C
ó lẽ ngày hôm đó sẽ vui vẻ hơn nhiều nếu không phải Cyril đang đọc cuốn sách Người thổ dân da đỏ cuối cùng. Câu chuyện cứ chạy đi chạy lại trong đầu cậu suốt bữa sáng. Trong lúc lấy cốc trà thứ ba, cậu mơ màng lên tiếng: “Anh ước gì có thổ dân da đỏ ở nước Anh, nhưng không phải mấy người cao lớn đâu, mấy người nhỏ nhỏ thôi, vóc người tầm như bọn mình ấy, để đánh nhau.”
Lần này mấy đứa không đồng ý với cậu. Chẳng ai thấy việc đánh nhau có chút thú vị nào. Bọn trẻ đi xuống dưới mỏ cát để hỏi xin một trăm bảng bằng đồng hai shilling có in hình đầu nữ hoàng Victoria để tránh nhầm lẫn như lần trước. Bọn trẻ nghĩ đây là điều ước có lí nhất, chắc chắn mang lại những điều tốt đẹp. Nhưng Psammead lại tỏ ra cáu kỉnh và buồn ngủ. Nó phàn nàn:
“Đừng có làm phiền ta. Các cô cậu đã có điều ước của mình rồi.”
“Sao cháu lại không biết nhỉ?” Cyril nói.
“Cậu nhớ ngày hôm qua không?” Tiên cát nói, tỏ ra bất bình hơn. “Cậu ước gì ta ban cho cậu điều ước ở bất kì đâu và sáng nay cậu đã ước rồi. Giờ thì cậu đã có nó rồi.”
“Chúng cháu có không?” Robert nói. “Nó là gì thế?”
“Thế là cậu đã quên rồi ư?” Psammead vừa nói vừa bắt đầu đào cát. “Đừng bận tâm. Cậu sẽ biết sớm thôi. Chúc các cô cậu vui vẻ nhé! Cậu đã đặt mình vào tình huống vui rồi đấy!”
“Chúng cháu luôn thế mà.” Jane nói một cách buồn bã.
Giờ chẳng ai nhớ là đã có ai ước gì vào buổi sáng hôm đó. Điều ước về những thổ dân chẳng mảy may đọng lại chút nào trong đầu chúng. Đứa nào cũng cố gắng vắt óc ra để nghĩ xem đã trót ước gì nhưng không đứa nào nghĩ ra được, thế nên bọn trẻ bắt đầu đứng ngồi trông ngóng xem sắp có chuyện gì xảy ra. Điều đó thật đáng tranh luận. Từ những gì Psammead nói, bọn trẻ đều biết là chắc hẳn chúng đã ước cái gì đó không giống như thường lệ nhưng bàn cãi mấy tiếng liền mà vẫn không đứa nào chắc chắn. Mãi đến gần giờ ăn thì Jane mới nghĩ ra. Cuốn sách Người thổ dân da đỏ cuối cùng đã bị rơi dưới sàn. Lúc Anthea nhặt cuốn sách lên, cô bé bỗng kêu lên “Em biết rồi!” và ngồi phịch xuống tấm thảm. “Ôi trời ạ, tệ quá! Anh Cyril, anh ấy ước có thổ dân, anh chị không nhớ à? Anh ấy nói là “Anh ước gì có thổ dân da đỏ ở Anh” và giờ đó, họ đang đi lột da đầu người bại trận ở khắp cả nước này rồi.”
“Có lẽ họ chỉ ở Northumberland và Durham thôi.” Jane nức nở nói. Thật không thể tin là có cái gì lại khiến người ta đau hơn là lột thẳng mảnh da đầu đi như thế.
“Em không tin vào chuyện đó đấy chứ!” Anthea nói. “Sammyadd đã nói là chúng ta đã đặt mình vào chuyện hay ho mà. Thế nghĩa là họ sẽ đến đây. Và biết đâu họ đã lột da đầu em Cừu rồi!”
“Biết đâu mảnh da đầu sẽ liền lại đúng lúc hoàng hôn thì sao.” Jane nói, nhưng giọng cô bé không có vẻ gì là tràn đầy hi vọng như thường lệ.
“Không đâu.” Anthea nói. “Những thứ xảy ra từ điều ước không biến mất đâu. Nhìn mười lăm shilling lần trước mà xem! Sóc ơi, chị đang định làm vỡ một thứ đây, em phải đưa chị tất cả số tiền em có nhé. Thổ dân sẽ đến đây đấy, em không thấy à? Psammead đã nói thế một cách hằn học. Em có hiểu kế hoạch của chị là gì không? Đi thôi!”
Jane chẳng hiểu gì cả. Nhưng cô bé vẫn đi theo chị mình vào trong phòng ngủ của mẹ.
Anthea nhấc cái bình nước nặng trịch lên, nó in hình con cò với đám lau sậy trên đó. Cô bé lôi nó vào trong phòng thay đồ và cẩn thận đổ hết nước vào trong bồn tắm. Rồi cô bé mang cái bình lại về phòng ngủ và thả nó xuống sàn. Các bạn biết cái bình vỡ như thế nào nếu như chẳng may bị rơi rồi đấy. Nhưng còn cố ý làm rơi thì lại khác. Anthea thả cái bình xuống ba lần liền mà cái bình vẫn không chịu vỡ. Thế là cuối cùng, cô bé phải lấy cây gậy của bố và lạnh lùng đập nó ra. Thật là một công việc tàn nhẫn.
Sau đó, cô bé lấy que cời than để cạy cái hộp quyên góp từ thiện của hội truyền giáo. Jane bảo chị mình thế là hư đấy nhưng Anthea bịt chặt miệng em gái và nói:
“Đừng có ngốc thế. Đây là vấn đề sống còn đấy.”
Chẳng có gì nhiều lắm trong chiếc hộp của hội truyền giáo, có mỗi bảy mươi tư xu, nhưng hai đứa con gái còn có gần bốn shilling nữa. Thế là tất cả có hơn mười một shilling.
Anthea buộc chặt tiền vào trong chiếc khăn tay. “Đi thôi, Jane!” Cô bé nói rồi chạy xuống dưới nông trại. Cô bé biết là bác làm vườn đang định đi Rochester chiều hôm đó. Thực tế là bọn trẻ đã sắp xếp để ông ấy có thể đưa cả bốn đứa đi theo. Bọn trẻ đã lên kế hoạch về khoảng thời gian vui vẻ khi tin rằng sẽ kiếm được hàng trăm bảng bằng đồng hai shilling mà không cần đến Psammead. Bọn trẻ đã sắp xếp để trả bác nông dân hai shilling cho mỗi lượt chở xe. Nhưng giờ Anthea lại giải thích cho bác là bọn chúng không thể đi được, mà thay vì thế có thể đưa Martha với em bé đi được không. Bác đồng ý nhưng không vui lắm khi mà chỉ nhận được có mỗi nửa crown thay vì tám shilling.
Hai cô bé lại chạy về nhà. Anthea hơi kích động nhưng không bối rối. Khi cô bé nghĩ là tất cả đã xong xuôi, cô bé thấy mình đã hành xử như một người biết nhìn xa trông rộng, giống như một nhà lãnh đạo bẩm sinh vậy. Cô bé lôi chiếc hộp nhỏ trong ngăn kéo riêng rồi đi tìm Martha, chị ta đang cất quần áo và tâm trạng không tốt lắm.
“Chị xem này.” Anthea nói. “Tôi làm vỡ bình nước trong phòng mẹ tôi rồi.”
“Cô lúc nào chẳng thế, lúc nào cũng có mấy trò nghịch ngợm.” Martha nói trong lúc bẻ cổ áo xuống.
“Đừng cáu mà, Martha.” Anthea nói. “Tôi có đủ tiền để mua một cái mới đấy, chỉ cần chị tốt bụng đi và mua giúp tôi thôi. Họ hàng của chị có một cửa hàng mà, phải không? Tôi mong là chị sẽ mua được nó hôm nay, lỡ như mai mẹ về nhà thì sao. Chị biết là mẹ nói có khả năng mẹ sẽ về mà.”
“Nhưng các cô cậu đều đang định đi vào thị trấn cả lượt mà.” Martha nói.
“Chúng tôi không thể đi được nếu không có cái bình mới.” Anthea nói. “Nhưng chúng tôi sẽ trả tiền xe cho chị đi, nếu chị đưa em Cừu theo cùng. Martha, chị nhìn này, nếu chị đi thì tôi sẽ cho chị cái hộp Nữ thần Tự do. Nó cực xinh ấy, tất cả được chạm trổ bằng bạc thật với hoa văn và gỗ mun giống như đền thờ của vua Solomon ấy.”
“Tôi thấy rồi.” Martha nói. “Tôi không muốn cái hộp của cô, thưa cô. Cái gì khiến cô muốn em Cừu quý giá phải xa vòng tay cô chiều nay vậy hả? Cô không nghĩ là tôi đi guốc trong bụng cô à?”
Điều này đúng quá nên Anthea không sao chối được, Martha chẳng có việc gì phải biết quá nhiều làm gì. Nhưng chị ta vốn là người biết giữ mồm giữ miệng.
Martha đập mạnh cái bánh mì làm nó nhảy lên khỏi thớt.
“Tôi muốn có cái bình thôi.” Anthea nói nhẹ nhàng. “Chị sẽ đi mà, phải không?”
“Được rồi, chỉ lần này thôi đấy. Tôi không ngại đi đâu, tôi chỉ ngại là liệu các cô cậu chủ của tôi có phá phách tanh bành cái nhà trong lúc tôi đi vắng không thôi. Tất cả chỉ có thế!”
“Bác ấy đang định đi sớm hơn dự định đấy.” Anthea sốt ruột nói. “Tốt nhất là chị nên nhanh lên và thay đồ đi. Mặc cái váy tím xinh xắn ấy, Martha ạ, với cả cái mũ có bông thanh cúc màu hồng cùng chiếc áo cổ đăng ten màu vàng ấy. Cứ để Jane gấp gọn quần áo còn tôi sẽ rửa ráy và sửa soạn cho em Cừu.”
Trong lúc tắm rửa cho em Cừu giãy giụa không yên và vội vã thay cho em bộ quần áo đẹp nhất, Anthea cứ liên tục ngoái nhìn ra ngoài cửa sổ để yên tâm là không có người thổ dân da đỏ nào cả. Sau khi hối hả giục giã làm Martha thêm cuống quýt cả lên, cuối cùng chị ta và em Cừu cũng đi khỏi, Anthea mới có thể thở phào nhẹ nhõm.
“Em ấy an toàn rồi!” Cô bé nói, rồi đột nhiên đổ ập xuống sàn nhà và bắt đầu khóc tới nỗi nước mắt lênh láng như thác lũ. Jane chẳng thể hiểu được làm sao con người ta có thể vừa dũng cảm như một vị tướng lĩnh được rồi sau đó bỗng dưng ỉu xìu y như một quả khinh khí cầu khi bị chọc thủng thế. Tốt hơn hết là không nên cố giải đoán làm gì, nhưng Anthea đã không chịu lùi bước cho tới khi mục đích của cô bé được hoàn thành. Cô bé đã đưa em Cừu bé bỏng thoát khỏi nguy hiểm. Cô bé cảm thấy chắc chắn là thổ dân da đỏ sẽ bao vây căn nhà màu trắng, xe của bác làm vườn sẽ không về trước hoàng hôn, thế nên cô bé có thể khóc một chút cho nhẹ nhõm phần nào, bởi vì cô bé đã làm xong hết những việc cần phải làm rồi. Anthea đã khóc khoảng ba phút, trong lúc được Jane ôm chặt, cứ năm giây lại an ủi một câu “Đừng khóc, chị Báo yêu quý!”
Rồi cô bé nhảy bật dậy, dụi mắt bằng góc chiếc tạp dề, khiến hai mắt đỏ ửng lên, và đi tìm Cyril và Robert để bàn bạc kế hoạch. Đó cũng là lúc bác đầu bếp rung chuông báo tới giờ ăn tối, thế nên chẳng ai nói được gì trong lúc bác giúp chúng cắt nhỏ thịt bò. Bác đầu bếp ra khỏi phòng thì Anthea mới kể mọi chuyện. Nhưng thật là có lỗi khi kể một câu chuyện rùng rợn trong lúc mọi người đang ăn thịt bò và khoai tây luộc. Dường như có cái gì đó trong thức ăn khiến cho ý tưởng về thổ dân da đỏ trở nên không còn có vẻ thực tế nữa. Bọn con trai còn cười nhạo và bảo Anthea ngốc nghếch.
“Sao chứ.” Cyril nói. “Anh gần như chắc chắn là trước khi anh nói thế thì Jane đã nói là em ấy ước mình có một ngày thật vui rồi.”
“Không phải.” Jane cự cãi.
“Nếu như đúng là thổ dân...” Cyril tiếp tục. “Cho anh thêm ít muối và mù tạt, anh phải ăn cái gì đấy cho trôi cái cháo ngô này đã. Nếu như đúng là thổ dân, thì bọn họ phải tàn phá suốt một quãng đường dài trước khi tới đây rồi, em biết họ sẽ làm thế mà. Anh tin hôm nay sẽ là một ngày yên ổn.”
“Thế thì tại sao Sammyadd lại nói là chúng ta đã đặt mình vào trong tình huống hay ho chứ?” Anthea hỏi. Cô bé cảm thấy hơi bực. Cô bé biết mình đã hành xử một cách cao thượng và thận trọng nên thật khó chịu khi bị ám chỉ là ngốc nghếch, đặc biệt là khi đã phải bẻ khóa chiếc hộp của hội truyền giáo, lấy hết bảy mươi tư xu và vét đến những đồng tiền cuối cùng của mình.
Lại một sự im lặng trong khi bác đầu bếp đem mấy đĩa thịt băm đi và mang thêm bánh pudding vào. Ngay khi bác đi ra ngoài, Cyril tiếp tục nói.
“Tất nhiên là anh không có ý nói là đưa Martha với em Cừu rời đi chiều nay là không tốt; nhưng còn chuyện về thổ dân da đỏ, em thừa biết là mấy điều ước lúc nào cũng đến ngay lập tức mà. Nếu như đúng là có thổ dân da đỏ thật thì họ đã ở đây rồi.”
“Em mong là thế.” Anthea nói. “Có lẽ họ đang ẩn nấp trong bụi cây, lúc nào họ chẳng ẩn nấp rình rập, anh biết mà. Em nghĩ anh mới là cái đồ không tốt ấy.”
“Thổ dân hầu như lúc nào cũng ẩn nấp, thực thế à?” Jane hỏi, cố gắng giảng hòa.
“Không đâu.” Cyril nói. “Và không phải là anh không tốt, anh chỉ thành thật thôi. Anh nói là hoàn toàn dại dột khi đập vỡ cái bình nước và cạy cái hộp của hội truyền giáo, anh tin như thế là có tội và anh không biết liệu em có bị treo cổ không, nếu như một trong chúng ta bị...”
“Anh im đi được không?” Robert nói, nhưng Cyril không im được. Từ tận đáy lòng, cậu cảm thấy nếu có thổ dân thật thì đó hoàn toàn là lỗi của cậu, thế nên cậu không muốn tin là họ có tồn tại. Khi cố gắng để không tin vào cái gì đó mà lòng bạn chắc chắn rằng nó có thật thì tính tình sẽ trở nên cáu bẳn hơn bình thường nhiều.
“Thật là ngớ ngẩn khi cứ nói mãi về thổ dân.” Cậu nói. “Khi mà rõ ràng em cũng tự thấy điều ước hôm nay là của Jane. Em cứ xem ngày hôm nay yên ổn thế nào... ối...”
Cậu quay về phía cửa sổ để chỉ một ngày yên ổn như thế nào, những đứa khác cũng quay ra nhìn. Sự im lặng đóng băng Cyril và những đứa khác. Ở đó, qua ô cửa sổ, giữa tán lá đỏ của cây dây leo là một khuôn mặt, nước da màu nâu gụ với cái mũi dài, miệng mím chặt và đôi mắt sáng rực. Khuôn mặt được sơn vẽ đầy màu sắc, mái tóc đen dài và có gắn những chiếc lông chim trên đầu!
Miệng lũ trẻ há hốc ra. Bánh pudding đã nguội ngắt trên đĩa. Không đứa nào có thể cử động nổi.
Bỗng dưng, cái đầu có gắn lông chim thận trọng rút lui, sự im lặng bị phá vỡ. Anthea lên tiếng đầu tiên đúng kiểu của một đứa con gái.
“Thấy chưa! Em đã bảo rồi mà!”
Bánh pudding giờ chẳng còn có vẻ ngon lành gì nữa. Bọn trẻ vội vã gói phần của mình lại và giấu chúng sau tờ giấy trang trí nhàu nát rồi cả lũ lao lên tầng và tổ chức bàn bạc hội đồng khẩn cấp.
Cyril nói ngay khi mấy đứa vào đến phòng ngủ của mẹ. “Báo à, anh xin lỗi nếu anh cư xử cục súc quá.”
“Được thôi.” Anthea nói. “Nhưng giờ anh thấy rồi đấy.”
Theo như quan sát ra bên ngoài từ những ô cửa sổ thì không thấy dấu vết nào của người da đỏ nữa.
“Giờ chúng ta làm gì đây?” Robert hỏi.
“Điều duy nhất chị có thể nghĩ ra được...” Anthea nói, giờ cô bé trở thành người lãnh đạo và là nữ anh hùng của ngày hôm nay. “Là nếu chúng ta ăn mặc giống thổ dân và nhìn ra ngoài cửa sổ hoặc thậm chí là đi ra ngoài, họ sẽ nghĩ chúng ta là những thủ lĩnh quyền năng của một bộ lạc lớn và thế là bọn họ sẽ sợ hãi không dám làm gì chúng ta cả.”
“Nhưng còn Eliza và bác đầu bếp thì sao?” Jane hỏi.
“Em quên là họ không thể thấy gì cả à?” Robert nói. “Họ thậm chí sẽ chẳng nhận ra nếu bị lột da đầu hoặc bị nướng trên lửa ấy chứ.”
“Nhưng đến tận lúc hoàng hôn thì họ có ổn không?”
“Tất nhiên rồi. Em không thể nào bị lột da đầu hay bị thui chết mà không nhận ra được, chắc chắn ngày hôm sau em sẽ nhận ra, cho dù có cố không để ý đi chăng nữa.” Cyril nói. “Anh nghĩ là Anthea nói đúng đấy, nhưng chúng ta phải cần cực kì nhiều lông vũ.”
“Em sẽ đi xuống chuồng gà.” Robert nói. “Có một con gà tây ở đấy. Nó không khỏe lắm. Em sẽ cắt của nó ít lông mà không làm phiền đến nó. Lấy cho em cái kéo nào.”
Mấy đứa quan sát để đảm bảo là không có người thổ dân nào ở trong sân gia cầm. Robert đi ra. Trong vòng năm phút, cậu quay lại, mặt tái nhợt nhưng mang theo đầy lông.
“Em bảo.” Cậu bé nói. “Chuyện nghiêm túc đây này. Em cắt lông xong, lúc em quay ra thì có một người thổ dân nheo mắt nhìn em từ dưới mái chuồng gà. Em chỉ kịp ôm chặt đống lông và hét toáng lên rồi chạy biến đi trước khi hắn ra khỏi mái chuồng. Chị Báo ơi, chị lấy cái chăn màu mè lòe loẹt ra khỏi giường đi, để làm áo choàng, được không?”
Thật tuyệt khi có thể làm mình trông giống thổ dân bằng chăn với lông gà và bảng màu vẽ. Tất nhiên không đứa trẻ nào có được mái tóc đen dài, nhưng ở đó có đầy vải trúc bâu màu đen mà hồi trước dùng để bọc sách. Bọn trẻ cắt vải ra thành những dải dài rồi buộc lên đầu với sợi ruy băng màu sắc lấy từ chiếc váy lễ phục chủ nhật của hai chị em gái.
Rồi bọn trẻ cắm lông gà tây lên sợi ruy băng. Mảnh vải trúc bâu trông rất giống mái tóc đen dài, đặc biệt là khi mấy mảnh vải lại hơi cong.
“Nhưng mặt bọn mình chẳng đúng màu gì cả. Bọn mình trông đều trắng bệch, trông mặt Cyril cứ như quét vôi ấy.”
“Mặt anh đâu có thế.” Cyril nói.
“Người thổ dân thật bên ngoài trông phải hơi nâu cơ.” Robert vội vã nói. “Em nghĩ là chúng mình phải đỏ, đỏ kiểu da đỏ ấy, nếu chúng mình cũng là thổ dân.”
Đất đỏ gạch mà bác đầu bếp dùng để bọc gà nướng có vẻ là thứ đỏ nhất trong nhà. Bọn trẻ trộn một ít với sữa trong một cái bát giống như bác hay làm. Bọn trẻ cẩn thận sơn mặt mũi chân tay cho nhau cho đến khi cả bọn trông đỏ như bất cứ người thổ dân da đỏ nào, thậm chí đỏ hơn.
Bọn trẻ biết là trông mình phải kinh dị lắm vì lúc gặp Eliza ở hành lang, chị ta đã hét toáng lên.
Điều này khiến bọn trẻ rất hài lòng. Chúng vội vã bảo chị ta không cần phải quang quác cái mồm lên như thế, đây chỉ là trò chơi thôi, bốn cái chăn, lông lá với da đỏ thật dùng để ra ngoài gặp gỡ kẻ thù. Rồi cứ thế, bọn trẻ dũng cảm bước ra.
Dọc theo hàng rào phân chia khu vườn với khu đất hoang là một hàng người đầu đen, tất cả đều gắn lông vũ.
“Đây là cơ hội duy nhất của chúng ta đấy.” Anthea thì thầm. “Còn hơn là chờ đợi bị đổ máu khi bị tấn công. Chúng mình phải giả bộ như phát khùng lên ấy. Giống lúc chơi bài mà cứ giả vờ có quân Hai cơ nhưng thực tế là không có ấy. Nào. Hú!”
Với bốn tiếng hú hoang dã hoặc gần gần như thế, mấy đứa trẻ người Anh mong là có thể xông lên mà không cần tập luyện trước, bọn chúng chạy qua cánh cổng và đứng khựng lại trước thái độ hiếu chiến của bọn thổ dân. Cả bọn cao ngang nhau, cỡ như Cyril.
“Anh cầu cho bọn họ biết nói tiếng Anh.” Cyril lên tiếng.
Anthea biết là bọn họ có thể, mặc dù cô không bao giờ biết được tại sao mình lại biết thế. Cô bé có một cái khăn tắm màu trắng buộc vào một cây gậy. Đấy là cờ đầu hàng, cô bé vẫy nó với hi vọng những thổ dân biết nó là gì. Thật may là họ hiểu, có một người da nâu sậm hơn những người còn lại bước lên phía trước.
“Tìm thầy phù thủy à?” Anh ta nói bằng giọng Anh xuất sắc. “Tôi là Đại Bàng Vàng, đến từ bộ lạc Rock-dweller.”
“Còn tôi là Báo Đen, thủ lĩnh của... của... của bộ lạc Mazawattee.” Anthea nói, bỗng dưng nghĩ ra. “Anh em của tôi, ý tôi không phải thế, ý tôi là bộ lạc của tôi, ý tôi là bộ lạc Mazawattee của tôi, đang ở bụi cây phía dưới sườn đồi.”
“Để chuẩn bị cho một cuộc chiến lớn à?” Đại Bàng Vàng hỏi, quay sang những người khác.
Cyril nói cậu là thủ lĩnh Sóc của bộ lạc Moning Congo. Nhìn Jane nghẹn giọng không thể nghĩ ra được cái tên nào cho mình, cậu nói thêm: “Đây là chiến binh Mèo Hoang, ở đây chúng tôi gọi là Pussy Ferox, thủ lĩnh của bộ lạc Phiteezi.”
“Và cậu, là người da đỏ dũng cảm nào?” Đại Bàng Vàng bỗng dưng hỏi Robert, đang lúng túng không biết trả lời thế nào, chỉ biết trả lời mình là Bobs, chỉ huy của đội cảnh sát Cape Mounted.
“Giờ thì...” Báo Đen nói. “Chỉ cần chúng tôi huýt sáo ra hiệu, bộ lạc của chúng tôi sẽ ngay lập tức kéo đến áp đảo số lượng cỏn con của các vị; thế nên chống cự vô ích thôi. Hãy quay về đất của mình đi, hỡi người anh em, yên phận hút thuốc trong chuỗi vỏ sò cùng những người phụ nữ thổ dân và thầy mo của các vị, mặc những chiếc lều sặc sỡ nhất và vui vẻ ăn món giày da đanh mọng nước tươi ngon.”
“Em nói sai hết rồi.” Cyril giận dữ lầm bầm. Nhưng Đại Bàng Vàng chỉ nhìn cô bé đầy thắc mắc.
“Phong tục của các người khác bọn tôi đấy, Báo Đen ạ.” Anh ta nói. “Gọi bộ lạc của cô ra đây, bọn tôi có thể tổ chức một buổi lễ tế cho họ chứng kiến cách để trở thành những vị thủ lĩnh vĩ đại.”
“Chúng tôi sẽ gọi họ đến ngay đấy.” Anthea đáp. “Họ được trang bị cung tên, rìu, dao lột và bất kì loại vũ khí nào anh có thể nghĩ ra, nếu anh không chịu tỉnh táo mà rút lui.”
Cô bé cố gắng ra giọng can đảm, nhưng tim của bọn trẻ đều đang đập thình thịch, hơi thở chúng càng lúc càng gấp gáp hơn. Những người thổ dân da đỏ nhỏ bé đang tiến lại quanh chúng - càng lúc càng gần với những tiếng lầm bầm giận dữ - cho đến khi bọn trẻ bị vây quanh bởi hàng loạt gương mặt tối sầm và hung dữ.
“Vô ích thôi.” Robert thì thầm. “Em biết thể nào cũng vậy mà. Chúng ta buộc phải liều mạng chạy ra chỗ Tiên cát thôi. Có thể nó sẽ giúp chúng ta. Nếu không thì... chà, em nghĩ chúng ta sẽ hồi sinh lúc mặt trời lặn thôi. Không biết liệu bị lột da có đau như người ta nói không nhỉ?”
“Chị sẽ vẫy cờ lần nữa.” Anthea nói. “Nếu họ rút lui, chúng ta sẽ xông lên.”
Cô bé vẫy chiếc khăn, thủ lĩnh liền ra lệnh cho người của anh ta đứng lại. Ngay lúc ấy, bọn trẻ ngắm thẳng vị trí mỏng nhất của đoàn quân da đỏ rồi điên cuồng lao tới. Chúng xô ngã phải đến nửa tá người da đỏ để chạy thẳng tới mỏ cát. Không còn thời gian mà đi con đường an toàn dễ dàng dành cho xe kéo nữa - bọn trẻ phải đi thẳng theo rìa mỏ cát, giữa những đóa hoa vàng và tím nhạt cùng đám cỏ khô cong, nhảy cóc, leo trèo, vấp váp, nháo nhào rồi cuối cùng là lăn lộn mà đi.
Đại Bàng Vàng cùng người của anh ta đuổi theo chúng đến tận nơi mà bọn trẻ thấy Psammead buổi sáng hôm ấy.
Bọn trẻ, thở dốc và mỏi nhừ người, chỉ còn biết chờ đợi số phận. Những con dao và lưỡi rìu sắc lẻm vây quanh chúng, nhưng tệ hơn cả là ánh mắt ác độc của những người cầm vũ khí.
“Các ngươi đã lừa dối chúng ta, Báo Đen của bộ lạc Mazawattee và Sóc của bộ lạc Moning Congo. Cả hai người này nữa, Pussy Ferox của bộ lạc Phiteezi và Bobs của đội cảnh sát Cape Mounted - tất cả các người đều lừa dối chúng ta, không bằng lời nói thì cũng bằng sự im lặng. Các người dám lừa dối dưới vỏ bọc của lá cờ đầu hàng của người da trắng. Các người không hề có bộ lạc. Bộ lạc của các người đang ở rất xa - theo đuổi dấu vết săn mồi. Kết cục của chúng sẽ ra sao đây?” Anh ta kết thúc và nở một nụ cười xấu xa với những người da đỏ khác.
“Nhóm lửa đi!” Bộ lạc của anh ta hô to; ngay lập tức có một tá người tự giác đi tìm nguyên liệu nhóm lửa. Bốn đứa trẻ, mỗi đứa bị hai người thổ dân nhỏ con mà khỏe như vâm giữ chắc, chỉ còn biết tuyệt vọng nhìn quanh. Ôi, giá mà chúng có thể thấy Psammead vào lúc này!
“Các người định lột da đầu chúng tôi rồi nướng chúng tôi sao?” Anthea tuyệt vọng hỏi.
“Tất nhiên rồi!” Một người da đỏ mở to mắt nhìn cô bé. “Đây là tục lệ.”
Những người da đỏ vây thành vòng tròn xung quanh bốn đứa trẻ, ngồi trên mặt đất và nhìn chằm chằm chiến lợi phẩm của họ. Tất cả chìm vào sự im lặng đầy đe dọa.
Thế rồi dần dần, cứ từng nhóm hai người rồi ba người, những người da đỏ đi tìm củi đốt quay trở về với hai bàn tay trắng. Họ không thể tìm được bất kì mảnh gỗ nào để nhóm lửa! Thực ra thì không ai có thể tìm được gỗ nơi vùng đất ở Kent ấy.
Bọn trẻ thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lập tức la lên hoảng sợ. Bởi giờ đây những lưỡi dao sáng quắc đều đang chĩa về phía chúng. Ngay lập tức, mỗi đứa trẻ bị một người da đỏ chộp lấy; chúng chỉ biết nhắm nghiền mắt và cố gắng nén tiếng la hét. Chúng đợi cú chạm đau đớn từ những con dao, nhưng rốt cuộc lại không thấy gì. Ngay sau đó, bọn trẻ được thả ra và run rẩy ngã xuống đất. Đầu chúng không đau chút nào. Chúng chỉ cảm thấy mát mẻ đến kì lạ. Những tiếng hò reo vang dội bên tai bọn trẻ. Khi mở mắt, bọn trẻ thấy bốn kẻ thù đang nhảy loạn quanh mình với những cú nhảy hoang dại và tiếng la hét, mỗi người cầm trên tay một mảnh da đầu với mái tóc dài đen. Bọn trẻ liền đặt tay lên đầu mình - da đầu vẫn còn nguyên! Những kẻ độc ác ngu ngốc đã lột da đầu bọn trẻ. Nhưng thứ mà chúng lột được chỉ là bộ tóc giả đen xoăn tít!
Bọn trẻ liền ngã vào vòng tay nhau, vừa cười vừa thổn thức.
“Da đầu của chúng giờ là của chúng ta.” Tộc trưởng lên tiếng. “Những mớ tóc thật yếu ớt! Chúng đã nằm trên tay của kẻ chiến thắng - không tốn chút công sức mà cũng chẳng có chút chống cự nào, chúng đã phải chịu thua trước lưỡi dao của bộ lạc Rock-dweller! Ôi chà, những bộ tóc quá dễ dàng đạt được này chẳng phải là còn quá ít sao!”
“Chúng sắp lột da đầu thật của chúng ta đấy, em đảm bảo.” Robert nói khi đang cố gắng phủi đống đất đỏ trên mặt mình và đưa tay lên ôm tóc.
“Các người đã qua mắt hành động trả thù công bằng và dũng mãnh của chúng ta.” Tộc trưởng tiếp tục nói. “Nhưng vẫn còn những đòn hành hạ khác ngoài dao lột và lửa nướng. Đáng ra phải có ngọn lửa bập bùng ở đây mới đúng. Cái miền quê giả tạo kì lạ này, không thể tìm được cả gỗ để thiêu cháy kẻ thù! Ôi - khu rừng bao la nơi miền đất quê hương chúng ta, nơi mà những cây cổ thụ trải dài hàng ngàn dặm có thể cung cấp gỗ để chúng ta thiêu sống kẻ thù. A, ước gì chúng ta được trở lại khu rừng quê hương thì tốt biết mấy!”
Đột nhiên, như một tia chớp lóe lên, mặt sỏi vàng tỏa sáng quanh bốn đứa trẻ thay cho những thổ dân. Từng người da đỏ một biến mất ngay sau khi vị tộc trưởng vừa dứt lời. Tiên cát hẳn đã có mặt ở đó suốt và ban cho tộc trưởng người da đỏ điều ước.
Martha mang về nhà một cái bình có in hình đàn cò trên một bãi lau sậy. Chị cũng mang về toàn bộ tiền của Anthea.
“Chị họ của tôi cho tôi cái bình này để lấy may; chị ấy nói thật là kì lạ khi cái bình nước bị vỡ.”
“Ôi, Martha, chị đúng là cứu tinh!” Anthea thở phào và choàng tay quanh người chị.
“Phải rồi.” Martha khúc khích. “Tranh thủ giờ còn nhờ tôi được thì cô nhờ tôi nhiều vào. Tôi sẽ thông báo với bà chủ ngay khi bà quay lại.”
“Ôi, Martha, chúng tôi đã đối xử với chị rất tệ phải không?” Anthea hoảng hốt hỏi.
“Ồ, không phải vì thế đâu, thưa cô.” Martha khúc khích nhiều hơn nữa. “Tôi sắp cưới chồng rồi. Tôi sẽ cưới Beale, người canh rừng. Anh ấy đã theo đuổi tôi từ khi các cô cậu trở về từ nhà vị mục sư cái hôm bị nhốt trên tòa tháp nhà thờ. Hôm nay tôi đã cho anh ấy câu trả lời khiến anh ấy hạnh phúc.”
Anthea cất lại bảy mươi tư xu vào trong hộp của hội truyền giáo, và dán giấy vào chỗ mà cái que cời đã làm hỏng. Cô bé mừng là mình có thể làm việc này bởi vì cô bé không biết việc phá cái hộp quyên góp tiền cho hội truyền giáo liệu có bị tội treo cổ không.