B
uổi sáng sau cái hôm trở thành chủ sở hữu của vô số của cải, ấy thế mà vẫn không thể mua được cái gì thực sự hữu ích hay đem lại chút vui vẻ nào, ngoại trừ hai đôi găng tay vải cốt tông, mười hai xu bánh bao, một chiếc ví giả da cá sấu cùng một chuyến đi bằng xe ngựa, lũ trẻ thức giấc mà không có chút hào hứng nào như ngày hôm trước, khi bọn chúng cảm thấy cực kì may mắn vì đã tìm ra Psammead, hay Tiên cát, để nhận được một điều ước mới mỗi ngày. Giờ chúng mới chỉ được cho hai điều ước là xinh đẹp và giàu có, mà chính xác thì cả hai đều chẳng khiến chúng hạnh phúc chút nào. Dù sao thì so với những chuyện kì lạ này, tuy có hơi khốn đốn đi chăng nữa thì cũng vẫn hơn là cả ngày chỉ có ăn và ngủ rồi chơi mấy trò chán ngắt, nhất là vào những thời điểm chẳng có mấy thứ ngon lành để ăn, ngoại trừ thịt cừu nguội và vài món khó nuốt.
Chẳng thể bàn bạc được gì trước bữa sáng bởi vì ai cũng ngủ quên, bọn trẻ phải cố lắm mới có thể tỉnh giấc và mặc quần áo chỉnh tề sao cho chỉ bị muộn bữa sáng mười phút mà thôi. Trong bữa ăn, bọn trẻ thi thoảng cũng đã cố gắng để cùng nhau thỏa thuận về điều ước với Psammead, nhưng đúng là bất khả thi khi vừa phải tập trung ăn sáng lại vừa phải trông chừng để cho Cừu ăn no. Sáng nay em ấy tỏ ra đặc biệt hiếu động. Em không chỉ uốn éo qua lưng cái ghế tựa cao, tì sát ngực vào lưng tựa để bị nghẹt thở rồi tím tái hết cả mặt lại. Em còn bỗng dưng vớ lấy cái thìa và đánh vào đầu Cyril một cú rõ đau, rồi khóc òa lên khi bị lấy mất thìa. Em nhúng nắm tay mũm mĩm của mình vào món bánh mì kẹp sữa rồi nằng nặc đòi ăn mứt, mà mứt thì chỉ được phép ăn trong giờ uống trà. Em hát nghêu ngao, trèo cả lên bàn rồi đứng đó ra lệnh phải “đi pộ”. Đoạn đối thoại gần như là thế này:
“Nghe này, về Tiên cát ấy... Cẩn thận! Em bé làm đổ hết sữa bây giờ.”
Sữa liền được chuyển sang một chỗ an toàn.
“Phải rồi... về Tiên cát này... Không, Cừu, không được hư với chị Báo như thế.”
Rồi Cyril cố gắng nói. “Mấy thứ chúng ta có được, chẳng có gì trở nên... Suýt nữa thì em bé vớ được mù tạt!”
“Anh tự hỏi liệu chúng ta có nên ước... Ôi kìa! Em như thế là hư đấy, bé con ạ!” Đôi chân hồng hào của em bé quơ nhanh một cái, bể cá chép vàng đặt giữa bàn liền nghiêng sang một bên, đổ lênh láng cả nước và cá lên người em bé và các anh chị của bé.
Tất cả đều gần như phát bực lên chẳng kém gì con cá vàng, chỉ có em Cừu là vẫn bình thản như không. Khi đống nước trên sàn đã được lau sạch, còn con cá vàng thoi thóp đã được thả lại vào trong nước, em bé được Martha đưa đi thay quần áo, những đứa còn lại cũng phải đi thay gần hết đồ. Những chiếc váy yếm và áo khoác ướt sũng nước bể cá vàng được mang đi phơi khô, rồi Jane còn phải vá lại cái váy đã bị rách ngày hôm trước nữa chứ, nếu không thì cô bé sẽ phải mặc chiếc váy lót đẹp nhất của mình suốt cả ngày. Chiếc váy màu trắng, mềm mại và nhiều bèo nhún, được trang trí với những dải dây cực kì, cực kì xinh xắn, gần như xinh bằng một bộ váy ngoài. Nhưng nó vẫn không phải váy ngoài, mà lời của Martha thì là luật. Chị ta sẽ không cho phép Jane mặc chiếc váy ngoài đẹp nhất, và cũng không chấp nhận ý kiến của Robert rằng Jane cứ mặc chiếc váy lót đẹp nhất của mình và coi như nó là váy ngoài.
“Làm thế là không đứng đắn.” Chị ta bảo. Một khi câu này đã được thốt ra thì dù ai nói gì cũng vô ích cả. Lớn lên rồi các bạn sẽ hiểu thôi.
Vậy là Jane đành phải vá lại cái váy. Nó bị rách ngày hôm qua, lúc cô bé chẳng may ngã lăn xuống ở đại lộ Rochester, đúng chỗ mà chiếc xe kéo chở nước vừa băng qua. Một hòn đá nhọn làm cô bé bị ngã trầy đầu gối, quần tất bị thủng một lỗ to tướng, còn cái váy thì rách toạc. Tất nhiên, những đứa còn lại đâu tệ đến mức lén bỏ đứa em của mình ở lại làm việc, thế nên chúng ngồi trên sân cỏ quanh chiếc đồng hồ mặt trời, để cho Jane dồn hết tâm trí vào việc khâu vá. Em Cừu vẫn đang được Martha đưa đi thay quần áo, nên bọn trẻ giờ đã có thời gian để trò chuyện.
Anthea và Robert rụt rè cố gắng che giấu suy nghĩ thầm kín nhất của mình rằng Psammead không đáng tin; nhưng Cyril nói:
“Muốn nói gì thì cứ nói toẹt ra đi, anh ghét cái kiểu úp úp mở mở, cái gì cũng bảo là “không biết” lắm, cái kiểu thì thà thì thầm như thế.”
Vậy là Robert đành phải lên tiếng: “Hẳn là úp mở - chị Anthea và em đâu có bô bô như hai người, thế nên bọn em mới thay đồ nhanh hơn và có thời gian để suy nghĩ, và nếu hai người hỏi em...”
“Bọn em có hỏi anh đâu.” Jane đáp, cắn đứt sợi chỉ khâu mặc dù cô bé đã bị nghiêm cấm làm điều đó.
“Anh không quan tâm ai hỏi ai không.” Robert đáp. “Nhưng chị Anthea và anh nghĩ Sammyadd là một kẻ nham hiểm độc ác. Nếu nó có thể ban điều ước cho chúng ta, thì chắc là nó cũng tự ban điều ước cho nó được, anh chắc chắn mỗi lần nó đều ước sao cho điều ước của chúng ta sẽ chẳng có ích lợi gì hết. Cứ mặc kệ con quái vật phiền phức ấy, chúng ta ra mỏ đá vôi chơi xây lô cốt đi.”
Cyril và Jane thì lạc quan hơn - tính cách của chúng vốn đã như vậy rồi.
“Anh không nghĩ Sammyadd cố tình làm thế đâu.” Cyril nói. “Hơn nữa, thật là ngu ngốc khi chúng ta ước có vô số tiền bạc. Năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling sẽ hợp lí hơn nhiều. Ước ao trở nên xinh đẹp như ban ngày cũng quả là ngốc xít. Anh không muốn cãi nhau đâu, cơ mà đúng thế đấy. Chúng ta cần phải cố gắng tìm ra một điều ước thực sự hữu ích rồi mới ước.”
Jane dừng tay và nói:
“Em cũng nghĩ thế, thật là quá ngu ngốc khi có một cơ hội như thế này mà lại phí phạm nó. Chỉ trừ trong mấy cuốn sách chứ em chưa bao giờ thấy có ai lại may mắn như vậy; chắc chắn phải có đến hàng đống thứ để chúng ta ước mà không hóa ra công cốc như hai điều chúng ta đã ước. Hãy suy nghĩ thật kĩ rồi ước cái gì thật hay để chúng ta có thể tận hưởng những ngày thực sự vui vẻ - khi còn có thể.”
Nói rồi Jane lại tiếp tục mê mải khâu vá, thời gian cứ thế trôi qua, mấy đứa kia lại nhao nhao tranh nhau nói một lúc. Ai có mặt ở đó cũng sẽ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, nhưng bọn trẻ này đã quá quen kiểu “ông nói gà bà nói vịt”, thích nói gì thì nói, vừa nói vừa dỏng tai lên để nghe ba đứa còn lại thao thao bất tuyệt.
Khi chiếc váy đã được vá xong, bọn trẻ bị Martha bắt đi rửa tay. Rõ thật vô lí, vì ngoài Jane ra có ai làm gì hay động vào cái gì đâu, không làm gì thì làm sao tay bẩn được cơ chứ. Sau một hồi bàn luận chán chê, lũ trẻ quyết định năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling là một điều ước đúng đắn.
Và thế là lũ trẻ may mắn sắp sửa có được mọi thứ trên thế gian chỉ với mấy điều ước, nhanh chóng xuất phát đến mỏ đá để ước với Psammead. Martha chặn chúng ở cổng và bắt chúng mang em bé đi theo.
“Không muốn đưa em bé đi cùng cơ đấy! Tại sao chứ, ai cũng muốn chơi với em bé, đáng yêu như con vịt con thế này! Họ sẽ muốn cậu bé bằng cả trái tim ấy chứ; mà cô chủ cậu chủ đã hứa với mẹ sẽ đưa cậu chủ ra ngoài mỗi ngày đẹp trời mà.” Martha nói.
“Tôi biết là thế.” Robert rầu rĩ đáp. “Nhưng ước gì em Cừu không quá nhỏ tuổi và bé tí như thế. Lúc đó thì đưa em ấy ra ngoài vui hơn nhiều.”
“Cậu chủ sẽ lớn dần lên theo thời gian thôi.” Martha đáp. “Còn về sự bé tí của cậu chủ thì tôi nghĩ là dù cậu ấy có bé hay to, cậu cũng chẳng muốn bế cậu ấy theo đâu. Mà cậu ấy đã lẫm chẫm biết đi rồi còn gì, thật là tạ ơn đôi chân bụ bẫm của cậu chủ, thật là cưng mà! Em bé có thể tận hưởng bầu không khí mới mẻ nữa, phải không nào bé con?” Nói rồi Martha thơm em Cừu, đặt em vào vòng tay Anthea rồi trở lại với chiếc máy khâu để hoàn thành cái váy không tay mới. Chị ta rất có tài trong việc sử dụng cái máy.
Em Cừu bật cười thích thú và bập bẹ “Đi cùng chị Báo” rồi leo lên lưng Robert la hét đầy phấn khích, và cố gắng đút đá cho Jane ăn. Tất cả những hành động đó khiến cho em trở nên thật đáng yêu, và chẳng ai còn thấy khó chịu vì phải mang em theo cùng nữa.
Jane thậm chí còn cao hứng đến mức bảo nên dành cả một tuần để ước những điều có thể đảm bảo cho tương lai em bé, bằng cách ước những món quà như các bà tiên tốt bụng trao cho các hoàng tử sơ sinh trong những câu chuyện cổ tích. Nhưng Anthea nhắc nhở cô bé rằng điều ước của Tiên cát chỉ có hiệu lực đến khi mặt trời lặn mà thôi, thế nên chúng không thể nào giữ được chút lợi ích gì cho em bé trong những năm sau cả; thế là Jane quả quyết rằng tốt hơn là ước có năm mươi bảng tính bằng đồng hai shilling, lấy tiền rồi mua cho em Cừu một chú ngựa gỗ bập bênh giá ba bảng mười lăm xu, giống như những con ngựa trong dãy cửa hàng Quân đội và Thủy quân.
Cuối cùng, lũ trẻ quyết định là khi đã ước và có được tiền thì sẽ thuê ông Crispin chở chúng đến Rochester lần nữa, đưa cả Martha đi cùng, nếu buộc phải đưa chị ta theo. Rồi chúng sẽ lên một danh sách những thứ thực sự mong muốn trước khi bắt đầu.
Tràn đầy hi vọng và hừng hực quyết tâm, chúng đi vòng quanh con đường dành cho xe cút kít dẫn vào mỏ đá. Vừa đi vừa mải mê mơ mộng, lũ trẻ thấy mình như những đứa trẻ trong các câu chuyện cổ tích. Nhưng vừa bước qua mỏm đá của khu mỏ, đôi má hây đỏ của chúng tái mét. Cả bọn khựng lại, nhìn nhau với vẻ ngơ ngác và bối rối. Giờ chúng mới nhớ ra là hôm qua, khi xin Psammead ban cho sự giàu có và nó đang chuẩn bị lấp đầy khu quặng với những đồng vàng lấp lánh - hàng triệu đồng tiền vàng - thì nó bảo lũ trẻ chạy ra khỏi khu quặng vì lo sợ chúng sẽ bị chôn sống dưới đống kho báu đồ sộ đó. Vậy là bọn trẻ nháo nhào bỏ chạy. Thế nên chúng chẳng có thời gian xếp vòng đá để đánh dấu nơi Psammead đã biến mất như lần trước. Chính vì thế mặt bọn trẻ đứa nào đứa nấy mới ngơ ngác như vậy.
“Không sao đâu.” Jane nói đầy hi vọng. “Chúng ta sẽ sớm tìm thấy ông ấy thôi.”
Nói thì dễ nhưng tìm mới khó. Bọn trẻ tìm mãi, mặc dù chúng đã tìm thấy mấy cái xẻng nhưng vẫn chẳng thấy Tiên cát đâu.
Cuối cùng, chúng phải ngồi xuống nghỉ ngơi - không phải vì mệt mỏi và nhụt chí, mà là bởi em Cừu muốn được thả xuống. Không thể tập trung tìm thứ gì khi đem theo một em bé nghịch ngợm được.
Em Cừu, như Martha đã nói, đang cảm nhận bầu không khí miền quê trong lành và tăng động như một con bọ chét cát châu Âu vậy. Những đứa lớn thì hăm hở tiếp tục nói về những điều ước mới khi (hoặc nếu) chúng tìm được Psammead lần nữa. Nhưng Cừu chỉ muốn chơi cho thỏa thích.
Em bốc một nắm cát ném vào mặt Anthea, rồi đột nhiên tự dúi đầu xuống cát và vung vẩy hai chân lên không. Tất nhiên là em bị dính cát vào mắt, cũng như Anthea, em thét ầm lên.
Robert chu đáo luôn mang theo một chiếc bình màu nâu đựng bia gừng bên mình, đề phòng khi bị khát. Cái bình vội vàng được bật nắp - nó là thứ chất lỏng duy nhất bọn trẻ có lúc này, và thực sự cần thiết để rửa cát khỏi mắt Cừu. Tất nhiên là gừng gây xót kinh khủng, em bé gào to hết cỡ rồi giãy giụa chân tay. Trong lúc khó chịu quờ quạng và quẫy đạp, bé con đạp văng cái bình và dòng bia gừng ngon tuyệt tan biến vào lớp cát mãi mãi.
Lúc ấy Robert, bình thường vốn luôn là một người anh hiền lành, tự dưng buột miệng:
“Ai cũng muốn chơi với em bé, hẳn rồi! Chỉ có họ là không thôi; Martha cũng đâu có thực sự muốn em bé, không thì chị ta cứ trông coi em bé luôn đi. Thằng nhóc đúng là một cục nợ, đúng là vậy đấy. Thật tệ quá. Em chỉ ước tất cả mọi người đều muốn chơi với em bé bằng tất cả tấm lòng; khi đó may ra chúng ta mới có tí bình yên.”
Lúc này em Cừu đã nín rồi, bởi Jane sực nhớ ra có một cách an toàn để lấy dị vật ra khỏi mắt đứa trẻ con, đó là dùng cái lưỡi mềm của mình. Điều này sẽ khá dễ nếu đủ dịu dàng với đứa trẻ.
Tất cả trở nên im lặng. Robert chẳng mấy tự hào vì mình đã lỡ lời, đám trẻ còn lại cũng không hùa theo cậu. Khi ai đó lỡ miệng nói gì đó, tất cả mọi người chỉ im lặng và chờ đợi người đó xin lỗi.
Sự im lặng bị phá vỡ bởi một tiếng thở dài - tiếng thở hắt ra. Lũ trẻ đồng loạt quay đầu lại như bị giật dây cùng một lúc.
Rồi tất cả thấy Tiên cát đang ngồi ngay gần đó, với nụ cười rộng ngoác trên gương mặt lông lá.
“Chào buổi sáng.” Nó nói. “Ta thực hiện điều ước đó khá dễ dàng đấy! Giờ tất cả mọi người đều muốn chơi với thằng bé rồi.”
“Chẳng thành vấn đề.” Robert sưng sỉa đáp, bởi cậu biết mình đã cư xử khá tồi tệ. “Ai muốn thằng bé không quan trọng - ở đây thì chẳng ai muốn nó hết.”
“Vong ơn bội nghĩa...” Psammead nói. “Là một thói xấu đáng sợ.”
“Chúng cháu không có ý vô ơn đâu ạ.” Jane vội vàng đáp. “Nhưng chúng cháu không thực sự muốn điều ước đó. Robert chỉ nói vậy thôi. Ông không thể thu hồi nó và cho chúng cháu điều ước khác sao?”
“Không - ta không thể.” Tiên cát đáp cụt lủn. “Cắt xén và thay đổi - cái đó không phải việc của ta. Các cô các cậu nên cẩn thận với những gì mình ước chứ. Từng có một cậu bé ước có một con Plesiosaurus thay vì Ichthyosaurus, bởi nó quá lười để nhớ những cái tên đơn giản hàng ngày, cha của nó đã tức điên lên với nó, bắt nó đi ngủ sớm trước giờ uống trà và không cho nó ra ngoài đi chơi thuyền cùng với những đứa trẻ khác mà ngày hôm sau là diễn ra buổi dã ngoại của trường rồi. Nó tới và quăng mình xuống gần ta vào buổi sáng hôm dã ngoại ấy, rồi giãy giụa chân cẳng rồi ước gì được chết quách đi. Tất nhiên là sau đó nó đã được toại nguyện.”
“Thật kinh khủng!” Bọn trẻ đồng thanh nói.
“Tất nhiên là chỉ tới khi mặt trời lặn thôi.” Psammead đáp. “Dù vậy thì vẫn quá đủ với cha mẹ thằng bé. Ta đảm bảo với mấy đứa - nó đã bị phạt khi tỉnh dậy. Nó không bị biến thành đá - ta quên mất vì sao rồi - nhưng hẳn phải có lí do nào đó. Họ không biết chết tức là chỉ ngủ mà thôi, rồi người ta sẽ tỉnh dậy không ở chỗ này thì ở chỗ kia, hoặc có thể thức dậy ở nơi nào đó tốt hơn. Nó đã bị phạt khi khiến cho cha mẹ nó phát hoảng lên như thế. Nó bị cấm nếm thịt Megatherium trong một tháng. Nó chỉ được ăn hàu và dừa cạn, cùng mấy thứ tầm thường như thế.”
Lũ trẻ đều mất tinh thần bởi câu chuyện kinh khủng này. Chúng hoảng sợ nhìn Psammead. Đột nhiên em Cừu nhận ra thứ gì đó có lông mềm màu nâu ở gần mình.
“Mè1, mè, mè con.” Nó nói và chộp lấy.
1. Ý em nói là “mèo”.
“Không phải mèo con đâu em.” Anthea chỉ kịp nói khi Tiên cát giật mình nhảy lùi về phía sau.
“Ôi, sợi ria bên trái của ta!” Nó nói. “Đừng để thằng bé chạm vào ta. Nó ướt lắm.”
Lông trên người nó dựng đứng cả lên vì sợ - bởi cái áo ngoài của Cừu bị ướt sũng bia gừng.
Psammead bắt đầu đào cát bằng đôi tay và chân của mình, rồi biến mất trong tích tắc.
Bọn trẻ xếp đá thành một vòng tròn để đánh dấu.
“Chúng ta nên về nhà thôi.” Robert nói. “Em nên nói xin lỗi, nhưng dù sao thì điều ước nếu vô dụng thì cũng vô hại, mà giờ chúng ta đã biết cần phải tìm Tiên cát ở đâu vào ngày mai rồi.”
Những đứa còn lại tỏ ra cao thượng, không ai trách mắng Robert cả. Cyril bế em Cừu giờ đã bình tĩnh trở lại, rồi chúng ra về trên con đường an toàn dành cho xe cút kít.
Con đường gần như dẫn thẳng ra đường chính.
Vừa vào đường chính, cả bọn phải dừng lại để chuyển em Cừu từ trên lưng Cyril sang lưng Robert. Bỗng có một chiếc xe ngựa không mui sang trọng tiến lại gần, với người đánh xe và một người hầu ngồi đằng trước, một quý bà ngồi phía sau. Bà ta có vẻ ngoài thật lộng lẫy trong chiếc váy viền những dải ren trắng cùng nơ đỏ và chiếc ô che nắng xen kẽ đỏ trắng. Bà ta bế trong lòng một chú chó xù trắng đeo nơ đỏ trên cổ. Bà nhìn xuống lũ trẻ, đặc biệt chú ý tới em bé và mỉm cười với em. Bọn trẻ vốn đã quen với điều này, bởi em Cừu, như mọi người hầu đã từng nói, là “một đứa trẻ đầy thu hút”. Thế nên chúng lịch sự vẫy tay chào quý bà và nghĩ chiếc xe cứ thế lăn bánh đi tiếp. Nhưng không, quý bà ra hiệu dừng xe, rồi bà vẫy Cyril tiến lại gần cỗ xe và nói:
“Đứa bé đúng là tuyệt hảo làm sao! Ôi, ta sẽ rất vui lòng được nhận nuôi nó! Các cháu nghĩ mẹ thằng bé liệu có thấy phiền không?”
“Mẹ sẽ rất phiền là khác.” Anthea đáp ngắn gọn.
“Ồ, nhưng ta sẽ nuôi nấng nó trong đủ đầy, các cháu biết mà. Ta là phu nhân Chittenden. Các cháu hẳn từng thấy hình của ta trên các tờ báo ảnh rồi. Mọi người gọi ta là người đẹp, các cháu biết đấy, nhưng tất nhiên đó chỉ là những lời sáo rỗng ấy mà. Dù sao thì...”
Bà ta mở cửa cỗ xe và nhảy ra ngoài. Chân bà ta đi đôi giày cao gót màu đỏ tuyệt đẹp với những cái khóa bạc. “Cho ta bế đứa bé một phút thôi.” Bà nói. Rồi bà ta bế lấy đứa bé một cách kì cục, như thể bà ta chưa bế em bé bao giờ vậy.
Rồi đột nhiên bà ta nhảy lên xe ngựa với em Cừu vẫn trên tay, đóng sầm cửa và hô: “Chạy xe!”
Em Cừu khóc ré lên, con chó trắng nhỏ sủa nhặng xị, còn người đánh xe thì ngần ngừ.
“Chạy đi, ta ra lệnh cho ông!” Quý bà kêu lên; người đánh xe đành miễn cưỡng làm theo vì không muốn bị mất việc. Ông ta chỉ có công việc này để nuôi sống cả gia đình.
Bốn đứa trẻ quay ra nhìn nhau, không ai bảo ai mà cùng co giò đuổi theo chiếc xe. Con đường mịt mù tung đầy bụi dưới vó ngựa và những đôi chân gấp gáp cố để đuổi kịp chiếc xe.
Em Cừu khóc càng lúc càng to, nhưng rồi tiếng gào khóc dần chuyển thành tiếng nức thở thút thít, thỉnh thoảng nấc cụt rồi im hẳn. Bọn trẻ biết là em Cừu khóc mệt quá nên đã thiếp đi mất rồi.
Cỗ xe ngựa vẫn cứ đi tiếp, những đôi chân nhuốm đầy bụi cát đã bắt đầu chậm lại vì mỏi mệt thì cỗ xe dừng lại trước một căn nhà nghỉ trên khu đất lớn. Mấy đứa trẻ vội ngồi sụp xuống nấp sau cỗ xe khi quý bà bước ra. Bà nhìn em bé đang say ngủ trên cỗ xe và ngần ngừ.
“Ôi bé cưng ơi, ta sẽ không làm phiền thằng bé.” Bà ta nói và đi vào căn nhà để phàn nàn với một người phụ nữ về việc một ổ trứng gà có vẻ bị hỏng rồi.
Người đánh xe cùng người giúp việc nhoài người ra để nhìn em Cừu đang say ngủ.
“Đứa bé xinh quá - ước gì đứa bé là của tôi.” Người đánh xe nói.
“Thằng bé sẽ không thích anh lắm đâu.” Người giúp việc cáu kỉnh đáp. “Thằng bé quá xinh đẹp để thích nổi anh đấy.”
Người đánh xe giả vờ như không nghe thấy. Ông ta nói tiếp: “Tôi thực lòng ngạc nhiên với bà ấy thật đấy! Bà ấy vốn ghét trẻ con lắm mà. Còn chẳng thèm sinh con nữa kia. Tính khí thì khó lường, nào có chịu kết hôn với ai đâu.”
Lũ trẻ vẫn đang ngồi lom khom trên lớp cát trắng phía sau cỗ xe, chúng bắt đầu trao đổi những ánh nhìn thấp thỏm.
“Tôi bảo này.” Người đánh xe nói với vẻ chắc chắn. “Tôi sẽ giấu anh bạn bé nhỏ này sau bụi cây và bảo với bà ấy rằng những người em trai của bà ấy đã bắt thằng bé đi mất rồi! Rồi tôi sẽ quay trở lại đó bế nó về sau.”
“Ồ, không đâu anh bạn.” Người giúp việc đáp. “Tôi chưa từng bị ai thu hút như đứa bé này cả. Nếu có ai nên có được thằng bé, thì người đó phải là tôi!”
“Không đời nào!” Người đánh xe đáp trả. “Anh đâu muốn có con, kể cả nếu có đi chăng nữa thì đứa nào với anh mà chẳng giống nhau hết. Còn tôi lại là người đã kết hôn và cũng có chút hiểu biết rồi. Tôi có thể nhận ra một đứa bé tuyệt hảo ngay lần đầu thấy nó. Tôi sẽ mang nó về ngay khi có thể.”
“Tôi thì lại cho rằng...” Người giúp việc khinh khỉnh đáp. “Anh có quá đủ con rồi. Rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra với Alfred, Albert, Louise, Victor Stanley, Helena Beatrice và còn...”
Người đánh xe thọi một cú vào cằm người giúp việc và bị đáp trả ngay một cú vào hông. Hai người bắt đầu lao vào nhau ẩu đả, vật lộn, ném đá tứ tung, con chó nhỏ nhảy lên bục trước của cỗ xe và sủa nhặng xị. Cyril lom khom trên nền cát, chậm rãi tiếp cận bên thành xe ở chỗ cách cuộc chiến xa nhất. Cậu tháo chốt cửa trong lúc hai người kia vẫn đang mải đánh nhau và không chú ý, bế em Cừu lên và lom khom ẵm đứa trẻ đang ngủ đi dọc con đường vào một khu rừng. Mấy đứa trẻ khác bám theo sau cậu, và rồi giữa hàng cây phỉ dày đặc, những cây sồi non cùng những quả hạt dẻ ngọt bùi, bọn trẻ dừng lại nấp sau hàng cây dương xỉ diều hâu nặng mùi cho đến khi nghe thấy giọng nói đầy giận dữ của quý bà “đỏ pha trắng” khiến cả hai người đàn ông im bặt, ngừng cãi cọ rồi rời nhau ra để đi lùng sục. Sau một hồi tìm kiếm mãi không thấy, cuối cùng cỗ xe ngựa cũng chịu rời đi.
“Ơn trời!” Cyril nói, cậu thở phào nhẹ nhõm khi tiếng bánh xe đã hoàn toàn biến mất. “Tất cả mọi người đều muốn có em bé - không thể nhầm lẫn được! Sammyadd đã lại cho chúng ta “toại nguyện”! Đúng là gã độc ác nham hiểm! Chúng ta phải mang được thằng bé về nhà an toàn bằng mọi giá.”
Bọn trẻ ngó ra ngoài, thấy hai con đường, bèn thu hết can đảm chọn con đường ngắn hơn. Anthea được giao nhiệm vụ ôm em Cừu vẫn đang ngủ say.
Hiểm nguy bám theo từng bước chân lũ trẻ. Có một thằng bé vác củi đi qua bỗng dừng lại, quăng vội bó củi đi rồi đòi được nhìn, rồi lại xin bế em bé; nhưng Anthea không bị mắc lừa lần thứ hai. Bọn trẻ đi tiếp, nhưng thằng bé kia vẫn cứ nhằng nhẵng bám theo, Cyril và Robert không làm cách nào đuổi cậu ta đi được cho đến khi chúng phải dọa đấm cậu bé đó một trận. Sau đó, có một cô bé mặc chiếc váy yếm kẻ ca rô xanh trắng cứ bám riết lấy chúng phải đến hơn một cây số, khóc lóc đòi “đứa bé quý hóa”, lũ trẻ phải dọa dẫm sẽ trói nó lên cây, và theo như lời Cyril là “để bọn gấu đến ăn thịt ngay khi trời tối”, khiến nó òa khóc.
Còn với các anh chị của đứa trẻ đang được tất cả mọi người săn đón, việc trốn sau bụi cây bất cứ khi nào thấy bóng người tiến lại gần rõ ràng là một việc làm khôn ngoan, thế nên chúng mới có thể giữ em Cừu khỏi thứ tình cảm phiền phức của một người giao sữa, một người đập đá, và một người đánh xe bò chở đầy thùng dầu hỏa. Chúng gần về tới nhà thì điều tồi tệ nhất xảy đến. Ngay khi quành qua ngã rẽ trên đường, chúng bất ngờ bắt gặp hai chiếc xe lớn, một căn lều cùng một toán người gipsy cắm trại bên lề đường. Bao quanh hai cái xe là những chiếc ghế nan gỗ và giường nôi, giá hoa đứng và cả chổi lông nữa. Một nhóm trẻ con ăn mặc rách rưới đang cần mẫn nướng bánh bên đường, hai người đàn ông hút thuốc nằm dài trên cỏ, và ba người phụ nữ đang giặt đồ trong can nước màu đỏ cũ kĩ đã bị vỡ mất nửa trên.
Chẳng mấy chốc, tất cả đám người gipsy, từ đàn ông, phụ nữ đến trẻ nhỏ, đều vây quanh Anthea cùng em bé.
“Hãy để ta ôm thằng bé, hỡi quý cô trẻ tuổi.” Một người phụ nữ nói, bà ta có nước da màu gụ cùng mái tóc màu xám bụi. “Ta sẽ không làm tổn hại một sợi tóc nào của thằng bé, quả đúng là một tuyệt tác nhỏ đáng yêu!”
“Cháu e là không thể ạ.” Anthea đáp.
“Hãy để ta ôm thằng bé.” Một người phụ nữ khác lên tiếng, da mặt bà ta cũng mang màu gụ, mái tóc bà ta đen nhánh với những lọn xoăn tít. “Ta có những mười chín đứa con cơ, khoảng tầm đấy.”
“Không ạ.” Anthea can đảm đáp, nhưng tim cô bé đang đập mạnh như muốn nghẹt thở.
Rồi một người đàn ông sấn sổ lao lên. “Không thể nào sai được!” Ông ta kêu lên. “Đứa con mất tích đã lâu của ta! Đứa trẻ có một cái bớt hình quả dâu tây bên tai trái phải không? Không có sao? Thế thì đúng là con ta rồi, con ta không có cái bớt nào cả. Nó bị người ta bắt mất từ khi mới lọt lòng. Trả thằng bé đây, chúng ta sẽ không truy cứu các cô cậu tội bắt cóc.”
Rồi ông ta giằng lấy em Cừu từ tay Anthea, cô bé đỏ bừng mặt và òa khóc trong bức xúc.
Mấy đứa trẻ còn lại đứng đó sững sờ; đây có lẽ là điều tồi tệ nhất từng xảy đến với chúng. Kể cả bị đưa lên đồn cảnh sát ở Rochester cũng chưa là gì so với việc này. Cyril mặt trắng bệch, đôi tay cậu run lên, nhưng rồi cậu ra hiệu cho mấy đứa em giữ im lặng. Cậu cố gắng suy nghĩ một lúc rồi lên tiếng:
“Chúng cháu không hề muốn giữ nó nếu nó thật sự là con của chú. Nhưng chú thấy đấy, thằng bé quen hơi chúng cháu rồi. Chú sẽ có nó nếu chú muốn nó.”
“Không, không được!” Anthea kêu lên, và Cyril lườm cô bé.
“Tất nhiên là chúng ta muốn có thằng bé rồi.” Những người phụ nữ đáp khi cố gắng giành lại em bé từ tay người đàn ông kia. Em Cừu bắt đầu rú lên.
“Ôi, thằng bé bị đau rồi!” Anthea ré lên; còn Cyril thấp giọng nghiêm khắc nạt cô bé “Yên nào!”
“Em phải tin anh.” Cậu thì thầm. “Mọi người nghe cháu này.” Cậu nói. “Không quen biết thì em ấy cáu kỉnh và quấy lắm. Hãy để chúng cháu ở đây đến khi em ấy quen với mọi người hơn, rồi khi đến giờ đi ngủ, cháu xin lấy danh dự ra thề rằng chúng cháu sẽ rời đi và để mọi người giữ em ấy nếu mọi người muốn. Rồi khi chúng cháu đã đi thì các cô chú tự quyết ai mang em ấy về nuôi nhé, bởi ai cũng muốn có em ấy hết.”
“Nghe hợp lí đấy.” Người đàn ông đang bế em Cừu vừa nói vừa cố gắng nới lỏng chiếc khăn quàng cổ màu đỏ mà em đã túm lấy khiến nó thít chặt quanh cái cổ màu gụ của ông ta đến nỗi ông ta khó mà thở được. Những người gipsy còn lại thì thầm với nhau, Cyril cũng nhân cơ hội này thì thầm với mấy đứa em: “Chúng ta sẽ thoát khi mặt trời lặn!”
Mấy đứa em đều hết sức kinh ngạc và thán phục sự sáng dạ của anh trai khi nhớ tới chi tiết này.
“Ồ, hãy để chúng cháu bế em bé cho ạ!” Jane nói. “Các cô chú biết mà, chúng cháu sẽ chỉ ngồi đây và chăm em bé hộ các cô chú cho đến khi nào em ấy quen với các cô chú hơn thôi.”
“Thế còn bữa tối thì sao?” Robert đột ngột hỏi. Lũ trẻ quay sang nhìn cậu bé với vẻ không vừa lòng.
“Hẳn là vẫn còn nghĩ được đến bữa tối thịnh soạn khi mà em tr... ý chị là em bé...” Jane vội hạ giọng. Robert lén nháy mắt với cô bé và nói tiếp:
“Các cô chú sẽ không phiền nếu cháu chạy về nhà để lấy bữa tối chứ ạ?” Cậu bé nói với những người gipsy. “Cháu có thể mang giỏ đựng đồ ăn tối đến đây ạ.”
Mấy đứa trẻ chợt cảm thấy mình thật cao thượng khi không màng gì đến ăn uống và tỏ vẻ khinh bỉ cậu bé. Chúng không nhận ra ý định sâu xa của cậu. Nhưng những người gipsy thì nhận ra ngay trong chớp mắt. “À phải rồi!” Họ đáp. “Để cậu mang cảnh sát tới đây bằng cách dối trá rằng thằng bé là của cô cậu chứ không phải của bọn ta chứ gì! Tưởng bọn ta ngu ngốc đấy hả?” Họ đáp.
“Nếu thấy đói thì các cháu có thể ăn cùng chúng ta.” Một người phụ nữ với mái tóc sáng màu tử tế nói. “Đây, Levi, đứa trẻ phước lành kia gào khóc to quá. Trả nó lại cho cô bé này đi, xem mấy đứa có làm cho thằng bé quen với chúng ta hơn được không.”
Vậy là em Cừu được trả lại, nhưng những người gipsy cứ túm tụm vây quanh đến nỗi em vẫn không thể nào nín được. Người đàn ông quàng chiếc khăn màu đỏ nói:
“Này, Pharaoh, nhóm lửa đi; các cô gái đi trông nồi đi. Để cho đứa bé chút không gian.” Vậy là những người gipsy đành miễn cưỡng quay trở lại với công việc, còn lũ trẻ cùng em Cừu ngồi lại trên thảm cỏ.
“Em bé sẽ bình an vô sự sau khi mặt trời lặn.” Jane thì thào. “Nhưng, ôi, thật tệ quá! Nếu khi tỉnh táo trở lại họ nổi điên lên thì sao! Họ có thể sẽ đánh cho chúng ta một trận hoặc trói chúng ta lên cây, hoặc tra tấn kiểu gì đó.”
“Không, họ không làm thế đâu.” Anthea vừa đáp vừa quay sang dỗ em. “Ôi, em Cừu của chị, đừng khóc nữa mà, tất cả đều ổn rồi, chị Báo ở đây với em rồi, vịt con ạ... Họ không phải người xấu, nếu không họ đã chẳng chia cho chúng ta đồ ăn tối.”
“Bữa tối ư?” Robert đáp. “Em sẽ không đụng đến những thứ đồ ăn khủng khiếp của họ đâu. Em sẽ nghẹn mất!”
Những đứa trẻ còn lại cũng đồng tình. Nhưng khi bữa tối đã chuẩn bị sẵn sàng thì cơn đói cồn cào khiến chúng sẵn lòng ăn những gì được bày ra. Bữa tối có thịt thỏ luộc, hành tây và thịt loài chim nào đó trông giống như thịt gà nhưng chân có nhiều gân hơn và mùi nặng hơn. Em Cừu ăn món bánh mì ngâm nước nóng và có đường nâu rải lên trên. Em tỏ ra khoái khẩu lắm, nên ngồi yên trong lòng Anthea để cho hai người phụ nữ gipsy bón. Cả buổi chiều dài dằng dặc nóng nực hôm ấy, Robert, Cyril, Anthea và Jane cứ phải giữ cho em Cừu thật vui vẻ và phấn khởi, trong khi những người gipsy thì đã tỏ vẻ sốt ruột lắm rồi. Cho đến khi những cái bóng dài ra và tối lại dọc bãi cỏ, thằng bé đã thực sự “làm quen” với người phụ nữ có mái tóc sáng màu, thậm chí còn vừa lòng vẫy gửi một cái hôn tay tới lũ trẻ, đứng lên và cúi chào với bàn tay đặt trên ngực - “y chang một quý ông” - với hai người đàn ông. Cả nhóm người gipsy đều rất vui mừng vì thằng bé, anh chị nó cũng thích thú thể hiện thành quả của thằng bé cho những vị khán giả đang vô cùng hứng thú và nhiệt tình. Nhưng chúng mong đợi mặt trời lặn nhiều hơn.
“Chúng ta đang dần quen với việc chờ đợi mặt trời lặn đấy.” Cyril thì thào. “Anh ước gì chúng ta có thể ước những điều thực sự có lí, thực sự hữu ích, để chúng ta sẽ không phải tiếc nuối mỗi lần mặt trời lặn.”
Những cái bóng cứ càng lúc càng dài ra, rồi cuối cùng chẳng còn cái bóng nào nữa, chỉ còn một bóng sáng lờ mờ trùm lên cảnh vật, bởi dù mặt trời đã khuất tầm mắt - nấp sau quả đồi - thì vẫn chưa lặn hẳn. Nhưng những người gipsy đang dần mất kiên nhẫn.
“Giờ thì mấy nhóc.” Người đàn ông có chiếc khăn màu đỏ nói. “Đến lúc các cô cậu trở về nhà rồi đấy! Thằng bé rất ổn và thân thiện với chúng ta rồi - cứ giao nó lại đây và giữ lời hứa đi nào.”
Phụ nữ cùng trẻ em vây quanh em Cừu với bàn tay đầy thân thiện vươn ra, những khuôn mặt rạng rỡ, những nụ cười trìu mến, nhưng tất cả đều không thể hấp dẫn em Cừu trung thành. Em quắp lấy Jane bằng cả hai tay hai chân và bật ra tiếng gầm gừ buồn nhất trong cả ngày.
“Thế là không ngoan đâu.” Người phụ nữ nói. “Đưa thằng bé lại đây, thưa cô. Chúng tôi sẽ làm nó nín khóc sớm thôi.”
Lúc này mặt trời vẫn chưa chịu lặn.
“Kể cho bà ấy nghe em làm cách nào đưa nó đi ngủ đi.” Cyril thì thào. “Nói bất cứ thứ gì để câu giờ - và chuẩn bị tinh thần dừng lại khi mặt trời già ngu ngốc cuối cùng cũng chịu lặn.”
“Được, cháu sẽ giao em ấy lại trong vòng một phút.” Anthea mở lời và nói rất nhanh. “Nhưng em ấy cần được tắm nước ấm vào mỗi tối và tắm nước mát vào mỗi sáng, thằng bé cần đi tắm cùng một con thỏ sứ, và Samuel bé nhỏ sẽ cầu nguyện trong bồn trên một cái đệm đỏ trong giờ tắm nước mát; nếu các cô chú để xà phòng dính vào mắt em Cừu...”
“Nắt1 Cừu.” Thằng bé lặp lại - nó đã thôi gào thét để lắng nghe.
1. Cừu nói ngọng, cậu bé muốn nói là “mắt”.
Người phụ nữ bật cười. “Cứ làm như ta chưa từng tắm cho trẻ con bao giờ vậy!” Bà ta đáp. “Đến đây - trao thằng bé cho chúng ta nào. Đến với Melia nào, bé con.”
“Đi đi, ấu í2!” Em Cừu ngay lập tức trả lời.
2. Cừu muốn nói là “xấu xí”.
“Vâng, nhưng...” Anthea nói tiếp. “Về những bữa ăn của thằng bé; cô thực sự phải để cháu nói cái này, thằng bé ăn một quả táo cùng một quả chuối vào mỗi sáng, cùng với bánh mì kèm sữa cho bữa sáng, thỉnh thoảng là một quả trứng ăn kèm với tách trà, và...”
“Ta đã nuôi lớn mười đứa trẻ.” Người phụ nữ với những lọn tóc xoăn đen nói. “Những người khác ở đây cũng đã từng nuôi nấng trẻ con rồi. Đến đây nào, cô bé, mang thằng bé lại đây - ta không chờ thêm được nữa đâu. Ta phải ôm nó.”
“Chúng ta còn chưa quyết ai sẽ có được thằng bé mà, Esther.” Một người đàn ông nói.
“Người đó sẽ không phải cô đâu, Esther ạ, cô đã có bảy đứa trẻ để chăm rồi.”
“Tôi không chắc về điều đó đâu nhé.” Chồng Esther đáp.
“Tôi không được quyền lên tiếng ở đây hay sao?” Chồng Melia đáp.
Zillah, một cô gái, nói: “Tôi thì sao? Tôi còn độc thân - chẳng có ai để chăm sóc - tôi cần phải có thằng bé.”
“Cô im miệng đi!”
“Anh im miệng đi!”
“Đừng có tỏ vẻ xấc xược với tôi!”
Tất cả mọi người đều trở nên cực kì giận dữ. Những gương mặt gipsy sạm màu trông cau có và khao khát. Đột ngột, một sự thay đổi càn quét qua họ, như thể một miếng bọt biển vô hình đã xóa sạch sự bực tức cùng khao khát của họ, chỉ để lại một khoảng trống rỗng.
Bọn trẻ nhận ra mặt trời đã lặn hẳn rồi. Nhưng chúng quá sợ hãi để cử động. Còn những người gipsy đang cảm thấy thật bối rối, bởi miếng bọt biển vô hình đã xóa sạch mọi cảm xúc trong lòng họ trong vài giờ qua, khiến họ chẳng thể nói nên lời.
Bọn trẻ còn không dám thở mạnh. Đột nhiên, Anthea cả gan bế em Cừu ra trước người đàn ông với chiếc khăn màu đỏ.
“Em bé đây ạ!” Anthea nói.
Người đàn ông lùi lại. “Ta không muốn cản đường cháu nữa, cô bé ạ.” Giọng ông khàn khàn.
“Ai thích thì có thể chăm thằng bé cùng với tôi.” Một người đàn ông khác lên tiếng.
“Dù sao thì tôi cũng đã có đủ trẻ con rồi.” Esther đáp.
“Mà đây đúng là một đứa bé xinh xắn đấy nhỉ.” Amelia nói. Bà là người duy nhất bây giờ vẫn còn trìu mến nhìn em Cừu đang thút thít.
Zillah nói. “Nếu không kịp suy nghĩ kĩ thì ta đã phải hối hận rồi. Ta không muốn có thằng bé đâu.”
“Thế chúng cháu đưa nó đi nhé?” Anthea hỏi.
“Chà, cứ làm vậy đi.” Pharaoh chân thành đáp. “Chúng ta sẽ không đòi hỏi gì nữa đâu!”
Rồi những người gipsy vội vã quay trở lại lều, bận rộn chuẩn bị cho buổi tối. Tất cả trừ Amelia. Bà đi cùng lũ trẻ tới tận chỗ quành của con đường. Bà nói:
“Cô bé, cho ta hôn thằng bé một cái - ta không hiểu thứ gì đã làm cho chúng ta cư xử ngu ngốc như thế. Người gipsy không bắt cóc trẻ con đâu, mặc dù người ta có thể dọa cháu như vậy khi cháu cư xử tồi tệ. Chúng ta đã có đủ những đứa trẻ để chăm sóc rồi, hầu như ai cũng thế. Nhưng ta không còn đứa con nào nữa.”
Bà cúi người về phía Cừu; thằng bé nhìn bà và bất ngờ đặt một bàn tay lấm lem vuốt ve mặt bà.
“Thương, thương!” Cừu nói. Rồi nó để người phụ nữ hôn mình, hơn thế, em đáp lại một cái hôn lên bên má màu nâu của bà - đúng là một nụ hôn rất đẹp, như mọi nụ hôn của thằng bé, chứ không bị ướt nước dãi như vài đứa trẻ khác. Người phụ nữ gipsy di chuyển đầu ngón tay mình trên trán em, như thể bà đang viết gì lên đó, rồi làm tương tự với ngực, bàn tay và bàn chân thằng bé. Bà nói:
“Cầu cho bé con trở nên dũng cảm, kiên cường trong suy nghĩ, giàu yêu thương trong tâm hồn, sức mạnh để làm việc trên đôi tay, sức khỏe trên đôi chân để đi đây đi đó và luôn luôn được an toàn để trở về nhà của mình.” Rồi bà nói gì đó bằng thứ tiếng lạ lùng mà chẳng ai có thể hiểu được, và nói thêm:
“Chà, ta nên nói “tạm biệt” thôi - ta rất mừng được gặp các cháu.” Rồi bà quay người và trở về nhà - căn lều bên lề đường xanh rì cỏ.
Lũ trẻ nhìn theo bà cho đến khi bà đi khuất. Robert nói: “Bà ấy thật ngốc nghếch! Kể cả mặt trời lặn cũng chẳng khiến bà ấy trở lại bình thường. Bà ấy nói cái gì thế!”
“Chà.” Cyril đáp. “Nếu em hỏi anh, anh nghĩ bà ấy khá tử tế...”
“Tử tế sao?” Anthea đáp. “Bà ấy quá ân cần ấy chứ. Em nghĩ bà ấy quả là một người đáng trọng.”
“Bà ấy quá tốt bụng với mọi thứ.” Jane nói.
Rồi bọn trẻ đi về nhà - lúc này đã quá giờ uống trà và cực kì muộn để dùng bữa tối. Martha cằn nhằn như lẽ đương nhiên. Nhưng Cừu ít ra đã được an toàn.
“Em bảo này - hóa ra chúng ta đều muốn có em Cừu nhiều như bất kì ai khác.” Robert nói một lúc sau.
“Tất nhiên là vậy rồi.”
“Nhưng mọi người có thấy gì khác biệt khi mặt trời đã lặn không?”
“Không.” Tất cả đồng thanh.
“Thế thì tình cảm này của chúng ta đã kéo dài quá khoảnh khắc mặt trời lặn rồi.”
“Không đâu.” Cyril giải thích. “Điều ước không có tác dụng lên chúng ta. Chúng ta đã luôn yêu thương thằng bé bằng cả tấm lòng ngay khi là chính chúng ta rồi, chỉ là sáng nay chúng ta chẳng khác gì lũ lợn. Đặc biệt là em đấy, Robert ạ.”
Robert nghe lời trách với sự bình tĩnh lạ thường.
“Sáng nay em thực sự đã nghĩ mình không muốn có thằng bé.” Cậu nói. “Chắc em cư xử chẳng khác gì lợn thật. Nhưng mọi thứ trở nên hoàn toàn khác khi chúng ta suýt thì mất thằng bé.”