B
ọn trẻ ngồi ở cuối chiếc bàn gỗ dài trống không trong căn phòng tiệc lớn ảm đạm. Chúng chẳng còn chút hi vọng nào nữa. Martha dọn ra một bữa tối vô hình và cũng chẳng thể chạm thấy được; bọn trẻ biết vậy bởi chúng đã sờ soạng khắp cả cái bàn và chẳng có cái gì ngoài mặt bàn trống trơn.
Cyril đột nhiên chạm vào túi mình.
“Ồ, phải rồi!” Cậu reo lên. “Nhìn này! Bánh quy.”
Bánh quy dù có bị vỡ vụn thì vẫn cứ là bánh quy. Cậu vẫn còn ba chiếc bánh nguyên vẹn cùng một nắm đầy vụn bánh.
“Sáng nay anh lấy chúng từ chỗ bác đầu bếp mà anh quên khuấy mất.” Cậu giải thích khi chia đống bánh thành bốn phần hết sức bằng nhau.
Bọn trẻ yên lặng ăn trong hạnh phúc, mặc dù bánh có mùi vị hơi kì lạ bởi đã ở trong túi Cyril suốt cả buổi sáng cùng với một nhùi dây nhựa, vài quả thông xanh cùng một cục sáp của thợ sửa giày.
“Anh Sóc này.” Robert nói. “Anh rất thông minh trong việc giải thích về những thứ vô hình đúng không? Thế vì sao đống bánh quy này lại có thể ở đây, trong khi toàn bộ bánh mì và thịt cùng các thứ khác lại biến mất cơ chứ?”
“Anh chịu.” Cyril khựng lại rồi đáp. “Trừ phi là bởi chúng ta đã có chúng từ trước rồi. Những gì của chúng ta thì không thay đổi, thế nên mọi thứ ở trong túi anh vẫn còn nguyên vẹn.”
“Thế thì nếu như chúng ta có món thịt cừu thì nó sẽ là thật đấy nhỉ.” Robert nói. “Ôi, em ước gì chúng ta có thể tìm thấy nó!”
“Nhưng chúng ta không thể. Anh nghĩ nó sẽ không thể trở thành của chúng ta trừ phi chúng ta có nó trong miệng.”
“Hoặc trong túi.” Jane nói khi nghĩ về những chiếc bánh quy.
“Ai lại cho thịt cừu vào túi cơ chứ, con bé ngốc nghếch này?” Cyril hỏi. “Nhưng anh biết rồi - dù thế nào thì anh cũng phải thử!”
Cậu liền nghiêng người qua bàn, cách mặt bàn chỉ tầm vài centimét, rồi liên tục đớp miệng như thể đang cắn thứ gì đó từ không khí.
“Không ích gì đâu anh.” Robert ảo não nói. “Anh chỉ có... Ối!”
Cyril đứng dậy với nụ cười đắc thắng, giữ trong miệng một mẩu bánh mì. Nó là thật. Ai cũng thấy nó. Ngay khi cậu cắn ra một miếng, phần bánh còn lại đã biến mất; nhưng thế cũng không sao cả, bởi cậu biết mình đã có miếng bánh trong tay dù không thể nhìn thấy hay cảm nhận được nó. Cậu liền cắn thêm một miếng không khí nữa trên tay mình, nó liền chuyển thành bánh ngay khi cậu cắn. Ngay lập tức, ba đứa em liền bắt chước theo cậu, đớp miệng bên trên mặt bàn trống trơn. Robert cắn được một lát thịt cừu, và - tôi nghĩ mình không nên miêu tả tiếp cảnh tượng đáng thương này. Các bạn chỉ cần biết là lũ trẻ đã ăn no thịt cừu, và khi Martha lên để dọn đĩa, chị than phiền rằng cả đời mình chưa bao giờ trông thấy cảnh tượng hỗn loạn đến thế bao giờ.
Thật may mắn khi món bánh pudding chỉ là kiểu bánh cuộn đơn giản, bọn trẻ đồng loạt bảo Martha rằng chúng không cần mật đổ lên bánh - dù là mứt hay đường - “Chỉ ăn bánh không thôi.” Lũ trẻ nói.
“Chà, tôi chưa... Tôi tự hỏi còn gì có thể xảy ra nữa đây!” Martha nói, rồi đi mất.
Tiếp theo đó là cảnh tượng mà tôi sẽ không miêu tả lại, bởi chẳng ai có thể trông xinh xắn khi dùng miệng gặm những lát bánh pudding trên bàn như những con cún cả. Phần tuyệt vời của điều này là bọn trẻ đã được ăn tối; giờ ai cũng cảm thấy dũng cảm hơn để chuẩn bị chống lại cuộc tấn công sắp đổ bộ trước khi mặt trời lặn. Robert, được phong làm đội trưởng, khăng khăng trèo lên một tòa tháp để theo dõi, nên cả đội nghe theo cậu. Giờ thì bọn trẻ có thể thấy toàn bộ cảnh quan xung quanh tòa lâu đài và bên kia con hào. Khắp mọi phía là những trại lều của đoàn quân bao vây đã được dựng lên. Bọn trẻ rùng mình bất an khi thấy những người đàn ông đang bận rộn lau chùi và mài giũa vũ khí, lên lại dây cho cung và đánh bóng những chiếc khiên. Một toán quân đi dọc con đường, cùng một đàn ngựa kéo theo một thân cây lớn. Mặt Cyril chợt tái xanh, cậu biết rằng đó chính là khúc gỗ sẽ dùng để phá cổng thành.
“Thật may là chúng ta có con hào.” Cậu nói. “Cây cầu kéo cũng được nâng lên sẵn rồi - anh không biết cách điều khiển nó đâu.”
“Tất nhiên là nó sẽ phải được kéo lên trong một tòa lâu đài bị bao vây rồi.”
“Theo mọi người trong đó hẳn phải có binh lính chứ, đúng không?” Robert hỏi.
“Chúng ta không biết nó đã bị bao vây bao lâu rồi.” Cyril rầu rĩ nói. “Có lẽ hầu hết những chiến sĩ quả cảm đã sớm hi sinh trong vòng vây và mọi lương thực đều đã hết, chỉ còn lại một vài kẻ sống sót gan dạ - đó chính là chúng ta, và chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng.”
“Anh định bắt đầu... chiến đấu tới cùng kiểu gì?” Anthea hỏi.
“Chúng ta cần được trang bị vũ khí nặng đô - rồi đánh trả họ một khi họ phát động tấn công.”
“Ngày xưa người ta từng đổ chì nóng xuống đoàn quân bao vây khi chúng áp quá sát.” Anthea nói. “Cha đã cho chị xem những cái lỗ dùng để đổ chì nóng xuống ở Lâu đài Bodiam. Cổng tòa tháp này cũng có những cái lỗ giống thế.”
“Em mừng rằng đây chỉ là một trò chơi thôi; đây thực sự chỉ là trò chơi thôi phải không?” Jane hỏi.
Nhưng không ai đáp lời.
Bọn trẻ tìm thấy rất nhiều loại vũ khí kì lạ trong tòa lâu đài, và nếu sử dụng chúng, rõ ràng bọn trẻ thực sự sẽ được “trang bị vũ khí nặng đô” y như lời Cyril nói - bởi những cây gươm, giáo cùng nỏ ở đây nặng đến nỗi khỏe như Cyril còn chẳng nhấc được; còn những cây cung dài thì thậm chí chẳng đứa nào kéo được dây cung. Bọn trẻ dùng được dao găm, nhưng Jane hi vọng quân bao vây sẽ không đến gần chúng đến nỗi phải dùng đến dao găm.
“Chẳng sao đâu, chúng ta sẽ phi chúng như ném lao ấy.” Cyril nói. “Hoặc thả xuống đầu chúng. Ý anh là - ở bên kia khoảnh sân có rất nhiều đá. Chúng ta có thể khuân một vài hòn đá lên đây rồi ném xuống nếu chúng có ý định bơi qua con hào.”
Thế là một chồng đá được sắp lên căn phòng phía trên cánh cổng, rồi lại thêm một chồng đầy dao găm và dao thường sáng choang, nhọn hoắt và nguy hiểm.
Khi Anthea đang đi qua sân để nhặt thêm đá, cô bé chợt nảy ra một ý tưởng tuyệt vời. Cô tới chỗ Martha và bảo: “Chúng tôi có thể ăn bánh quy cùng trà không? Chúng tôi sẽ chơi trò tòa lâu đài bị bao vây, chúng tôi muốn có bánh quy làm lương thực nuôi quân. Cứ đút bánh vào túi tôi, tay tôi bẩn lắm. Tôi sẽ bảo những người còn lại đến lấy sau.”
Đây đúng là một ý tưởng hay ho, bởi với bốn vốc không khí đã biến thành bánh quy khi được Martha nhồi đầy vào túi, đoàn quân tự vệ đã dự trữ đủ lương thực đến tận khi mặt trời lặn.
Bọn trẻ mang lên một vài bình sắt đựng nước lạnh để dội lên đoàn quân bao vây thay vì chì nóng, bởi trong tòa lâu đài không hề có thứ nguyên liệu đó.
Buổi chiều trôi đi nhanh đến kì diệu. Chuyện này có vẻ đáng để bọn trẻ cảm thấy rất háo hức; nhưng chẳng ai ngoại trừ Robert cảm nhận được mối nguy hiểm chết người sắp đến. Đối với các anh chị em của cậu, những người chỉ mới thấy lều trại và đoàn quân bao vây từ xa, mọi thứ trông vừa như một trò đánh trận giả vừa như một giấc mơ hoàn toàn riêng biệt và an toàn. Nhưng Robert khó mà nghĩ như thế được.
Khi đến giờ trà chiều, bọn trẻ ăn những chiếc bánh quy với nước lấy từ chiếc giếng sâu trong khoảnh sân, uống bằng những chiếc sừng. Cyril khăng khăng giữ lại tám chiếc bánh quy, đề phòng có người ngất vì áp lực của trận chiến.
Ngay khi cậu vừa cất những chiếc bánh còn lại vào một loại tủ đá nhỏ không cửa, một tiếng động bất thình lình làm cậu đánh rơi ba chiếc bánh. Ấy là tiếng rống chói tai của kèn trumpet.
“Mọi người thấy đấy, đây là thật.” Robert nói. “Họ thực sự sẽ tấn công chúng ta đấy.”
Tất cả vội vàng xô đến những ô cửa sổ nhỏ hẹp. “Đúng vậy.” Robert nói. “Họ đang rời khỏi lều và tiến về đây như lũ kiến. Đằng kia là Jakin đang loay hoay chỗ đường nối của cây cầu. Em ước gì anh ta có thể thấy em lè lưỡi với anh ta! Lêu lêu!”
Những đứa còn lại đang quá sợ hãi để có thể thè lưỡi trêu bất kì ai. Chúng liền nhìn Robert với vẻ ngưỡng mộ xen lẫn ngạc nhiên. Anthea nói:
“Em thực sự dũng cảm đấy, Robert ạ.”
“Vớ vẩn!” Mặt Cyril đã từ tái nhợt chuyển sang đỏ lựng chỉ trong một phút. “Thằng bé đã sớm chuẩn bị sẵn sàng để tỏ ra dũng cảm suốt cả chiều rồi. Anh thì chưa sẵn sàng, thế thôi. Anh sẽ dũng cảm hơn thằng bé chỉ trong nháy mắt.”
“Ôi trời!” Jane than vãn. “Ai dũng cảm hơn thì quan trọng gì đâu chứ? Em nghĩ anh Cyril quả đúng là ngốc nghếch khi ước có một tòa lâu đài, mà em chẳng muốn chơi đùa gì hết.”
“Không phải thế.” Robert tỏ ra nghiêm nghị, nhưng Anthea đã xen vào:
“Ồ, có đấy.” Cô bé dỗ dành. “Đây là một trò chơi rất vui, thật mà, bởi vì họ chẳng thể nào vào tới đây được, mà nếu được đi chăng nữa thì những người văn minh luôn tha mạng cho phụ nữ và trẻ con.”
“Nhưng chị có chắc họ là những người văn minh không?” Jane hổn hển hỏi. “Hình như họ đến từ thời đại rất lâu về trước rồi.”
“Tất nhiên rồi.” Anthea vui vẻ chỉ ra ngoài ô cửa sổ hẹp. “Cứ nhìn những lá cờ nhỏ trên cây thương của họ xem, chúng có màu sắc thật tươi sáng - còn vị chỉ huy thì trông vô cùng tốt bụng! Nhìn đi, đó là ngài ấy - phải không, Robert? Người đang cưỡi con ngựa xám ấy.”
Jane miễn cưỡng quay ra nhìn, cô bé thấy một cảnh tượng quá đỗi đẹp để có thể cảm thấy bị đe dọa. Mặt cỏ xanh rì, những lều trại trắng, những lưỡi giáo gắn cờ phản chiếu ánh sáng, tia sáng từ bộ giáp cùng những sắc màu tươi tắn của khăn choàng và áo choàng - tất cả như một bức tranh rực rỡ sắc màu. Tiếng kèn trumpet vẫn vang vọng, khi nó dừng lại để lấy hơi, bọn trẻ có thể nghe thấy tiếng leng keng của những bộ giáp sắt và tiếng lầm bầm của đoàn quân.
Một người thổi kèn chạy đến bờ của con hào, rồi nhảy xuống khiến một tiếng ùm vang lên. Người đàn ông cầm chiếc kèn trumpet hô to:
“Chú ý! Ở đằng kia!” Bốn người lính nhỏ trong lâu đài có thể nghe thấy rõ ràng tiếng anh ta từ cổng. “Xin chào!” Robert liền nói vọng lại.
“Thay mặt đức vua cao quý của chúng ta, vì vị chỉ huy nhân hậu và đáng tin cậy là ngài Wulfric de Talbot, chúng ta yêu cầu tòa lâu đài này đầu hàng - nếu không các ngươi sẽ chìm trong lửa và gươm và không khoan hồng. Các ngươi có đầu hàng không?”
“Không.” Robert oang oang đáp trả. “Tất nhiên là không rồi! Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ!”
Người đàn ông đáp lại: “Vậy thì số phận của các ngươi đã được định đoạt.”
“Hô to lên.” Robert cứng rắn nói nhỏ. “Hô lên để cho chúng thấy rằng chúng ta không sợ, hãy xóc đống dao găm để tạo tiếng động. Một, hai, ba! Chiến thắng, chiến thắng! Lần nữa nào - chiến thắng, chiến thắng! Thêm lần nữa - chiến thắng, chiến thắng!” Những tiếng hô hoán khá yếu ớt, nhưng tiếng lanh canh của những lưỡi dao găm đã tiếp thêm sức mạnh và ý chí cho bọn trẻ.
Từ phía lều trại bên kia con hào vang lên thêm một tiếng hô lớn oai hùng - giờ thì pháo đài bị bao vây cảm nhận được cuộc tấn công hẳn là đã bắt đầu.
Căn phòng bên trên cổng lớn đang tối dần đi, Jane cảm thấy dũng cảm hơn một chút khi nhớ ra thời gian mặt trời lặn sẽ không còn xa nữa.
“Con hào kia hẹp lắm.” Anthea nói.
“Nhưng họ sẽ chẳng thể nào vào đến tòa lâu đài dù có bơi qua được con hào đâu.” Robert vừa đáp xong thì nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang bên ngoài - những bước chân nặng trịch cùng với tiếng thép leng keng. Không ai dám thở mạnh. Âm thanh đó tiến lên cầu thang của tòa tháp canh. Robert khẽ khàng lao về phía cửa. Cậu cởi giày ra.
“Đợi đây nhé.” Cậu thì thào rồi nhanh chóng nhẹ nhàng bám theo tiếng bước chân và tiếng thép leng keng. Cậu ngó vào căn phòng phía trên. Một người đàn ông đang ở đó - ấy chính là Jakin, cả người ướt nhẹp nước từ con hào, anh ta đang loay hoay với hệ thống mà Robert chắc chắn là để điều khiển cây cầu kéo. Robert đột ngột đóng sầm cửa lại và tra chìa khóa vào ổ ngay khi Jakin xông đến từ bên trong. Rồi cậu chạy xuống tầng vào tòa tháp canh nhỏ ở dưới chân tháp, nơi có khung cửa sổ to nhất.
“Chúng ta cần phải bảo vệ nơi này!” Cậu nói với các anh chị em của mình khi họ đi theo cậu. Cậu đến vừa kịp lúc. Một người đàn ông khác đã bơi được qua hào mà Robert không hề hay biết, những ngón tay của hắn ta đang bám trên bệ cửa sổ để leo lên. Cậu chộp lấy một thanh sắt nhặt được trên sàn và dùng hết sức bình sinh đánh thật mạnh vào tay hắn. Gã đàn ông ngã xuống con hào với một tiếng ùm lớn. Lúc sau, Robert đi ra ngoài, đóng sầm cửa lại và cài then, rồi gọi Cyril tới giúp một tay.
Bọn trẻ đứng trong tháp trên cổng vòm, thở hồng hộc và nhìn nhau. Miệng Jane đang há hốc.
“Vui lên nào Jane.” Robert an ủi. “Chuyện này sẽ sớm kết thúc thôi.”
Thế rồi có tiếng cọt kẹt phía bên trên bọn trẻ, có thứ gì đó đang rung lắc và kêu lách cách. Hành lang nơi bọn trẻ đứng như đang rung lên. Rồi một tiếng rầm cho bọn trẻ biết rằng cây cầu kéo đã bị hạ xuống.
“Tên quái vật Jakin làm đấy.” Robert nói. “Vẫn còn cổng rào sắt nữa; em dám chắc rằng thứ điều khiển nó nằm tận dưới kia cơ.”
Từ cây cầu kéo vọng lại tiếng hí của đàn ngựa và tiếng rầm rập của đoàn quân trang bị đầy binh khí. “Lên trên, mau!” Robert kêu lên. “Hãy ném đồ xuống chúng.”
Kể cả hai cô bé giờ cũng đã trở nên dũng cảm hơn. Bọn trẻ nhanh chóng bắt chước Robert, ném đá xuống qua những ô cửa sổ dài hẹp theo chỉ dẫn của Robert. Bên dưới vọng lên vài tiếng ngỡ ngàng và vài tiếng rên rỉ.
“Ôi trời!” Anthea thốt lên và đặt hòn đá mà cô bé vừa định ném xuống. “Chị e là mình vừa làm ai đấy bị thương mất rồi!”
Robert nhặt lại hòn đá lên với vẻ bực tức.
“Em chỉ mong có thế thôi!” Cậu nói. “Em sẽ đánh đổi bất cứ thứ gì lúc này để lấy một bình chứa đầy chì nóng chảy. Không thể đầu hàng được!”
Tiếng bước chân càng lúc càng nhiều rồi dừng lại, tiếp đến tiếng khúc gỗ phá cổng. Giờ căn phòng nhỏ gần như đã tối mịt.
“Chúng ta làm được.” Robert kêu lên. “Chúng ta sẽ không đầu hàng! Mặt trời sẽ lặn chỉ một phút nữa thôi. Đây - họ lại làm ầm ĩ bên dưới kia rồi. Tiếc là không có đủ thời gian để lấy thêm đá! Đây, đổ nước xuống bọn họ. Tất nhiên là chẳng có ích gì mấy, nhưng họ cũng sẽ không dễ chịu gì.”
“Ôi trời!” Jane nói. “Anh không nghĩ là chúng ta nên đầu hàng sao?”
“Không bao giờ!” Robert đáp. “Chúng ta có thể thương lượng, nhưng không bao giờ đầu hàng. Ôi, anh sẽ trở thành một người lính khi anh lớn lên - em làm chứng nhé. Anh sẽ không làm Nghĩa vụ Cộng đồng đâu, mặc cho mọi người có nói gì đi chăng nữa.”
“Cứ vẫy khăn tay và yêu cầu thương lượng thôi.” Jane nài nỉ. “Em không nghĩ mặt trời sẽ lặn vào tối nay đâu.”
“Cứ đổ nước vào họ đã - những kẻ độc ác!” Robert máu chiến đáp. Vậy là Anthea nghiêng chiếc bình qua lỗ chì gần nhất và đổ xuống. Bọn trẻ nghe thấy tiếng nước tung tóe bên dưới, nhưng có vẻ chẳng ai dưới đó bị ảnh hưởng gì. Tiếng khúc gỗ va chạm vào cánh cổng lớn lại vang lên. Anthea khựng lại.
“Ngốc thật.” Robert nói và nằm dài xuống sàn, ghé mắt nhìn xuống qua một lỗ chì. “Tất nhiên là mấy cái lỗ này thông thẳng xuống buồng cửa - chỉ dùng khi kẻ thù đã vượt qua cổng và khung lưới sắt và chúng ta gần như đã mất hết mọi thứ. Đưa em cái bình.” Cậu bò lên bệ cửa sổ ba góc ở giữa tường, rồi đổ nước xuống qua lỗ châu mai.
Ngay khi cậu bắt đầu đổ, những tiếng ồn từ khúc gỗ phá cổng và đoàn quân với những tiếng hô hoán “Đầu hàng đi!” và “De Talbot muôn năm!” đột nhiên tắt ngấm hoàn toàn như ngọn nến phụt tắt; căn phòng nhỏ tối mịt đột nhiên như quay tròn và trở nên rối loạn. Khi bọn trẻ định thần lại thì chúng đã an toàn trong căn phòng ngủ lớn của chính nhà mình - ở căn nhà với đống họa tiết sắt thảm họa trên mái.
Bọn trẻ liền túm tụm chỗ cửa sổ để ngó ra ngoài. Con hào, toàn bộ lều trại và đoàn quân bao vây đã biến mất - ở kia chỉ còn khu vườn với từng búi hoa cúc thược dược, cúc vạn thọ, cúc tây và hoa hồng nở muộn, hàng rào sắt sáng choang và con đường trắng yên tĩnh.
Tất cả hít vào một hơi thật sâu.
“Thế là ổn rồi!” Robert nói. “Em bảo rồi mà! Với lại chúng ta cũng không hề đầu hàng, đúng không?”
“Giờ các em có thấy mừng rằng anh đã ước có một tòa lâu đài không?” Cyril hỏi.
“Em nghĩ là bây giờ thì có.” Anthea chậm rãi đáp. “Nhưng em nghĩ là em sẽ không ước lại điều đó đâu, anh Sóc thân yêu ạ!”
“Ôi, thật là tuyệt vời hết sức!” Jane bất ngờ nói. “Em không hề thấy hoảng sợ chút nào.”
“Ôi, anh cược là vậy!” Cyril đang định nói nhưng Anthea đã ngắt lời cậu.
“Nghe này.” Cô bé nói. “Em vừa sực nhận ra điều này. Đây là điều ước đầu tiên không khiến chúng ta bị mắng. Chưa hề có bất kì dấu hiệu nhỏ nhất nào của lời trách mắng cả. Không có ai chạy rầm rập dưới tầng, chúng ta vẫn an toàn, chúng ta vừa có một ngày hết sức vui vẻ - cũng không hẳn là vui vẻ, nhưng mọi người hiểu ý em mà. Chúng ta còn biết được Robert đã dũng cảm như thế nào - và tất nhiên là cả anh Cyril nữa.” Cô bé vội vàng nói thêm. “Cả Jane nữa. Chúng ta chưa vướng phải rắc rối với bất kì người lớn nào hết.”
Rồi cánh cửa đột ngột bật mở.
“Các cô cậu nên xấu hổ về bản thân mình.” Martha nói, giọng đầy tức giận. “Không gây rối thì các cô cậu không chịu được à? Sao các cô cậu lại phải đổ nước rửa tay lên đầu một người chỉ đang hít thở trước cửa nhà cơ chứ! Các cô cậu đi ngủ ngay đi, ngày mai khi thức dậy hãy cố gắng trở thành những đứa trẻ ngoan hơn. Giờ thì - đừng để tôi phải nói hai lần. Nếu mười phút nữa mà các cô cậu chưa lên giường, tôi sẽ cho các cô cậu biết tay! Ướt hết cả cái mũ mới và bộ quần áo rồi đây này!”
Sau đó, chị bực bội lao ra cửa mặc cho bọn trẻ nói một tràng lời xin lỗi. Bọn trẻ đều rất hối hận, nhưng đây thực sự không phải lỗi của chúng. Đâu thể làm gì khi bạn đang đổ nước lên đầu kẻ thù thì tòa lâu đài bỗng dưng biến trở lại thành căn nhà - và mọi thứ đều thay đổi chỉ trừ nước, và nó rơi xuống chiếc mũ sạch của ai đó.
“Anh không hiểu tại sao nước không bị biến mất.” Cyril nói.
“Sao nó biến mất được?” Robert hỏi lại. “Dù ở đâu thì nước cũng vẫn là nước thôi mà.”
“Em nghĩ cái giếng của tòa lâu đài vẫn y như cái giếng trong khu chuồng ngựa của chúng ta thôi.” Jane nói. Và đó đúng là sự thực.
“Anh cứ nghĩ chúng ta đã có thể trải qua một ngày mà không vướng vào rắc rối nào.” Cyril nói. “Tất cả đều quá tuyệt để có thể là thật. Thôi nào, Bobs, người hùng quân sự của anh. Nếu chúng ta nhanh đi ngủ thì Martha sẽ không nổi cơn tam bành đâu, mà có thể còn mang đồ điểm tâm lên ấy chứ. Anh đang đói quá rồi! Chúc các em ngủ ngon nhé!”
“Chúc mọi người ngủ ngon. Em hi vọng tòa lâu đài sẽ không xuất hiện trở lại vào giữa đêm.” Jane nói.
“Tất nhiên là không rồi.” Anthea ngắn gọn đáp. “Nhưng Martha sẽ quay lại đấy - không phải vào buổi đêm đâu, mà ngay bây giờ. Lại đây nào, để chị cởi nút dây yếm cho.”
“Không phải sẽ rất hổ thẹn cho ngài Wulfric de Talbot...” Jane mơ màng nói. “Nếu ngài ấy biết một nửa số binh lính bị bao vây mặc yếm hay sao?”
“Nửa còn lại thì mặc quần ống túm. Phải rồi - cực kì hổ thẹn đấy. Đứng yên nào - không nút thắt lại càng bị siết chặt hơn đấy.” Anthea nói.