Cách tạo ra chữ viết của Trung Quốc rất thú vị. Có một giai thoại như sau, vào triều đại nhà Tống, Tô Đông Pha từng trêu đùa Vương An Thạch1 rằng: Nếu ông giải nghĩa chữ Pha (坡) là da của đất và chữ ba (波) là da của nước, vậy thì chữ hoạt (滑) ắt là xương của nước phải không? Từ đây mà suy ra, chữ bị (被) tức là da của áo, dùng vải áo để làm da thì chính là chữ bị (被). Phương pháp nhận biết một người đang bị bệnh (疒), chính là dựa vào màu sắc của da (皮) mà có thể phát hiện được nguyên nhân của sự mệt mỏi, khó chịu.
1 Vương An Thạch từng soạn ra bộ Tự thuyết (thuyết về văn tự) mà ông rất lấy làm hãnh diện. Lối giải thích nguồn gốc các tiếng của ông không có tính khoa học, toàn là do ông bịa đặt ra cả. Chẳng hạn như chữ ba “波” là sóng, gồm ba chấm thủy ở bên chữ bì; ba chấm thủy để chỉ ý và có nghĩa là nước, còn bì là để chỉ âm, từ trước ai cũng hiểu như vậy. Vương An Thạch lập dị, giải nghĩa là Bì đó là da và Ba là da của nước.
Có một vị tiên sinh họ Triệu (趙) khi chào hỏi tiên sinh họ Trần (陳) mới nói rằng: “Chào Đông (東) tiên sinh! Ngài khỏe không?” Trần (陳) tiên sinh tức giận đáp lại: “Chào Tiêu (肖) tiên sinh! Ngài khỏe không?” Triệu tiên sinh nghe thế cảm thấy không thích thú cho lắm, liền nói: “Tôi họ Triệu, tại sao ông gọi tôi là Tiêu tiên sinh? Trần tiên sinh trả lời: “Ông cắt bớt lỗ tai của tôi rồi1, thì tôi không thể nào để ông tẩu thoát được”2.
1 Vốn là chữ Trần (陳) mà cắt bớt bộ phụ (阝) kế bên chữ đông (東)
2 Nguyên là chữ Triệu (趙) mà bỏ đi bớt chữ tẩu (走) còn lại chữ tiêu (肖)
Cách sáng tạo chữ của người Trung Quốc có triết lý rất thâm sâu, và đầy trí tuệ. Chữ Quốc (國) trong từ quốc gia (國家), bởi vì có con người, tất sẽ có vũ khí, cho nên con người phải luôn dùng vũ khí chiến đấu không ngừng để bảo vệ quốc gia. Hay chữ Tiền (錢) trong từ kim tiền (金錢) có bộ qua (戈), vì thế thường gây nên chiến tranh giữa các nước. Cho nên các nước trên thế giới cũng vì tiền của mà gây nên những cuộc chiến tranh trường kỳ không dứt.
Ngoài ra, chữ nhật (日) có thêm chữ tri (知) tạo thành chữ trí (智), nghĩa là sự thấy biết rõ ràng. Khi đem tài sản bảo vật (寶) mà phân chia (分) thành ra nghèo thì sẽ có chữ bần (貧). Nhật (日) và nguyệt (月) tức là mặt trời và mặt trăng cùng tồn tại biểu thị cho ánh sáng thì gọi là minh (明). Thậm chí có người thường tự hiểu rằng nhân nghĩa (仁義) chỉ cho kẻ sĩ, nhưng thực ra nhân giả là người có nhân đức không phải là một cá thể riêng lẻ. Lại nữa, chữ nhân là cách hành xử bình đẳng ngang hàng trong quan hệ giữa hai người thì mới gọi là nhân giả.
Trong lịch sử, Trung Quốc sáng tạo bộ gõ ký tự Thương Hiệt1, được mọi người công nhận. Thực ra nghiêm túc mà nói, văn tự Trung Quốc không phải do một người nào đó sáng tạo nên, mà được tạo bởi sự đúc kết trí tuệ của con người trong lịch sử.
1 Thương Hiệt : Bộ gõ Thương Hiệt (倉頡輸入法) là bộ gõ chữ Hán, giúp người dùng có thể nhập chữ Hán vào máy tính thông qua bàn phím tiêu chuẩn. Được Châu Bang Phục (朱邦復,) sáng tạo năm 1976, bộ gõ này được đặt theo tên của Thương Hiệt, nhân vật thần thoại được xem là sáng tạo ra chữ Hán.
Ca khúc Hãy chỉ tôi cách làm thế nào không nghĩ về cô ấy của tác giả Lưu Bán Nông kết hợp với ông Triệu Nguyên Nhậm soạn nên, từng là một bản nhạc nổi tiếng rất được yêu chuộng một thời. Ban đầu chữ “tha” (她) trong ca khúc đó đại diện cho tổ quốc, sau này trở thành đại danh từ chỉ cho người phụ nữ. Trước đó, người Trung Quốc không có sự phân biệt đại từ nhân xưng ngôi thứ hai của người nam và người nữ tức là không có sự phân biệt giữa “tha” (他) anh ấy và “tha” (她) cô ấy. Nhưng vì nhu cầu nghiên cứu dịch thuật của phương Tây, có những người đã bắt đầu đưa ra quan điểm phân biệt ý nghĩa của chúng, cho nên lúc đầu Lỗ Tấn sử dụng thêm chữ Y (伊) biểu thị cho nữ tính, mãi đến thời ông Lưu Bán Nông sáng tạo nên chữ “tha” (她) đều được mọi người chấp thuận đồng ý. Chữ “tha” (他) anh ấy và “tha” (她) cô ấy liền trở thành đại từ nhân xưng chỉ riêng người nam và người nữ, thậm chí lấy hình dáng động vật để nói đến thì dùng chữ “tha” có bộ ngưu (牠). Đối với thần minh thì sử dụng bộ y (衤) chỉ phần cổ áo để hình thành chữ “tha” (祂). Như vậy, quá trình sáng tạo chữ viết bởi trí tuệ của con người được diễn ra như thế, trở thành văn hóa sáng tạo chữ viết của người Trung Quốc.
Thời nhà Đường, Võ Tắc Thiên tự xưng là Võ Chiếu (武曌). Chiếu (曌) chính là tên mà Võ Tắc Thiên tự sáng tạo ra, tự cho mình cao lớn như mặt trời, mặt trăng, như vậy có tự tôn, tự phụ chăng? Hay là sở ngộ của bà ấy thật sự đã đạt đến cảnh giới nhật nguyệt đồng chiếu? Điều này thật sự không ai có thể hiểu được. Vào thời nhà Tống, Lưu Phần và Tô Đông Pha đã từng mời nhau ăn món 皛飯 “cơm trắng”1 và 毳飯 “cơm không”2. Tuy đây là trò đùa vui ẩn ý giữa hai nhà văn với nhau, nhưng có thế thấy rằng hai người này đều có trí tuệ uyên thâm, khéo dùng văn tự chơi chữ.
1 皛飯 “cơm trắng”: Ở đây chỉ cho ba thứ trắng, một bát cơm trắng, một đĩa củ cải trắng, và một chén canh trắng.
2 毳飯 “cơm không”: Chỉ ba thứ không, không có cơm, không thức ăn, và không có canh.
Sau khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, văn học Trung Quốc đã xuất hiện thêm rất nhiều danh từ thuật ngữ mới, ví dụ như “Tam thế”, “Nhân quả”, “Nghiệp lực”, “Vô minh”, v.v. đây đều là những danh từ mang triết lý thâm sâu và bao hàm nhiều ý nghĩa. Không giống con người thời hiện đại, giới trẻ họ sáng tạo rất nhiều tiếng lóng mang tính khôi hài dí dỏm, như “rất ngầu”, “kém tắm”, “gà lắm”, “thế cơ à”, v.v. đây đều là những thuật ngữ có nghĩa xem thường, thật sự không có chút giá trị nào cả. Chúng ta mong muốn văn hóa nước nhà phát triển, có lẽ nên dùng tâm thái kính cẩn, trang trọng và trí tuệ uyên thâm, sâu sắc để có thể phát triển tốt hơn nữa những thuật ngữ, danh từ văn hóa.