C
hú ý.” Cyril nói. “Anh vừa có ý này.”
“Có đau lắm không anh?” Robert tỏ vẻ thương cảm.
“Đừng có nói vớ vẩn nữa đi! Anh không khoác lác đâu.”
“Em thôi nói được rồi đấy, Bobs ạ!” Anthea lên tiếng.
“Vậy thì im lặng để anh Sóc phát biểu nào.” Robert đáp.
Cyril vừa cố giữ thăng bằng trên rìa thùng hứng nước mưa trong sân sau, nơi mà bọn trẻ đang tụ tập, vừa nói:
“Hỡi các bạn hữu, người Roman, trai tráng - và cả phụ nữ của đất nước này - chúng ta đã tìm thấy một Tiên cát. Chúng ta đã thực hiện những điều ước.
Chúng ta đã được ban đôi cánh, được xinh đẹp như ban ngày - khiếp quá! - nhưng nếu các em thích nó thì nó cũng khá vui - chúng ta đã có của cải và cả tòa lâu đài, rồi vướng vào rắc rối với những người gipsy vì bé Cừu nữa. Nhưng chúng ta không có được sự chủ động. Chúng ta chưa có điều gì thực sự đáng để ước hết.”
“Nhưng chúng ta vẫn ước còn gì.” Robert nói. “Lúc nào mà chẳng có gì đó để ước.”
“Nhưng ước chưa đúng thì chưa đủ.” Cyril khẳng định. “Anh vẫn luôn nghĩ...”
“Thật ư?” Robert lầm bầm.
“Trong sự tĩnh lặng không thể đặt tên của màn đêm. Giống như khi có ai đó bất thình lình hỏi các em câu hỏi về lịch sử vậy - ngày xảy ra cuộc chiến tranh chẳng hạn; bình thường thì các em vẫn nhớ như in, nhưng đến lúc bị hỏi thì lại không tài nào nghĩ ra được. Thưa các quý cô quý cậu, các em biết rõ rằng khi chúng ta cứ tỏ ra bình thường thì mọi thứ sẽ dần sáng tỏ, và rồi những điều ước hợp lí nhất sẽ nảy ra trong đầu của những người...”
“Ôi, nghe anh ấy nói kìa!” Robert nói.
“... Người ước, dù cho người đó có ngu ngốc tới đâu đi nữa.” Cyril nói tiếp. “Đến cả Robert cũng có thể nghĩ ra một điều ước vô cùng hữu ích nếu thằng bé không căng thẳng đến mức làm não mình bị ẩm ương.
Em im đi đã, Bobs! Em để yên cho anh nói đã rồi mới nói xem nào.”
Nhưng Robert vẫn không chịu im. Cả hai đứa càng lúc càng tức giận rồi lao vào đánh nhau. Khi không còn đánh nhau nữa và các cậu bé đã nguôi giận, Anthea lên tiếng:
“Em là người gây chuyện đấy, Bobs ạ. Giờ nguôi giận rồi để anh Sóc nói chứ. Chúng ta đang lãng phí cả buổi sáng đấy.”
“Vậy thì...” Cyril nói khi vẫn đang vắt nước ra khỏi đuôi áo khoác mình. “Anh sẽ coi như hòa nếu Bobs cũng vậy.”
“Thế thì hòa.” Robert sưng sỉa đáp. “Nhưng mắt em đang sưng một cục to như quả bóng chày rồi đây này.”
Anthea kiên nhẫn đưa cho cậu bé một chiếc khăn tay màu xám bụi, Robert liền im lặng dùng nó đắp lên vết thương. “Anh Sóc nói tiếp đi.” Cô bé nói.
“Thế thì - hãy chơi trò băng cướp, xây pháo đài, binh lính hoặc bất cứ trò cũ nào cũng được. Chắc chắn chúng ta sẽ nghĩ ra gì đó nếu không cố vắt óc để nghĩ. Lúc nào cũng thế mà.”
Ba đứa trẻ còn lại đồng ý, chúng nhanh chóng chọn trò băng cướp. “Nó chẳng khác gì mấy trò khác.” Jane chán nản nói. Ban đầu, Robert chỉ chơi hời hợt, nhưng khi Anthea mượn từ Martha chiếc khăn tay chấm bi đỏ bọc nấm của người canh rừng để buộc lên đầu Robert, biến cậu thành người hùng bị thương vì cứu thủ lĩnh thì cậu liền hết sức hào hứng. Tất cả đều giương cao vũ khí. Cây cung và mũi tên đeo lủng lẳng phía sau, những cái ô cùng gậy chơi bóng giắt vào lưng tạo cho bọn trẻ cảm giác được trang bị đến tận răng. Chiếc mũ trắng vải cốt tông thông thường khi được gắn thêm vài sợi lông gà tây lại rất ra dáng tướng cướp. Xe đẩy của Cừu được phủ một tấm khăn trải bàn kẻ ca rô đỏ và xanh, biến thành một chiếc xe đẩy hàng xinh xắn. Cừu giờ không còn ngủ trong chiếc xe đó nữa. Vậy là “băng cướp” bắt đầu khởi hành dọc con đường dẫn tới mỏ cát.
“Chúng ta cần chơi gần Tiên cát.” Cyril nói. “Đề phòng trường hợp bất chợt nảy ra ý tưởng nào đó.”
Quyết định xem nên chơi băng cướp hay cờ vua, bóng bàn hay bất kì trò chơi hay ho nào khác thì dễ lắm, nhưng nếu tâm trí cứ lởn vởn về việc nên ước cái gì thì khó lòng nào mà tập trung chơi được. Trò chơi càng lúc càng chán, mấy đứa trẻ bắt cáu kỉnh và cãi nhau ỏm tỏi thì đúng lúc ấy thấy một cậu bé bán bánh xách một cái làn chứa đầy ổ bánh mì đi đến. Đây đúng là một cơ hội không thể bỏ lỡ.
“Đứng lại và giao nộp ra đây!” Cyril hô lên.
“Nộp tiền hoặc nộp mạng!” Robert nói tiếp.
Hai anh em chặn hai bên cậu bé bán bánh. Thật không may, cậu bé đó dường như không có hứng hùa theo. Đó là một cậu bé bán bánh rất cao lớn. Cậu ta chỉ đơn giản nói:
“Thôi ngay đi, nghe chưa!” Rồi cậu ta thô lỗ đẩy băng cướp sang một bên.
Robert định dùng sợi dây nhảy của Jane quàng xung quanh vai cậu ta, nhưng sợi dây lại tuột xuống dưới chân và khiến cậu ta vấp ngã. Chiếc giỏ bị hất lộn ngược, những ổ bánh mới ngon tuyệt văng ra ngoài và lăn khắp mặt đường đầy bụi đá phấn. Các cô bé bèn chạy đi để nhặt chúng lại, trong lúc đó thì Robert và cậu bé bán bánh đánh lộn tay đôi, còn Cyril quan sát để đảm bảo tính công bằng. Sợi dây nhảy đang quấn quanh chân hai đứa trẻ trông như một con rắn đầy hào hứng cũng muốn trở thành kẻ khuyên giải. Nhưng khuyên giải kiểu gì khi mà hai tay cầm bằng gỗ hoàng dương của nó cứ quăng lên và đập vào chân của các cậu bé. Ngày hôm nay đã xảy ra hai trận đánh nhau rồi, lần thứ hai trong ngày Robert bị đánh rất đau. Cậu bé bán bánh đã đánh thâm tím bên mắt còn lại của cậu, túm tóc cậu và tung một cú đá vào đầu gối cậu - phớt lờ luật chơi đẹp và lối cư xử lịch thiệp. Robert ba hoa rằng cậu có thể hạ gục cả người bán thịt nếu các cô bé không can thiệp.
Cyril chỉ vừa mới cởi phăng áo ra để nhảy vào giúp em trai mình thì Jane đã ôm chân cậu và òa khóc, xin cậu đừng lao vào để bị đánh nốt. Anthea cũng chạy vào ngăn giữa Robert và cậu bé bán bánh, giữ chặt hông cậu ta lại và xin cậu ta đừng tiếp tục nữa.
“Ôi, xin đừng đánh em trai tôi nữa!” Cô bé vừa khóc vừa nói. “Thằng bé không có ý gì xấu đâu - đó chỉ là trò chơi thôi. Tôi chắc chắn thằng bé rất hối hận về hành động đó.”
Thật là bất công với Robert. Bởi nếu cậu bé bán bánh đã tỏ ra đúng mực và hào hiệp, chấp nhận lời cầu khẩn cùng xin lỗi của Anthea thì Robert cũng chẳng dám động vào cậu ta làm gì nữa. Nhưng cậu bé bán bánh kia không biết thế nào là hào hiệp. Cậu ta thô lỗ xô Anthea ra, rồi đuổi theo đánh và chửi rủa Robert bằng những câu tục tĩu. Xuống tận mỏ cát rồi, cậu ta vẫn đạp thêm Robert một cú khiến cậu ngã soài trên một đụn cát.
“Lần sau tao sẽ cho mày một trận nên thân, nghe chưa thằng nhãi ranh!” Cậu ta nói rồi quay đi để lấy lại giỏ bánh mì của mình và tiếp tục lên đường. Cyril vẫn đang bị Jane giữ chặt và không thể làm gì, bởi cô bé vẫn đang đu chặt quanh chân cậu. Khuôn mặt cậu bé bán bánh đỏ bừng, đầm đìa mồ hôi, vẫn giữ cái thói hung hăng ấy chửi mấy đứa trẻ là lũ ngu ngốc rồi bỏ đi. Chỉ sau đó, Jane mới thả tay ra. Cyril im lặng bước đến chỗ Robert, các cô bé đi theo sau cậu và sụt sùi mãi không thôi.
Bọn trẻ buồn bã ngồi sụp xuống đống cát xung quanh Robert đang nức nở. Cậu bé nức nở nhiều là bởi quá ấm ức. Một cậu nhóc dũng cảm thực sự sẽ không khóc sau trận chiến, nhưng đó là bởi cậu bé ấy luôn chiến thắng, còn Robert thì không.
Cyril bực bội với Jane, còn Robert nổi cáu với Anthea; tội nghiệp hai cô bé. Cả đám trẻ đều ghét cay ghét đắng cậu bé bán bánh. Theo như lời của các nhà văn người Pháp thì đó là “một khoảng lặng đầy xúc cảm”.
Robert thọc những ngón chân và bàn tay mình vào cát rồi ngọ nguậy trong giận dữ. “Cậu ta nên chờ tới khi em lớn lên - cái tên xấu xa hèn nhát đó! Đồ con quỷ! Em ghét cậu ta! Nhưng em sẽ trả thù. Hôm nay thua cuộc là do cậu ta to cao hơn em thôi.”
“Anh là người khai chiến đấy.” Jane lơ đễnh nói.
“Anh biết là vậy, em ngốc này - nhưng anh chỉ đang đùa thôi - rồi cậu ta đá anh - nhìn đây này...”
Robert tháo xuống một bên tất, để lộ ra một vết tấy đỏ. “Anh chỉ ước gì mình to lớn hơn cậu ta thôi.”
Cậu bé vùi ngón tay mình vào trong cát, rồi nhảy dựng lên khi cảm thấy tay mình chạm vào thứ gì đó lông lá. Đó hẳn là Psammead đang “luôn canh me để biến chúng ta thành lũ ngốc” - như lời Cyril nhận xét sau đó. Tất nhiên là ngay sau đó, điều ước của Robert được thực hiện. Cậu dần lớn hơn hẳn cậu bé bán bánh.
Nhưng rồi cậu cứ tiếp tục lớn nữa, lớn mãi. Giờ cậu đã lớn hơn cả vị sĩ quan cảnh sát thường đứng ở ngã tư phía trước Dinh thự Thị trưởng, người hay giúp đỡ các bà cụ qua đường - cũng là người đàn ông cao lớn nhất mà bọn trẻ từng thấy. Chẳng ai có thước gập nên không thể đo được chiều cao của Robert - nhưng cậu giờ đã cao hơn cả cha mẹ cậu cộng lại. Cậu giờ phải cao đến hơn ba mét và to tương đương với chiều cao ấy. May mắn làm sao khi bộ đồ cậu đang mặc cũng to lên theo. Robert đang đứng ngây ra với một bên tất khổng lồ kéo xuống để lộ vết bầm to oành trên cái chân to đùng. Những giọt nước mắt giận dữ to lớn giàn giụa trên khuôn mặt khổng lồ. Nhìn vẻ khổng lồ nhưng ngây ngô của cậu khiến mấy đứa trẻ phì cười.
“Tiên cát lại chơi chúng ta một vố rồi.” Cyril nói.
“Đâu phải là chơi chúng ta, mà là chơi em đấy chứ.” Robert đáp. “Nếu anh thích thì anh có thể bảo nó biến anh thành như em. Anh sẽ chẳng thể hiểu nổi em đang cảm thấy ngu ngốc thế nào đâu.” Cậu cáu bẳn nói thêm.
“Anh có thích đâu, anh hoàn toàn có thể thấy nó trông ngu ngốc thế nào rồi.” Cyril nói, nhưng Anthea ngắt lời:
“Ôi, thôi nào! Em không biết có chuyện gì với các chàng trai trong ngày hôm nay nữa. Anh Sóc này, công bằng một chút đi. Bobs thật là tội nghiệp khi phải ở tít trên kia một mình. Hãy hỏi xin Tiên cát thêm điều ước, nếu được thì tất cả chúng ta sẽ biến to lên giống như Robert.”
Bọn trẻ tuy không vui vẻ gì nhưng vẫn đồng ý; nhưng khi bọn trẻ tìm thấy Psammead thì lại không được nó đáp ứng.
“Ta không làm đâu.” Nó gắt gỏng nói, cọ chân lên mặt. “Cậu ta là một đứa thô lỗ lại còn bạo lực, sở hữu kích cỡ dị thường như thế là tốt cho cậu ta đó. Tại sao cậu ta lại phải lôi ta ra bằng những ngón tay ướt nhẹp như thế? Cậu ta suýt nữa đã chạm trúng ta rồi đấy! Đúng là một đứa trẻ ngỗ nghịch. Trẻ con từ thời kì đồ đá còn biết cư xử hơn nhiều.”
Đúng là lúc đó tay Robert đang ướt - bởi nước mắt.
“Đi đi và để ta yên.” Psammead nói. “Ta không thể hiểu tại sao các cô cậu không thể nghĩ ra một điều ước có lí - như là đồ ăn, thức uống, lối cư xử tốt hay thái độ tốt cơ chứ. Đi đi, mau!”
Nó gầm gừ, vẩy hai bên ria mép, rồi sưng sỉa quay cái lưng màu nâu về phía bọn trẻ. Giờ có cầu xin tiếp cũng vô dụng. Bọn trẻ đành quay trở lại với Robert khổng lồ.
“Chúng ta biết làm gì bây giờ?” Bọn trẻ tự hỏi.
“Đầu tiên...” Robert nghiêm túc nói. “Em sẽ ăn miếng trả miếng với cái tên bán bánh đó. Em có thể bắt kịp cậu ta ở cuối đường.”
“Đừng có đánh người bé hơn mình, cụ non ạ.” Cyril nói.
“Trông em giống sẽ tẩn anh ta lắm à?” Robert cắm cảu đáp. “Chà, em nên giết anh ta thì đúng hơn. Nhưng em sẽ dạy anh ta một bài học nhớ đời. Chờ em kéo lại tất đã.” Cậu kéo tất lên, đôi tất giờ to như một cái áo, rồi rảo chân bước. Sải chân của cậu phải dài đến trên dưới hai mét, thế nên cậu dễ dàng xuống được chân đồi, gặp lại cậu bé bán bánh khi cậu ta đung đưa cái giỏ trống rỗng trên đường quay về với chiếc xe đẩy hàng của chủ mình ở chỗ mấy căn nhà dọc đường.
Robert nấp sau một đụn cỏ khô trong góc sân trại, khi nghe thấy tiếng cậu bé kia huýt sáo bước tới, cậu liền nhảy bổ ra và nắm lấy cổ áo cậu kia.
“Giờ thì...” Cậu nói, cả giọng nói và thân hình cậu giờ đã lớn gấp bốn lần bình thường. “Tôi sẽ dạy cậu cách đá những đứa bé nhỏ hơn mình.”
Cậu xách cậu bé bán bánh đặt lên trên đụn cỏ khô, cách mặt đất khoảng gần năm mét, rồi cậu ngồi xuống mái chuồng bò và nói với cậu bé bán bánh chính xác những gì cậu nghĩ về đối phương, mặc dù cậu ta đang hoảng sợ quá nên chẳng nghe được gì. Khi Robert đã nói xong, cậu lắc người cậu trai kia:
“Giờ thì cố mà hạ cánh tốt đẹp nhé.” Nói rồi Robert quay đi.
Không rõ cậu bé bán bánh xuống được bằng cách nào, nhưng cậu ta đã làm mất chiếc xe đẩy hàng và vướng vào rắc rối cực kì lớn với chủ hiệu bánh ngày hôm đó. Khổ thân cậu bé, nhưng dù sao thì cậu ta cũng cần được dạy rằng các cậu bé Anh quốc khi đánh nhau không dùng chân, mà chỉ dùng tay. Cậu ta còn gặp rắc rối hơn khi cố gắng giải thích với ông chủ về một cậu bé to như cái nhà thờ đã gây sự với cậu ta, bởi làm gì có ai tin nổi một câu chuyện như thế cơ chứ.
Khi Robert về đến nhà, cậu thấy các anh chị mình đang ở trong vườn. Anthea đã chu đáo xin Martha cho ăn tối ở ngoài đó - bởi phòng ăn quá nhỏ so với kích cỡ của em trai cô bé. Em Cừu đang bị hắt xì liên tục nên Martha bảo thằng bé nên ở trong nhà vì đã bị cảm cúm.
“Thế cũng tốt.” Cyril nói. “Vì anh tin là thằng bé sẽ hét toáng lên nếu thấy thân hình quá khổ của em đấy!”
Robert chính là ví dụ tiêu biểu cho từ “ngoại cỡ” mà những người cắt vải thường gọi. Cậu phát hiện ra mình có thể bước thẳng qua cánh cổng sắt để vào trong khu vườn trước nhà.
Martha đi ra dọn bữa tối - gồm có món thịt bê nguội cùng khoai tây nướng, chè đường thốt nốt và mận hầm.
Chị ta không biết gì về kích thước khác thường của Robert thế nên chị vẫn chia cho Robert phần thịt và khoai tây như mọi khi. Robert ăn loáng một cái hết phần ít ỏi dành cho người khổng lồ và đòi thêm bánh mì. Nhưng Martha hết bánh mì rồi mà chị đang vội làm dáng để chuẩn bị đón người canh rừng ghé qua trên đường đi hội chợ Benenhurst.
“Em ước gì chúng ta được tới hội chợ.” Robert nói.
“Em không thể đi bất cứ đâu với bộ dạng thế kia được.” Cyril đáp.
“Sao lại không?” Robert hỏi. “Ở hội chợ thường có người khổng lồ mà, họ còn to hơn em nhiều.”
“Không nhiều đâu.” Cyril vừa nói thì Jane bất thình lình hét “Ối!” khiến lũ trẻ vội vàng vỗ lưng cô bé và xúm xít hỏi liệu Jane có bị hóc hạt mận không.
“Không.” Cô bé đáp, thở hổn hển vì bị vỗ lưng nhiều. “Không... không phải do hạt mận đâu. Em nảy ra ý này. Cứ đưa Robert đi cùng đến Hội chợ, rồi thu tiền để mọi người vào xem anh ấy! Thế là chúng ta sẽ thực sự được hưởng lợi từ Tiên cát già nua!”
“Hẳn là đưa anh đến đó!” Robert tỏ vẻ khó chịu. “Anh mới là người đưa mọi người tới đó!”
Đúng là vậy thật. Đó là một ý tưởng hấp dẫn khó cưỡng đối với bọn trẻ ngoại trừ Robert, kể cả khi cậu bé đã được Anthea thuyết phục rằng cậu bé sẽ được nhận gấp đôi số tiền mỗi đứa được nhận. Trong nhà xe có một chiếc xe ngựa con - loại xe ngựa hai bánh. Đến Hội chợ càng sớm sẽ càng tốt, nên Robert - giờ đã có đôi chân rất dài thế nên có thể đi rất nhanh - đồng ý đẩy mọi người đi trên chiếc xe này. Với cậu bé bây giờ, việc này dễ ợt như khi cậu đẩy em Cừu đi trong chiếc xe đẩy vào mỗi sáng. Mà hôm nay em Cừu bị cảm nên không đi được.
Cảm giác được người khổng lồ đẩy đi trên chiếc xe ngựa con thật kì quặc. Mọi người đều tận hưởng chuyến đi ngoại trừ Robert và mấy người đi ngang qua bọn trẻ. Hầu hết bọn họ đều “đứng như trời trồng” bên đường khi thấy Robert - như lời Anthea kể lại. Khi đã tới bên ngoài Benenhurst, Robert liền trốn trong một chuồng ngựa, còn những đứa trẻ khác thì tiến vào Hội chợ.
Ở đó có vài chiếc xích đu, một vòng đu quay kêu inh ỏi tò te tí te, một quầy bắn lon và vài quầy ném dừa. Cyril phải cố gắng kiềm chế thôi thúc muốn thắng một quả dừa - hoặc chí ít là được tham gia trò chơi - khi cậu lại gần một người phụ nữ đang lên đạn cho những khẩu súng nhỏ ở đằng trước hàng chai thủy tinh đặt dựa vào một tấm vải bạt.
“Chào cháu, quý ông nhỏ tuổi!” Cô ta nói. “Một penny cho mỗi lần bắn nhé!”
“Không ạ, cháu cảm ơn.” Cyril đáp. “Chúng cháu ở đây để làm việc chứ không phải để chơi đùa. Ông chủ ở đâu ạ?”
“Ông chủ gì cơ?”
“Ông chủ - người lãnh đạo - là chủ của hội chợ này ấy ạ.”
“Ở đằng kia.” Cô ta đáp, chỉ tay về phía một người đàn ông to béo mặc chiếc áo khoác vải lanh lấm lem đang ngủ say sưa dưới ánh mặt trời. “Cô không ủng hộ việc các cháu đánh thức ông ta đâu. Tính tình ông ta trái khoáy lắm, đặc biệt là vào những hôm nóng nực thế này. Các cháu nên thử chơi bắn lon trong khi đợi ông ta thức dậy thì hơn.”
“Chuyện này quan trọng lắm ạ.” Cyril nói. “Nó sẽ mang đến rất nhiều lợi nhuận cho ông ấy. Cháu nghĩ ông ấy sẽ rất tiếc nuối nếu lỡ mất cơ hội này.”
“Ồ, nếu là vấn đề tiền bạc thì...” Người phụ nữ hỏi. “Không phải cháu đang đùa đó chứ? Cơ hội đó là gì?”
“Chúng cháu có một người khổng lồ.”
“Cháu đang trêu cô hả?”
“Cô hãy đi cùng chúng cháu mà xem ạ.” Anthea nói.
Người phụ nữ tỏ vẻ ngờ vực, nhưng vẫn gọi một cô bé ăn mặc rách rưới với đôi tất kẻ sọc cùng chiếc váy lót trắng lem luốc mặc dưới chiếc yếm nâu tới trông chừng quầy bắn lon giúp mình. Cô ta quay sang Anthea và giục: “Chà, đi nhanh nào! Nhưng nếu các cháu chỉ đang đùa thì nên thú nhận ngay đi. Cô thì lành như đất, nhưng Bill thì đáng sợ lắm đấy...”
Anthea dẫn đường đến chuồng ngựa. “Đây thật sự là một người khổng lồ ạ.” Cô bé nói. “Đó là một cậu bé khổng lồ. Chúng cháu không thể đưa cậu bé vào Hội chợ bởi người ta sẽ nhìn chằm chằm rồi chết ngất mất. Cháu nghĩ rằng có lẽ cô sẽ thích phô diễn cậu bé này để kiếm tiền; nếu cô có mong muốn trả công cho chúng cháu thì được đấy ạ - chỉ là cô nên trả công hậu hĩnh một chút, bởi chúng cháu đã hứa sẽ cho cậu bé này gấp đôi số tiền so với những người còn lại rồi.”
Người phụ nữ lầm bầm thứ gì đó không rõ, bọn trẻ chỉ có thể nghe loáng thoáng mấy từ như “điên” và “rồ”, nên chẳng hiểu gì hết. Người phụ nữ vẫn giữ chặt tay Anthea; cô bé hơi lo nếu Robert đã đi đâu mất hoặc đã trở về kích cỡ bình thường khi lũ trẻ vắng mặt. Nhưng cô bé cũng biết rằng điều ước mà Tiên cát ban cho chỉ có thể biến mất sau khi mặt trời lặn, mặc cho điều ước đó có bất tiện đến thế nào đi nữa; mà cô bé cũng tin chắc là Robert - với kích thước như vậy - sẽ rất ngại đi ra ngoài một mình.
Khi đã đến chuồng ngựa, Cyril gọi một tiếng: “Robert!” Đống cỏ khô to xốp bỗng lay động, Robert bắt đầu chui ra. Một bên tay của cậu bé chìa ra trước - rồi đến một bên chân. Khi người phụ nữ thấy bàn tay cậu bé, cô ta đã thốt lên: “Trời ơi!” Khi nhìn thấy bàn chân cậu, cô kêu lên: “Ôi cuộc đời tôi!” Rồi khi cả thân hình khổng lồ của Robert cuối cùng cũng lộ diện sau những cử động chậm chạp nặng nề, cô ta hít vào thật sâu rồi bắt đầu lảm nhảm gì đó mà so với nó thì “điên” và “rồ” vẫn còn bình thường lắm. Cuối cùng, cô cũng bình tâm để nói được rõ ràng.
“Các cháu muốn nhận gì?” Cô ta phấn khích nói. “Chỉ cần là thứ có lí. Bọn cô có một chiếc xe tải đặc biệt - chí ít thì cô biết có một chiếc cũ có thể dễ dàng sửa sang lại cho hoành tráng. Các cháu muốn lấy gì? Cậu bé này chắc là hiền lắm nhỉ? Những người khổng lồ thường hiền mà - mặc dù cô chưa bao giờ thấy - chưa, chưa bao giờ! Các cháu muốn lấy gì? Cứ nói thẳng ra đi. Bọn cô sẽ đối đãi cậu bé như ông hoàng, cung cấp cho cậu bé đồ ăn hảo hạng với giường vừa vặn với bé cưng triển vọng này. Chắc cậu bé vụng về lắm nên các cháu mới phải chở cả cậu bé đến đây nhỉ. Các cháu muốn lấy gì?”
“Họ không lấy gì đâu ạ.” Robert nghiêm túc đáp. “Cháu cũng hiền như cô thôi ạ - hoặc không được đến thế. Cháu sẽ tham gia vào buổi diễn ngày hôm nay nếu được nhận...” Cậu bé ngần ngừ để suy nghĩ về món tiền hời mà cậu muốn đòi. “... Nếu cô cho chúng cháu mười lăm shilling.”
“Chốt nhé.” người phụ nữ trả lời nhanh đến nỗi Robert cảm thấy mình vừa tự hạ thấp giá trị bản thân và ước gì cậu đã đòi ba mươi shilling. “Nào đi thôi - đến gặp Bill của cô - rồi chúng ta sẽ cố định mức giá cho màn trình diễn này. Cô dám chắc rằng cháu phải kiếm được đến hai đồng pao mỗi tuần. Đi thôi - cố gắng thu gọn người cháu lại đi, làm ơn!”
Cậu không thể thu người nhỏ lắm nên đám đông nhanh chóng tụ lại, đó chính là khởi đầu của một cuộc hành trình hào hứng khi Robert bước vào khu sân cỏ dập nát nơi hội chợ diễn ra, giẫm lên thảm cỏ vàng lỉa chỉa đầy bụi để bước vào cửa căn lều lớn nhất. Cậu nhẹ nhàng chui vào, còn người phụ nữ đi gọi Bill. Ông ta đang ngủ say và tỏ vẻ cáu kỉnh khi bị đánh thức. Cyril liếc nhìn qua vết nứt trên vách lều, thấy ông ta cau có, vung vẩy nắm tay nặng nề vì ngái ngủ. Người phụ nữ nói nhanh như máy. Cyril chỉ có thể nghe được thấp thoáng “Trời đất” và “Món hời lớn nhất ông từng có, thật đấy!”. Cậu bắt đầu đồng tình với Robert rằng mười lăm đồng shilling đúng là quá ít ỏi. Bill chậm chạp bước vào căn lều. Được chiêm ngưỡng kích cỡ khổng lồ của Robert, ông ta chẳng thể nói gì nhiều ngoài câu cảm thán duy nhất “Ôi trời ơi!” - nhưng ông ta vẫn đưa Robert mười lăm đồng shilling, chủ yếu bằng những đồng sáu penny và xu copper.
“Chúng ta sẽ quyết định về giá trị của cậu khi màn trình diễn kết thúc vào tối nay.” Ông ta nói với giọng khàn khàn đầy hăng hái. “Đúng là một món hời! Chúng ta sẽ làm cho cậu hạnh phúc đến nỗi không thể nào rời khỏi chỗ này. Cậu có thể hát được chứ - hay đang hơi khó chịu?”
“Hôm nay thì không được ạ.” Robert đáp, một mực từ chối cái ý tưởng hát ca khúc Như một lần vào tháng Năm mà mẹ cậu yêu thích. Đó cũng là bài hát duy nhất mà cậu có thể nghĩ ra vào lúc này.
“Gọi Levi tới để lau mấy bức ảnh hoa kia đi. Dọn dẹp cả căn lều nữa. Chăng một tấm rèm hoặc cái gì đấy tương tự lên.” Ông ta nói. “Trời ạ, thật tiếc rằng chúng ta không có chiếc quần bó nào vừa cỡ cậu bé! Nhưng chúng ta sẽ có nó trong tuần tới thôi. Chàng trai trẻ này, cậu giàu to rồi. Thật là may mắn khi cậu đã chọn ta thay vì mấy tên chủ khác. Ta có biết một vài tên xấu xa đánh đập người khổng lồ và bỏ đói họ nữa; nên ta nói thẳng luôn, cậu đang gặp cơ may lớn nhất đời cậu đấy. Bởi ta hiền như bụt vậy, ta... ta sẽ không lừa cậu đâu.”
“Cháu không sợ bị ai đánh hết.” Robert nói khi nhìn xuống “ông bụt”. Cậu phải quỳ, bởi căn lều không đủ cao để cậu đứng thẳng, nhưng dù quỳ thì cậu vẫn cao hơn hầu hết mọi người. “Nhưng giờ cháu đang đói quá, ông có thể cho cháu chút đồ ăn được không?”
“Có ngay. Becca!” Bill lào khào gọi. “Lấy đồ ăn cho cậu bé - loại ngon nhất ấy, nhớ nhé!” Sau đó là những tiếng lầm rầm mà bọn trẻ chỉ có thể nghe được: “Hợp đồng, điều đầu tiên phải hoàn thành vào ngày mai.”
Khi người phụ nữ mang đồ ăn tới - đó chỉ là món bánh mì kèm phô mai, nhưng thế đã là đủ cho một Robert to lớn và đói meo; người đàn ông ra ngoài và bố trí canh gác ở xung quanh căn lều, dường như để cảnh cáo nếu Robert có ý định bỏ trốn với mười lăm đồng shilling.
“Cứ làm như chúng ta là lũ lừa lọc vậy.” Anthea khó chịu khi dõi mắt theo những người canh gác ngoài cửa kia.
Thế là một buổi chiều lạ lùng và kì diệu bắt đầu.
Bill là một ông chủ biết cách làm việc. Chỉ trong chốc lát, những phông nền đẹp đẽ đã được dựng lên, một dàn đèn sáng trưng rọi vào chính giữa. Một tấm rèm - chính xác là một tấm thảm cũ màu đỏ và đen - được treo ngay trước căn lều. Robert được giấu ở bên trong, còn Bill đứng trên một chiếc bàn kê trên niễng bên ngoài căn lều và phát biểu. Phải công nhận đó là một bài phát biểu khá hay. Ông ta bắt đầu bằng câu chuyện về người khổng lồ mà ông có vinh dự được giới thiệu với công chúng ngày hôm ấy là con trai cả của hoàng đế San Francisco, chỉ vì mối tình dang dở với nữ công tước Đảo Fiji mà phải bỏ quê hương lưu lạc sang Anh quốc - miền đất của tự do - nơi tự do là quyền của mọi công dân bất kể kích cỡ. Bài phát biểu kết thúc bằng lời thông báo rằng hai mươi người đầu tiên vào xem người khổng lồ sẽ chỉ cần trả một đồng ba penny mà thôi. “Sau đó...” Bill nói. “Giá sẽ tăng lên cao đấy, tôi không thể đảm bảo rằng nó sẽ rẻ được. Giờ thì đến lượt các quý vị.”
Một người đàn ông trẻ tuổi đưa người yêu đi chơi vào chiều hôm đó trở thành người đầu tiên. Ngay phút sau đã có tiếng kêu ré từ cô gái khiến tất cả mọi người đứng hình. Bill vỗ đen đét vào đùi mình. “Thế là thành công rồi!” Ông ta thì thầm với Becca. Chỉ cần thế là đã thay cho mọi lời quảng cáo tuyệt nhất rồi. Khi cô gái bước ra ngoài với vẻ mặt tái nhợt và thân hình run lẩy bẩy, người ta liền bu lại quanh căn lều.
“Thế nào?” Một chấp hành viên tòa án hỏi.
“Ôi! Kinh khủng lắm! Mọi người không thể tin được đâu.” Cô gái nói. “Nó to như cái chuồng ngựa vậy, lại còn hung dữ nữa. Nó làm máu tôi như đông lại trong xương tủy. Tôi không nhìn nhầm đâu.”
Nguyên nhân của sự hung dữ chỉ là do Robert đang nín cười. Nhưng cậu nhanh chóng chán ngán trò này, và trước khi mặt trời lặn cậu chỉ muốn khóc thay vì cười, nhưng hơn hết là muốn lăn ra ngủ. Bởi từng tốp người cứ vào xem cả buổi chiều, Robert phải bắt tay với những người yêu cầu, chịu đựng những cái đấm, kéo, đập và vỗ để mọi người tin chắc rằng cậu có thật.
Những đứa trẻ còn lại ngồi trên một băng ghế dài, quan sát và chờ đợi, chúng cũng buồn chán lắm rồi. Có vẻ như đây là cách kiếm tiền khó khăn nhất thế giới. Ấy vậy mà chúng chỉ kiếm được có mười lăm shilling! Bill chắc đã kiếm được gấp chục lần số tiền ấy. Bởi khi tin tức về người khổng lồ đã lan ra, các thương gia và các quý tộc từ các nơi nườm nượp ùa về xem. Có một quý ông với chiếc kính giả cùng một bông hồng vàng rất lớn trên khuyết áo, đã sốt sắng đề nghị cho Robert mười bảng mỗi tuần để cậu xuất hiện tại Cung Pha Lê. Robert từ chối.
“Cháu không thể.” Cậu nuối tiếc nói. “Không nên hứa hẹn những điều mình không thể làm được ạ.”
“A, tội nghiệp cậu bé, chắc hợp đồng kéo dài mất cả năm rồi! Chà, đây là danh thiếp của ta, khi nào hết thời hạn hãy gọi.”
“Cháu sẽ làm vậy - nếu cháu vẫn to như thế này.” Robert thật thà trả lời.
“Nếu cháu có lớn thêm một chút nữa thì càng tốt.” Quý ông nói.
Khi ông ta đã rời đi, Robert gọi Cyril vào và nói:
“Anh bảo họ em cần nghỉ ngơi một chút. Em cũng muốn uống trà nữa.”
Trà được mang lên, và một tờ giấy được đính vội lên ngoài căn lều. Nó ghi:
ĐÓNG CỬA TRONG NỬA GIỜ ĐỂ NGƯỜI KHỔNG LỒ UỐNG TRÀ
Mấy đứa nhanh chóng xúm vào bàn bạc.
“Làm thế nào để em thoát được khỏi nơi này đây?” Robert hỏi. “Em cứ băn khoăn mãi suốt cả chiều rồi.”
“Cứ bước ra ngoài với kích cỡ bình thường khi mặt trời lặn thôi. Họ đâu thể làm gì chúng ta.”
Robert mở to mắt. “Sao cơ, họ sẽ giết chúng ta nếu thấy em trở về kích thước ban đầu đấy. Chúng ta cần phải nghĩ cách. Chúng ta phải được ở một mình khi mặt trời lặn.”
“Anh hiểu.” Cyril đáp gọn, rồi cậu đi ra ngoài cửa, Bill đang hút tẩu thuốc bằng đất sét và trầm giọng trò chuyện với Becca. Cyril nghe lỏm được rằng: “Cứ như vừa được ban cho cả gia tài vậy.”
“Chú này.” Cyril nói. “Chú có thể để mọi người tiếp tục vào trong một phút nữa. Cậu ta sắp uống xong trà rồi. Nhưng cậu ta cần ở một mình khi mặt trời lặn. Lúc đó cậu ta cư xử lạ lắm, nếu cậu ta bị làm phiền đến mức nổi cáu thì cháu không biết hậu quả sẽ là gì đâu.”
“Sao cơ - cậu ta làm sao?” Bill hỏi.
“Cháu không biết; nó... giống như kiểu một sự thay đổi thôi.” Cyril thẳng thừng. “Cậu ta sẽ không bình thường nữa mà cư xử kì quặc lắm. Nếu bị ai làm phiền lúc mặt trời lặn thì cậu ta có thể làm người khác bị thương đấy.”
“Cậu ta sẽ ổn lại vào buổi tối chứ?”
“À vâng - chỉ cần nửa tiếng sau khi mặt trời lặn là cậu ta lại bình thường rồi.”
“Tốt nhất là nên chiều lòng cậu ta đi.” Người phụ nữ nói.
Vậy là, khi Cyril đoán chừng khoảng nửa tiếng nữa thì mặt trời sẽ lặn, căn lều tiếp tục được đóng lại để “người khổng lồ ăn bữa tối”.
Đám đông vô cùng hứng thú với bữa ăn của người khổng lồ và họ lại càng kéo đến đông hơn nữa.
“Chà, cậu ta có hơi kĩ tính.” Bill giải thích. “Cậu ta cũng phải ăn nhiều nữa, nhìn vóc dáng cậu ta là biết.”
Trong căn lều, bốn đứa trẻ đang bồn chồn bàn tính kế hoạch rút lui. “Các em về ngay đi.” Cyril bảo hai cô bé. “Về nhà nhanh hết mức có thể. Đừng quan tâm cái xe ngựa con kia, chúng ta sẽ quay lại lấy nó vào ngày mai. Robert và anh mặc giống nhau. Bọn anh sẽ thoát ra bằng cách nào đó. Chỉ có điều, con gái bọn em cần phải về trước, nếu không thì mọi chuyện hỏng bét. Bọn anh có thể chạy nhưng các em thì không. Không, Jane ạ, Robert ra ngoài đánh người thì chẳng được tích sự gì hết. Cảnh sát có thể đuổi theo cho đến khi thằng bé trở về kích cỡ thường và bắt giam thằng bé. Các em cần phải đi ngay! Nếu không thì anh sẽ không nói chuyện với các em nữa. Đi đi, nghe lời anh!”
Vậy là Jane và Anthea đi về.
“Chúng cháu về nhà đây.” Hai đứa nói với Bill. “Chúng cháu để lại người khổng lồ ở đây. Xin hãy đối tốt với cậu ta.” Anthea sau đó phải thừa nhận đó là những lời dối trá, nhưng còn cách nào khác nữa đâu?
Khi hai đứa em gái đã đi khuất, Cyril đến chỗ Bill.
“Chú ơi.” Cậu nói. “Người khổng lồ muốn ăn vài bắp ngô - cánh đồng bên kia có ngô đấy. Cháu sẽ chạy tới đó hái. Cậu ta cũng muốn chú nới một cửa đằng sau lều vì cậu ta đang cảm thấy ngột ngạt quá. Cháu sẽ đảm bảo không ai nhìn trộm cậu ta đâu. Cháu sẽ che cậu ta lại, để cậu ta ngủ một chút trong khi cháu đi hái ngô. Cậu ta phải được ăn ngô, cậu ta đã đòi thế thì phải chịu thôi.”
Người khổng lồ liền được cấp cho một đống bao tải và một tấm vải dầu cũ kĩ để ngả lưng. Tấm rèm được nâng lên, và hai cậu bé được ở một mình. Chúng thì thầm bàn bạc kế hoạch. Ngoài kia, tiếng kêu của vòng quay ngựa gỗ đang giúp chúng đánh lạc hướng sự chú ý từ khách khứa.
Khoảng nửa phút sau khi mặt trời lặn, một cậu bé trong bộ đồ Norfolk đi ngang qua Bill.
“Cháu đi hái ngô đây ạ.” Cậu bé nói rồi nhanh chóng lỉnh vào trong đám đông.
Cùng lúc đó, một cậu bé nữa bước ra từ sau căn lều và tiến thẳng qua Becca đang đứng đó canh gác.
“Cháu đi hái ngô đây ạ.” Cậu bé này cũng nói vậy, và cũng nhanh chóng lỉnh vào trong đám đông. Cyril là người đã đi cửa trước, còn Robert đi cửa sau - khi mà cậu đã trở lại hình dáng bình thường một khi mặt trời lặn. Cả hai đứa trẻ nhanh chóng rảo chân qua cánh đồng rồi đến con đường, Robert bắt kịp Cyril ở đó. Rồi cả hai cùng chạy. Chúng về nhà cùng lúc với hai cô bé, bởi quãng đường từ đó về nhà khá xa và hai cậu bé đã phải chạy gần hết cả quãng đường. Đó đúng là một quãng đường xa, bọn trẻ thừa nhận khi phải kéo chiếc xe ngựa về nhà sáng hôm sau mà không còn một Robert cao lớn để đẩy chúng như vú em khổng lồ đẩy xe đẩy trẻ con nữa.
Tôi không thể kể cho bạn nghe Bill và Becca đã nói gì khi họ phát hiện gã khổng lồ đã biến mất. Đơn giản là bởi tôi không biết.