rồi. Ở đây đã có cháu, chú ngồi nghỉ chút đi”. Nói rồi, chú cắn chặt một đầu dây, dùng sức kéo căng, các cơ trên mặt nổi lên.
Bình thường, mặt chú Thái Thăng cứ lạnh tanh, chẳng để ý đến ai, nhưng với ông nội Lan Nhi thì lúc nào cũng lễ phép.
“Tốt quá, vậy chúng ta sang nhà khác xem thế nào, ở đây trông cả vào cậu!” ông nội và anh cả lại chạy sang nhà khác trong thôn.
“Ông hấp tấp thế làm gì?” Thất Xảo nói, “cứ như thể trời sắp sập xuống vậy!”
“Ông nói rồi, nước lũ sẽ còn lên cao, chuẩn bị kỹ trước, lũ về cũng không sợ nữa”. Lan Nhi nói.
“Sao ông biết nước lũ sẽ tràn về?”
“Ông có thể ngửi thấy mùi nước sông Hoàng Hà từ trong gió!”
“Mùi nước sông Hoàng Hà? Là mùi thế nào?”
“Tớ cũng không biết. Chắc là mùi cá chép, mùi rong, mùi phù sa”.
“Chẳng phải cũng giống mùi nước sông Hoàng Phượng sao?”
“Không, ông nói, sông Hoàng Hà rộng lớn hơn một nghìn con sông Hoàng Phượng, còn đẹp và đáng sợ hơn nữa!”
“Trời đất, lớn vậy à! Thế thì sông Hoàng Hà to bằng trời ý nhỉ?”
“Cũng gần bằng!”
Lan Nhi và Thất Xảo chơi với nhau từ nhỏ đến lớn, Thất Xảo cũng đanh đá giống mẹ, người trong thôn gọi cô ấy là “ớt chỉ thiên”, ớt chỉ thiên là một trong những loại ớt cay nhất, cho thấy Thất Xảo ghê gớm thế nào.
Tuy chua ngoa, nhưng Thất Xảo lại hoạt bát tươi tắn, khéo tay hơn bất cứ ai, nào là bắt cá bằng vỏ lon, nào là làm chiếc váy cho tượng đất bằng lá bạch dương, ghép bông hoa bằng vỏ sò,... cái gì làm cũng tinh xảo đẹp mắt, bọn trẻ con trong thôn đều thích chơi với Thất Xảo, có cô ấy, trẻ con thôn khác không dám bắt nạt. Lan Nhi và Thất Xảo đều được bọn trẻ yêu mến, nên lúc nào cũng có cả đám lẽo đẽo theo sau.
Lan Nhi và Thất Xảo đi theo ông đến từng nhà trong thôn thông báo mọi người đóng bè, thu dọn đồ đạc, chuẩn bị mọi thứ trước khi lũ về, cho đến tận lúc trời sáng.
Bà con thôn Hoàng Phượng Khoát căng thẳng bận rộn suốt cả ngày cho đến khi trời tối thì phát hiện nước không dâng lên nữa. Mọi người thở phào yên tâm, nói rằng lũ chưa chắc đã về, có thể hôm sau sẽ rút thôi.
Chỉ có ông nội lòng đầy âu lo, ông nhắc mọi người, đêm ngủ phải cảnh giác, phải đề phòng lũ bất ngờ tràn về.
Đêm hôm đó, ba chị em thấp thỏm không yên, chị hai bình thường nói chuyện rít rít cũng im thin thít, lặng lẽ nằm trên giường. Lan Nhi ngủ cũng không yên giấc, giở mình liên tục, cứ có cảm giác không yên tâm. Cho đến lúc mệt quá, Lan Nhi thiếp đi lúc nào không biết.
Trong lúc đang mơ màng, Lan Nhi bỗng nghe thấy tiếng rầm rầm như tiếng sấm ở bên ngoài, cô sợ hãi bật dậy. Lan Nhi quỳ hai gối trước cửa sổ nhìn ra ngoài. Trời tờ mờ sáng, nhưng không phải màu xanh thẫm trước khi trời sáng, mà bỗng nhiên chuyển sang màu vàng, vô số hạt nước nhỏ li ti dường như đang chuyển động trong không khí, che kín mọi thứ trước mắt. Gió thổi dữ dội, táp vào mặt Lan Nhi, mùi nước tanh nồng, loáng cái mặt cô đã ướt nhèm.
“Dậy mau lên, lũ về rồi! Bảo Thư, mau gõ thanh la, để bà trong trong thôn chạy lên miếu Hoàng Phượng!” ông nội nói lớn.
Anh cả dạ một tiếng rồi vớ lấy cái thanh la, vừa gõ mạnh vừa hô hoán: “Lũ về rồi, bà con khẩn trương chạy lên miếu Hoàng Phượng! Lũ về rồi, bà con khẩn trương chạy lên miếu Hoàng Phượng!”
Lan Nhi vẫn còn đang lơ mơ thì bị bố lôi dậy, mơ mơ màng màng thấy ông nội, bố mẹ, chị cả hợp sức vác cái bè gỗ đó, chị hai vác một cái bọc to, với tay kéo Lan Nhi, cả nhà vội vã chạy về phía miếu Hoàng Phượng.
Miếu Hoàng Phượng là ngôi miếu cổ. Xung quanh trồng bách xanh ngan ngát, bách là loài cây trầm mặc, ít nói, cứ lặng lẽ lớn lên, tỏa ra hương thơm u uất, càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, linh thiêng của ngôi miếu.
Trông nom ngôi miếu chỉ có cậu bé độ mười ba mười bốn tuổi Thạch Sinh.
Thạch Sinh là người rất lập dị, nghe người lớn nói, năm bảy tám tuổi cậu ấy đã thích lên miếu, thường xuyên ở lại trong miếu, làm bạn với ông từ trông nom miếu hồi đó. Sau khi ông cụ qua đời, Thạch Sinh trở thành người trông miếu trẻ nhất, ngôi miếu chẳng khác gì ngôi nhà thứ hai của cậu.
Thạch Sinh có anh trai Bảo Sinh và em trai Ngọc Sinh đều khôi ngô tuấn tú, nói năng khéo léo, ai nhìn thấy cũng mến.
Chỉ có Thạch Sinh nhìn không được vừa mắt cho lắm, da cậu đen như đít nồi, được cái ngũ quan thanh thoát. Nhưng kỳ lạ là, dù có bao nhiêu tuổi thì khuôn mặt Thạch Sinh vẫn cứ như đứa trẻ bảy tám tuổi, vẫn có chút hoang mang, hiếu kỳ và cái thái độ coi trời bằng vung. Người khác thấy Thạch Sinh kỳ quái, nhưng Lan Nhi lại chơi rất thân với cậu, gặp nhau là nói không hết chuyện, Lan Nhi thường xuyên đến miếu chơi với Thạch Sinh.
Nhưng Thất Xảo thì không bao giờ đến cả.
Thất Xảo rất bất mãn việc Lan Nhi một mình đi kiếm Thạch Sinh, mặt hằm hằm nói: “Cậu không đi không được sao! Anh ấy đần như khúc gỗ, chẳng khác gì quả bí ngô đặc!”
“Cậu đừng nói thế, tớ thấy anh Thạch Sinh rất tốt, chỗ anh ấy có rất nhiều trò hay, trong miếu có chim ngói, dế mèn, châu chấu còn có cả chim mào trắng! Thất Xảo, cậu đến xem là biết ngay”. Lan Nhi chớp chớp đôi mắt to tròn nói.
“Tớ không thèm! Mẹ tớ nói rồi, không cho tớ chơi với anh ấy, mẹ tớ nói Thạch Sinh sống trong miếu, nửa người nửa ma, không phải người bình thường!” Thất Xảo hất mạnh bím tóc dài.
Lan Nhi đỏ mặt, không nói được câu nào. Kệ cô ấy, Lan Nhi cũng hất nhẹ bím tóc, lại chạy đến miếu chơi cùng Thạch Sinh.
Thạch Sinh biết chơi những trò thú vị hấp dẫn, thần bí, chỉ có mình Lan Nhi biết.
Trong lòng Lan Nhi, Thạch Sinh thân hơn bất cứ chúng bạn nào khác.
Giờ thì hầu như tất cả người dân trong thôn đều chen chúc trong miếu, lòng đầy lo âu nhìn dòng nước lũ chảy xiết bên ngoài.
Tiếng ùng ùng như tiếng sấm vọng lại từ đằng xa, nước lũ như con trâu mộng tuột dây thừng, chồm lên ngọn sóng hung hãn, cuồn cuộn lao tới.
Không biết ai đã thả con trâu vàng trong suốt dưới địa ngục ra!
Trong đầu Lan Nhi chợt xuất hiện ý nghĩ này.
Bố cồng kênh Lan Nhi trên vai, bà con trong thôn chỉ còn biết giương mắt nhìn dòng nước đang dâng cao.
Có vài cây lúa mì khô nổi lên, chúng bị nước đánh cho tơi tả, cọng lúa khô màu vàng suộm dập dềnh trên mặt nước.
Lan Nhi sợ hãi nhìn về phía thôn, chỉ trông thấy nhà cửa bỗng chốc thấp tè, nước ngập đến ngang nhà, chuồng gia súc thấp bé chỉ còn lộ ra cái nóc, đường sá biến thành con sông dài, nắp nồi gỗ, làn tre, đũa và củi đã chặt nổi lềnh bềnh.
Bò, cừu, gà bị nước cuốn trôi.
Lan Nhi mím chặt môi, tim cô run run như giọt sương đọng trên lá sen sắp sa xuống. Lần đầu tiên cô cảm nhận được nỗi sợ hãi khi nước lũ điên cuồng nhấn chìm thôn làng, cảm nhận được những gì ông nội nói, con người nhỏ bé và chới với như một con kiến.
Lúc này, mọi người bỗng nghe thấy tiếng khóc rống lên, vừa khóc vừa gào: “Ôi, Phát Tài của tôi, Phát Tài của tôi vẫn buộc ở nhà, quên không mang theo rồi!”
Hóa ra là ông tôm lưng gù đang khóc.
Lan Nhi nghe ông nội nói, ngày trước ông tôm là tay đồ tể có tiếng cả vùng Hoàng Phượng Khoát, còn mở cửa hàng thịt hầm thơm nức vạn dặm ở thôn, suốt ngày ăn uống no nê, thịt lợn, tiết lợn, nội tạng lợn ăn không hết, mỗi lần ra khỏi nhà, trên người vẫn còn phảng phất mùi thịt hầm thơm đến ngất ngây, bà con hàng xóm không biết bao nhiêu người hâm mộ ông. Không biết bao nhiêu cô gái xinh đẹp muốn gả cho ông, để cả đời được trông nồi thịt hầm thơm ngào ngạt, nhưng ông tôm thời trẻ mắt lại mọc trên trán, các cô có xinh đẹp đến mấy ông cũng không ưng, một lòng mong mỏi chọn được cô gái như tiên nữ giáng trần. Kết quả là, năm này qua năm khác, bụi lau hết xanh lại vàng, hết vàng lại xanh, vịt trời ở Hoàng Phượng Khoát từng đàn lớn lên rồi già đi, những cô gái không lọt vào mắt ông tôm đều đã bay đi bốn phương tám hướng, còn lại ông tôm cô đơn một mình cho đến hôm nay.
Hơn chục năm trước, ông tôm đã không còn là tay đồ tể oai phong lẫm liệt nữa rồi. Quanh năm ăn thịt cả tảng, uống rượu cả bát khiến ông bị đột quỵ năm bốn mươi tuổi, chỉ trong một đêm, người đàn ông cường tráng biến thành người méo mồm mặt lệch, mất một thời gian dài mới xuống giường đi lại được, nhưng ông đi bước thấp bước cao, tay chân không còn sức, ngay cả túi bông cũng không xách được, không còn mổ lợn được nữa. Cửa hàng thịt hầm mở hơn hai mươi năm khách khứa nườm nượp cũng biến mất từ đó.
Giờ cứ nhắc đến ông tôm, những người quen biết ông ở vùng Hoàng Phượng Khoát đều nói say sưa: ông ấy cả đời không lấy vợ, già rồi, không mổ được lợn nữa, cũng không mở được cửa hàng bán thịt hầm nữa, sống qua ngày cùng một con cừu vậy!
Ông tôm nuôi một chú cừu con lông trắng như tuyết, nhưng lại có chân và tai đen, ban đầu chỉ muốn nuôi vỗ béo, đến Tết thuê người làm thịt nấu nồi canh thịt cừu. Ai ngờ con cừu này lại có duyên với ông, ông tôm đi đến đâu, chú cừu con lại thích thú nhảy nhót bốn cái chân màu đen tròn tròn, lắc lư hai cái tai đen bóng đi theo ông một bước không rời, chẳng khác gì chú chó trung thành ở nhà khác. Hễ ông ngồi xuống, nó lại sà vào lòng ông, người khác nhìn mà thấy hiếm, chưa ai thấy con cừu nào lại yêu mến chủ nhân của mình đến vậy.
Thế là chú cừu trở thành cục cưng của ông tôm, không dám đụng vào một sợi lông của nó. Ông tôm đối xử với nó như con đẻ, còn đặt cho cái tên là Phát Tài, đi đến đâu cũng hãnh diện gọi “Phát Tài, Phát Tài”, cứ như thể tất cả cừu tên là Phát Tài đều là con ông vậy.
“Bình thường tôi không bao giờ buộc Phát Tài lại đâu, hôm qua thấy trời âm u bất thường, sợ mưa to, Phát Tài sẽ chạy lung tung, nên tôi mới buộc nó lại. Sáng tỉnh dậy, giày còn bị trôi đi mất, mắt nhắm mắt mở chạy theo mọi người, cứ nghĩ Phát Tài sẽ chạy theo sau như mọi khi, ai ngờ tôi lại buộc nó lại rồi! Tôi đúng là già lú lẫn, Phát Tài mà chết thì tôi cũng không muốn sống nữa!” ông tôm vừa khóc vừa lao ra dòng nước, Bảo Sinh và Ngọc Sinh sợ quá vội túm lấy hai cánh tay ông.
Nước lũ dâng cao, không ai biết nước sâu đến đâu, nhìn dòng nước cuồn cuộn cũng thấy hoa mày chóng mặt.
“Ông đừng buồn nữa, đợi lũ rút mua con khác, cừu có mà đầy!” thím hoa ớt nhanh nhẩu nói.
"Phát Tài ơi, Phát Tài của tôi chỉ có một con thôi!” nhìn bộ dạng khóc lóc của ông tôm chẳng ai nghĩ rằng hồi trẻ ông từng có một thời oai phong.
Bỗng có người nhảy “ùm” một cái xuống dòng nước lũ, rồi hai tay quạt nước như bơi trên sông Hoàng Phượng, như con ếch xanh nhanh nhẹn bơi như bay về phía thôn.
“Anh Thạch Sinh!” Lan Nhi hốt hoảng kêu lên, đôi mắt đen láy trong veo nhìn chằm chằm Thạch Sinh trong dòng nước.
Những người đứng trước ngôi miếu đều sững sờ, mặt cô Phượng trắng bệch, “ối” lên một tiếng rồi gục vào vai Bảo Sinh.
Mọi người đều biết, trong ba người con trai, Thạch Sinh là đứa khiến cô lao tâm khổ tứ nhất. Hồi đầu con trai đến miếu ở, ngày nào cô cũng chạy đến miếu. Nói hết nước hết cái, Thạch Sinh chỉ lặng thinh, khóc lóc, van xin, thúc ép đều vô dụng, Thạch Sinh chỉ nhìn cây bách xanh um, chậm rãi nói: “Con chỉ thích ngửi mùi thơm của cây bách này thôi, con không về đâu”.
Thím hoa ớt nói với mọi người trong thôn, Quan Thế Âm Bồ Tát yêu mến Thạch Sinh, muốn giữ cậu lại làm đệ tử, vì thế cậu mới có duyên với ngôi miếu cổ như vậy, không giống như người phàm tục. Cô Phượng nghe vậy trong lòng mới thấy nguôi ngoai.
Cả thôn làng biến thành sông, trong dòng nước, Thạch Sinh gắng sức bơi về phía trước. Giày dép, áo choàng, làn mây, v.v. nổi lềnh phềnh, một chiếc ga giường thêu hoa mẫu đơn đỏ phượng hoàng xanh cũng nổi trên mặt nước, như một đóa hoa sặc sỡ khổng lồ đột nhiên nở trong dòng nước đục ngầu. Bông hóa đó bị một cành dâu to chặn lại, một bông biến thành hai bông, dập dờn trong dòng nước.
Thạch Sinh bơi vào một con ngõ, rồi biến mất.
Người cô Phượng bất giác run lên. Cô đúng là người phụ nữ cứng rắn, nước mắt đã lưng tròng nhưng cô nhất quyết không để nó trào ra. Cô Phượng không biết đứa con này của mình cả này nó nghĩ những gì, nó toàn làm những việc mà người khác không thể lý giải nổi.
Lan Nhi phập phồng lo sợ.
“Anh Thạch Sinh sẽ không sao đâu”. Lan Nhi nhủ thầm trong lòng: “Anh nói rằng sẽ có một ngày, sẽ dạy được chú chim ngói gọi tên em, nó còn chưa biết gọi cơ mà!”
Bà con trong thôn khắc khoải nhìn về con ngõ Thạch Sinh biến mất, không ai biết đứa trẻ bình thường ngu ngờ này bỗng nhiên lao về thôn vào lúc này để làm gì nữa.
Mọi người nhìn thôn xóm chìm sâu trong dòng nước siết, vừa lo lắng vừa xót xa, trong lòng trống trải.
Tầm mười phút sau, chỗ đầu ngõ mà Thạch Sinh biến mất xuất hiện vật gì trắng như tuyết.
Sau đó, Thạch Sinh ôm cái vật tròn tròn trắng trắng gắng sức bơi về phía ngôi miếu cổ.
Mọi người bất giác đều thốt lên, bồn chồn lo lắng nhìn Thạch Sinh trong dòng nước.
Thạch Sinh bơi ngày càng gần ngôi miếu, ông tôm đột nhiên kêu “ôi” một tiếng rồi oà khóc: “Phát Tài ơi, Phát Tài của tôi chưa bị chết đuối!”
Tim Lan Nhi đập thình thịch liên hồi.
Chú cừu trắng như tuyết quá đỗi quen thuộc, hai cái tai đen bị ngâm nước đã lâu, ướt sũng cụp xuống, nhưng đôi mắt đen láy nhìn vẫn rất lanh lợi.
Thạch Sinh ôm Phát Tài, từ từ bơi vào sát miếu.
Trông thấy Thạch Sinh và Phát Tài bình an vô sự, đám trẻ con hò reo, mất đứa bé hơn Lan Nhi hét tướng lên: “Anh Thạch Sinh, anh Thạch Sinh!” sau đó lại hét “Phát Tài, Phát Tài!”
Lúc Thạch Sinh và Phát Tài sắp bơi vào đến cửa miếu thì Bảo Sinh và Ngọc Sinh nhảy xuống, đỡ cậu và chú cừu ướt sũng.
Thạch Sinh ngẩng đầu lên, những giọt nước trên tóc chảy dài xuống má, mi mắt cũng ướt thượt, hình như cậu mỉm cười với anh trai, em trai và cả những người đang đứng trước cửa miếu.
Lan Nhi nhoẻn miệng cười.
Lan Nhi bò trên lưng thầy, từ trên cao nhìn xuống, cô trông thấy Thạch Sinh mỉm cười với mình cô.