Tôi ra đời năm 1964 - năm đất nước của chúng ta có biết bao sự kiện nóng bỏng xảy ra. Trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu của kế hoạch năm năm lần thứ nhất. Nông thôn miền Bắc bước vào một giai đoạn mới trong phong trào sản xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác xã. Bên cạnh đó, dưới sự giúp đỡ chí tình, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em; nền công nghiệp non trẻ cũng được đầu tư lớn bước đầu với sự ra đời và phát triển khá nhanh các ngành công nghiệp khai khoáng, cơ khí chế tạo máy… Cả miền Bắc bước vào những phong trào thi đua lớn trên toàn bộ các lĩnh vực như phong trào “Cờ ba nhất” trong quân đội; “Sóng Duyên hải’ trong công nghiệp cơ khí chế tạo; “Gió Đại Phong” trên mặt trận nông nghiệp, “Trống Bắc Lý” trên mặt trận giáo dục… Tất cả những phong trào thi đua ái quốc trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã tạo ra sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn cho toàn xã hội. Trở thành cơ sở, nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam, thống nhất đất nước. Cả miền Bắc đang thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất với một khí thế quyết tâm cao, mang sức bật diệu kỳ thì đế quốc Mỹ gây ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” ngày 5 tháng 8 năm 1964 rồi ồ ạt cho hải quân, không quân đánh phá miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng hòa bình chuyển sang giai đoạn thời chiến. Thanh niên nô nức lên đường “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” - đó là khẩu hiệu của tuổi trẻ lúc bấy giờ.
Miền Nam - sau thất bại của các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, chiến tranh cục bộ sau đồng khởi rồi phong trào Đồng khởi nổ ra làm tan rã hầu hết các ấp chiến lược của địch. Vùng giải phóng được mở rộng, đánh dấu bằng sự kiện quan trọng là sự ra đời Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào tháng 12 năm 1960 và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tháng 2 năm 1961. Hoảng hốt trước tình hình đó; tháng 8 năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam... nhằm đảo ngược tình thế trên chiến trường. Nhưng chúng đã không đảo ngược được vòng quay của bánh xe lịch sử mà chỉ càng làm tăng thêm lòng căm thù và ý chí quyết tâm của nhân dân cả nước đánh đuổi giặc ngoại xâm, thống nhất Tổ quốc.
Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ở hai miền Nam - Bắc cực kỳ ác liệt; tháng 7 năm 1966, từ Hà Nội - trái tim của cả nước, Bác Hồ - Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc - người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam kêu gọi: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…”. Ý chí quyết tâm đã biến thành hành động cách mạng. Nhân dân cả nước đã giáng cho bọn xâm lược và bè lũ bán nước những đòn chí mạng, làm thất bại mọi âm mưu của chúng.
Tôi ra đời lúc ấy cùng với bao bè bạn khác ở vùng quê Thanh Miện (Hải Dương) tuy không phải trực tiếp chịu cảnh bom đạn tàn phá nhưng mắt đã nhìn thấy những chiếc máy bay giặc lồng lộn trên không trung. Nhìn những luồng đạn căm thù quất thẳng vào mặt những tên giặc trời, chúng bùng cháy lao về chân trời để lại vệt khói đen nhơ bẩn và những chiếc dù đủ màu sắc của bọn phi công bung ra từ thân máy bay run rẩy, vật vờ phiêu dạt trước làn gió.
Những năm ấy nhà tôi vẫn ở trong giữa làng, chỗ đất mà ông bà tôi đã ở từ rất xưa. Năm tôi khoảng năm tuổi, bố mẹ tôi bắt đầu làm đơn gửi hợp tác xã để được xin cấp đất làm nhà mới ở đầu làng, gần cánh đồng. Những cụm từ “trong làng - ra đồng” là khá phổ biến trong quá trình phát triển, mở rộng của các làng quê Bắc Bộ Việt Nam ở thời kỳ ấy. Vì tính bố tôi thích nơi thoáng gió nên khi hợp tác xã chia cho chỗ đất phía sau nhà của ông Cao - người hàng xóm mà tôi sẽ nói ở truyện “Vào lính pháo” - thì bố tôi đã đổi lấy chỗ đất phía đằng trước mặc dù nó rất trũng, toàn là hồ ao. Sau này, khi lớn lên được nghe kể lại rằng lúc ấy tôi còn cởi truồng cứ chạy đi chạy lại, cười sặc sụa bên chân bố mẹ và các anh chị tôi đào đất, đắp nền nhà. Có một lần chẳng may sa xuống hố nước, uống một bụng nước no, mặt mũi tím lại, mẹ tôi phải bỏ dở việc vác đất, bế về tắm rồi sưởi ấm cho tôi.
Hồi nhỏ tôi rất “dữ máu”, động tí là đau hàng tháng trời không khỏi, đầu chốc lở khắp nơi, chị Tú tôi phải đi kiếm những quả sung chín nhai đắp lên đầu cho khỏi trốc. Đến bây giờ cứ nghĩ lại cái hình ảnh một thằng bé chân tay khẳng kheo, bụng ỏng, đầu trùm chiếc khăn vải màn cho đàn ruồi khỏi bám vào chính là tôi bây giờ mà không khỏi buồn cười và biết ơn cha mẹ, các anh, các chị.
Lúc bấy giờ bố tôi còn đang công tác ở Phòng Lương thực huyện Thanh Miện (Hải Dương); tuy cơ quan chỉ cách nhà chừng chục cây số, nhưng có khi đến ba tháng ông không về nhà vì bận công tác của cơ quan. Mẹ tôi suốt ngày tần tảo sớm hôm làm lụng ở ngoài đồng để nuôi dạy sáu anh chị em chúng tôi ăn học. Anh Khoáng là anh cả của chúng tôi lúc đó đang học cấp ba ở thị trấn Sặt (huyện Bình Giang). Hằng tuần phải đeo gạo đi trọ học, tan học lại phải đi đào rau má để nấu cơm ăn độn cho đỡ đói. Những chiều thứ bảy về, thấy tôi cùng anh Khuông (kề trên tôi) nghịch bẩn, anh lại đưa tôi đi tắm rửa và bế ra cổng làng đón mẹ đi làm đồng về. Những hôm mẹ bận việc ngoài đồng về tối muộn, tôi khóc ngặt nghẽo, không dỗ được, cả hai anh em cùng khóc.
Tôi đã lớn dần lên như thế.
Năm 1968, bố tôi chuyển công tác lên Ủy ban Kiểm tra Đảng Tỉnh ủy Hải Hưng. Anh Khoáng tôi trước đó đã được Nhà nước chọn cử đi du học ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên. Anh học tại Thủ đô Bình Nhưỡng bảy năm liên tục, đến năm 1972 về nước, nhận công tác tại Nhà máy Cơ khí Trung tâm Cẩm Phả (Quảng Ninh). Anh Kháng là anh trai thứ hai của tôi khi đó học xong lớp chín hệ phổ thông 10 năm rồi thôi học, đi bộ đội. Sau khi vào bộ đội, anh trai tôi phục vụ tại Phái đoàn liên hiệp quân sự bốn bên trong Ủy ban thực hiện Hiệp định Pa-ri tại Việt Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, anh tôi chuyển ngành về công tác tại Ty Văn hóa Hải Hưng; tiếp tục học bổ túc hoàn thiện chương trình phổ thông trung học; rồi thi và đại học, ngành Quản lý Văn hóa của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Là con út trong gia đình nên tôi được cưng chiều hơn các anh chị. Lúc ấy ông nội tôi hãy còn, ngày ngày ông tôi dạy hai anh em tôi và thằng Trọng con chú Truy học chữ. Ba anh em chúng tôi nằm phủ phục trên chiếc bục đá giữa nhà và tập viết, tập đọc. Thằng Trọng vốn mải chơi, có hôm cả ba ông cháu phải đi tìm và khênh nó về bắt phải học. Tôi và anh kế trên tôi là anh Khuông lại hay cãi nhau; mỗi khi chơi bi, chơi khăng hay chơi đáo với nhau là hai anh em lại hay sinh ra xích mích, có khi đánh nhau khóc rinh cả làng xóm. Có một hôm, hai anh em ngồi ăn mía trên chiếc xe cải tiến ở đầu hồi nhà, anh Khuông chặt mía cho tôi ăn, tôi cứ thò tay vào nhặt, chẳng may dao chém phải ngón tay trỏ gần đứt rời ra, phải ra trạm y tế xã băng bó đến nay vẫn còn sẹo. Anh tôi sợ mẹ mắng phải trốn biệt đến tối mới dám về. Rồi có một đêm, hai anh em ngủ với nhau, chẳng hiểu co kéo, xô đẩy nhau thế nào mà tôi lăn chiêng xuống đất, đầu đập vào chiếc nồi đất để dưới gầm giường làm nó vỡ tan. Thái dương tôi rách toạc, máu chảy đầm đìa, tôi khóc thét lên, mẹ tôi phải chạy vào rịt thuốc, bế dỗ mãi tôi mới nín. Hậu quả của cú ngã đó là trên thái dương bên phải của tôi hiện vẫn còn vết sẹo lớn.
Năm 1969, ông nội tôi mất, lúc ấy tôi còn nhỏ lắm chẳng biết gì cả. Khi dân làng đưa ông ra đồng thì tôi níu áo bố hỏi: “Ông có về với con nữa không hả bố?”. Bố xoa đầu tôi bảo: “Con ngoan, học giỏi ông sẽ về cho kẹo…”.
Sau đó, gia đình tôi chuyển nhà từ trong làng ra xóm trại, nơi chỗ đất hợp tác xã cấp cho năm trước, để lại chỗ đất trong làng cho cô Bái ở. Ra ngoài đồng chỗ nhà đất mới rộng rãi, tôi tha hồ chạy nhảy, nghịch ngợm. Bố tôi đi công tác trên tỉnh, chiều thứ bảy về nghỉ xin được giống cây bạch đàn đem về trồng thành dãy trước bờ ao nhà. Hàng cây này lớn nhanh trên bờ đất vượt, đến năm 1978 chúng đã to và gia đình tôi đem chặt hạ, ngâm xuống ao đủ để làm căn nhà gỗ năm gian mà không phải mua một cây cột nào khác.
Hằng ngày, tôi cùng với mấy đứa con ông chú lấy bẹ chuối buộc vào giữa hai thân cây làm võng ngồi lên đu đưa, lấy đó làm thích thú. Có lần võng đứt rơi phịch xuống đất, mông đau ê ẩm mà vẫn không chừa. Lúc ấy căn nhà của gia đình tôi ở có tường đắp bằng đất, gặp những dịp mưa gió, mặc dù đã được che chắn cẩn thận tường vẫn bị nước mưa hắt vào gây đổ tường, phải đắp đi đắp lại nhiều lần thật vất vả. Khi ấy, vào những ngày chủ nhật, bố tôi được nghỉ ở cơ quan, các anh chị tôi cũng được nghỉ học ở trường, cả nhà lại xúm vào mượn thuyền, đào đất san nền. Tôi còn nhớ có lần chị gái thứ ba của tôi là chị Lan bê hòn đất nặng không bỏ được vào thuyền, làm rơi ra ngoài chìm xuống dưới nước; bị anh tôi mắng, chị bỏ lên bờ ngồi khóc. Trong lúc ấy thì tôi vẫn cứ chạy lăng xăng nghịch đất trên bờ. Năm bảy tuổi, tôi đi học vỡ lòng. Những ngày đầu đến lớp, tôi cứ bắt chị tôi phải đưa đến chiếc điếm ở giữa làng; trong lúc tôi ngồi học, chị tôi phải đứng ngoài cửa sổ chờ nếu không tôi không học, bỏ về. Rồi khi quen, ngày ngày tôi thường rủ thằng Trọng và thằng Ninh về nhà, lấy gạch vỡ ném khế rụng xuống để ăn. Vốn cây khế cổ thụ này là “Khế cơm”, quả nhỏ nhưng sai, rất ngọt; nó được ông tôi trồng ở mảnh đất cũ ở trong làng; phía trước, cạnh nhà ông Khuê ngày ấy; rồi sau này không biết cây khế bị chặt bao giờ tôi không nhớ rõ.
Tuy nghịch nhưng tôi học rất nhanh, chẳng mấy đã đọc được sách báo. Bố thường thưởng cho tôi mỗi khi được điểm mười một đồng năm xu mới tinh. Với tôi đó là phần thưởng vô giá. Tôi nâng niu giữ gìn chúng, gom góp để dành rồi nhờ bố mua truyện ở hiệu sách phố huyện về đọc hay pháo tép để đốt mỗi khi tết đến. Khi chuyển lên lớp một, tôi phải sang làng Tiên Lữ học do cô giáo Đào dạy. Lớp học đặt trong ngôi chùa có nhiều ông tượng to lớn nom rất dễ sợ. Và câu chuyện truyền tai nhau về những con rắn có mào nằm trong trong hậu cung chùa làm chúng tôi sợ chết khiếp lúc đấy. Trên con đường đi học từ nhà đến lớp, năm đứa chúng tôi trong làng Vũ Xá cùng lớp gồm ba trai hai gái: Sáu - Ngọc - Nhĩ - Hồng - Vấn có những kỷ niệm thật buồn cười. Trên đường tới lớp, nếu tụi con gái đi sau hoặc trước là tụi con trai chúng tôi dạt sang một bên. Hễ có đứa nào không nhìn chẳng may đi thẳng hàng với tụi con gái là cả bọn lại kêu ầm lên “bắt điện, bắt điện rồi...” thế cho nên trên đường đi học cứ phải mắt trước mắt sau sao cho mình khỏi đi thẳng hàng với tụi con gái để khỏi bị “chập điện!”.
Năm 1972, anh Khoáng tôi từ Triều Tiên về nước, chưa nhận công tác nên còn đang nghỉ ở nhà. Tôi còn nhớ một buổi trưa hè rất nắng, anh tôi cứ bắt tôi đội chiếc mũ lá đi học, chiếc mũ to, xấu xí nên tôi nhất quyết không chịu đội, thế là anh tôi nổi nóng quát ầm lên rồi liệng chiếc mũ bay xuống ao. Rồi những năm học lớp hai - lớp ba sau đó, chúng tôi lại được chuyển trường về thôn Phạm Xá để học. Lúc đó là cuối cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai, máy bay Mỹ đánh phá rất ác liệt miền Bắc xã hội chủ nghĩa, mỗi gia đình có con em đi học phải cử người đi đào hào, đắp hầm chữ A cho chúng tôi trú ẩn mỗi khi có máy bay Mỹ tới. Hằng ngày đi học cứ phải đội chiếc mũ rơm nặng trĩu, cồng kềnh trên đầu làm vướng víu, khó chịu, chỉ muốn liệng đi cho thoải mái nhưng không được. Hồi đó tôi và thằng Khoẻ (con ông Kiển) rất ham đánh bi đất; có hôm hai đứa mải chơi đánh bi suốt ngày, quên cả học. Trong túi lúc nào cũng đầy ắp những viên bi, về nhà lại hì hục nặn đất phơi khô nung đỏ rồi sơn để làm ra những viên bi tròn đều tăm tắp. Có một thời chúng tôi đua nhau mài bi đá. Những hòn đá gồ ghề, rắn và sắc cạnh, đủ hình khối khác nhau như thế mà chúng tôi vẫn mài rồi xoáy thành những hòn bi đá tròn xoe to bằng ngón chân cái. Những hòn bi đó quả là thật lợi hại khi thi đấu: Một phát búng chính xác có thể “ăn” từ vài hòn bi con. Mỗi khi búng được một phát trúng đích như vậy, thật sướng không thể nào tả xiết.
Cùng học một lớp có thằng Tập người làng Phạm Xá, tôi với nó cũng chơi rất thân, nhưng rồi một hôm trên đường đi học về do tranh nhau quả bóng, chúng tôi đuổi nhau. Đuổi không kịp, đến cổng nhà nó ở ven đường đi tôi thuận tay đẩy theo vào lưng nó. Đang đà chạy, không kịp dừng lại bị tôi đẩy mạnh phía sau, nó đâm sầm xuống vũng bùn, quần áo lẫn sách vở mặt mũi lấm lem bùn đất làm tôi sợ hết hồn. Hồi đó, có một chuyện buồn cũng xin được nhắc lại: Chuyện là lúc đó ở làng Phạm Xá có thằng Cang, bị dị tật từ bé với cái tay khèo chuyên đi hót phân trâu, chúng tôi gọi nó là “Cang khoèo”. Nó hơi dở người nhưng rất khoẻ và đặc biệt tay còn lại của nó ném rất xa và khá chính xác. Có một hôm bọn con trai chúng tôi trên đường đi học thấy quang gánh của nó để dọc ven đường, bèn vất quang sảo đi mỗi nơi một chiếc. Không tìm đủ bộ quang gánh để hót phân trâu, ông chú rất ác đã đánh nó thâm tím cả mặt mày. Nó thù chúng tôi, từ đó cứ rình tìm chúng tôi để đánh. Suốt hai tháng trời bọn học sinh chúng tôi cứ phải bỏ đường cái đi tắt cánh đồng để tránh mặt nó. Chỉ khổ bọn con gái, không nghịch ác hôm đó nhưng vẫn phải chịu hệ lụy do bọn con trai chúng tôi gây ra. Sau này, vào một hôm không hiểu sao người ta thấy xác nó nổi lên ở trong chiếc bể xả của trạm bơm nước tưới tiêu của xã đặt ở thôn Phạm Xá. Thật tội nghiệp, nghĩ mà chúng tôi ân hận. Bây giờ nghĩ lại cũng tự trách mình, tuy không trực tiếp làm cái việc vứt quang gánh của thằng Cang đi nhưng cùng đi trong đám bọn con trai mà không cản chúng nó. Nhưng lúc ấy, cũng chỉ là nghịch thôi, có đứa nào nghĩ được hậu quả xấu của việc làm đó đâu.
Trong khoảng thời gian ấy, Hải Phòng bị giặc Mỹ ném bom phá hoại, gia đình ông chú họ tôi là chú Dương Khắc Thụ - nguyên Giám đốc Sở Công an Hải Phòng phải sơ tán về quê. Thằng Ninh là con trai của chú tôi; nó cùng độ tuổi, đi học với chúng tôi, nó rất nghịch, chuyên bắt nạt những đứa bé. Có lần nó đánh tôi rồi bỏ chạy, đuổi không kịp, tức quá tôi nhặt hòn đá ném theo. Chẳng may trúng đầu nó sưng bướu lên bằng quả ổi, mấy ngày sau mới khỏi. Những ngày đó, tôi không dám đến gần nó, sợ nó đánh trả thù!
Năm học lớp ba tôi học rất giỏi, cuối học kỳ một đã được nhà trường tặng giấy khen và tôi được kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh sớm nhất lớp. Đi học, cổ quàng khăn đỏ trong khi các bạn chưa được quàng cũng thấy oai. Học lên lớp 4, chúng tôi lại chuyển về thôn Văn Xá học. Lớp tôi là lớp 4A do thầy Duệ người Đông La chủ nhiệm. Thầy dạy giỏi, đa số chúng tôi đều có học lực khá nên lớp chúng tôi luôn dẫn đầu nhà trường; thường được biểu dương khen ngợi mỗi sáng thứ hai chào cờ toàn trường. Từ nhà, muốn tới trường chúng tôi phải đi qua một cái chợ gọi là chợ Đầng. Đúng là một cái chợ quê giữa vùng nông thôn, đủ màu sắc hàng quán. Có những chị hàng xén bày hàng la liệt đủ màu sắc sặc sỡ, chúng tôi thường đến khi thì mua chiếc ngòi bút, khi thì gói mực. Ngày ấy mực tím hay đỏ là bột màu để trong túi ni lông nhỏ, mua về phải xé vỏ ra, đổ vào lọ, cho nước vừa phải, ngoáy đều cho mực tan ra hết, thế gọi là “pha mực” chứ chưa có bút bi như sau này. Gọi là đi chợ nhưng chủ yếu là rủ nhau đi xem các mặt hàng cho thích mắt thôi chứ chúng tôi lúc đó làm gì có tiền mà mua đồ. Những bác nông dân đem đến chợ thôi thì đủ cả, thóc gạo, lợn gà, vịt, rau, cua cá… Những hàng ngô luộc, ngô nướng thơm nức, giòn tan. Chúng tôi thường được mẹ cho khi thì năm hào lúc một đồng mua bánh đa, kẹo vừng, kẹo bột; hay có hôm mua củ ấu, củ lạc vừa béo vừa bùi. Những món quà quê đơn giản ngày ấy, hôm nay nhắc lại vẫn thấy dư vị của nó vẹn nguyên trong ký ức.
Sáng đi học, chiều về đi chăn trâu với thằng Trọng và thằng Ninh. Con trâu mộng của hợp tác xã giao cho nhà tôi có cặp sừng kềnh càng nom rất oai vệ nhưng nó lại rất hiền. Tôi quý nó vô cùng, coi như người bạn thân. Lại được bố tôi động viên khuyến khích nữa nên ngoài giờ đi học tôi rất chăm nó. Dịp thi trâu nào của hợp tác xã, con trâu của tôi cũng đứng thứ nhất về béo, khỏe, đẹp. Hồi đó tôi và thằng Rực con chú Phóng thường đi chăn trâu với nhau. Lúc ấy nhà chú tôi có cây cam sành rất to, quả ngọt và rất sai quả. Chúng tôi thường trẩy trộm cam đem đi chăn trâu bóc ăn. Đi chăn trâu từ sáng sớm, những cánh đồng lúa của làng Rọn, làng Cao, làng Đầng giáp với làng của chúng tôi đều bị đàn trâu của chúng tôi quần nát bờ. Có nhiều hôm, khi không thấy có bác bảo vệ canh đồng là chúng tôi đánh trộm trâu sang cánh đồng làng khác, cứ thế cho trâu ăn no lúa rồi chuồn. Con trâu nhà tôi ăn nhiều lúa, rát lưỡi quá cũng chả thèm ăn nữa và thế là chúng tôi cứ việc chọn bờ nào cỏ tốt, đánh trâu vào, cưỡi lên mình nó nằm ngủ khì khì mà trâu không hề ăn mất một cây lúa dọc ven bờ ruộng. Ngủ say trên lưng trâu, có bữa rơi cả mũ không biết, tỉnh dậy phải đi tìm mãi… Lại có bữa đang ngủ, trâu ăn đến cuối bờ ruộng bèn lội sang bờ khác; đang ngủ, bám không chắc nên lăn tùm cả người xuống ruộng mà vẫn còn ngủ, người ướt như chuột lội.
Người bị đám trẻ chăn trâu chúng tôi rất ghét lúc bấy giờ là ông Khao, đội trưởng nông giang của hợp tác xã. Ông thường vác cuốc đi tuần trên những cánh đồng, phát hiện hôm nào, chỗ nào chúng tôi để trâu ăn lúa là bắt trâu về sân kho hợp tác xã để phạt, gọi bố mẹ ra nhận lỗi rồi mới thả cho về. Ông ta chạy rất khoẻ nhưng chúng tôi cưỡi trâu lồng cũng không phải là kém. Thế mà cũng có vài lần bị ông bắt được, phải khóc xin mãi mới được tha cả người và trâu.
Buổi sáng đi học, chiều về đi chăn trâu. Những kỳ nghỉ hè với chúng tôi là những ngày tháng “lý tưởng”. Sáng đưa trâu ra đồng cho thợ cày rồi về nằm võng đọc truyện cho đến khoảng mười giờ đi nấu cơm cho gia đình. Tôi ham đọc sách nên thường nấu cơm muộn; bọn trong hội chăn trâu thường phải đến giúp tôi, đứa đun bếp, đứa quét sân, đứa giã cua nấu canh xong rồi kéo nhau đi chăn trâu. Trên mình trâu, tôi kể cho tụi bạn nghe những mẩu chuyện lý thú tôi đọc được trong sách. Mỗi buổi chăn trâu là phải kể được một câu chuyện, bọn bạn rất nể và quý tôi nên con trâu của tôi bao giờ cũng được ưu tiên đi ăn đầu đàn. Cứ thế nên tạo cho nó thói quen xấu: Hễ cứ chú trâu nào khác chen lên ăn trước là hắn lại húc sừng vào mông làm cho con kia không ăn được, không con nào được đi ăn trước nó. Tôi và con trâu mộng đầu đàn của tôi thực sự trở thành “đại ca” trong đám trẻ chăn trâu cùng lứa lúc ấy.
Một kỷ niệm hồi lớp 4 mà tôi không thể nào quên. Chuyện là thế này: Hôm ấy ba thằng chúng tôi: Hiền - Khoẻ - Sáu đi học về, đi sau là bọn cái Vấn cùng làng, cái Bắc người Văn Xá. Tụi con trai chúng tôi đi trước đến cái cống giữa đường thì gặp cô Tâm và thầy Tụ giáo viên cấp hai đi dạy về. Ngược đường, gặp thầy và cô nhưng chúng tôi không chào, thằng Hiền đi bên còn nhổ nước bọt, sau này nó bảo lúc đó nhìn thấy đống phân bên vệ đường. Thế là thầy Tụ cho là vô lễ, gọi chúng tôi lại hỏi; chúng tôi sợ quá không đứng lại, ù té chạy, thầy tức quá đạp xe đuổi theo. Ba đứa ba ngả, chúng tôi lao như tên bắn, tôi chạy thẳng đường còn thằng Hiền và thằng Khoẻ chạy xuống bờ ruộng. Đuổi sắp kịp tôi đến nơi, chẳng may bỗng nhiên xe đạp của thầy đứt xích không đạp được nữa; thầy bực tức phải dong xe quay về. Gặp tụi con gái đi sau, thầy hỏi mới biết tên ba đứa chúng tôi. Hôm sau thầy Tụ đến trường chúng tôi gặp thầy Cương hiệu trưởng và thầy Duệ chủ nhiệm lớp phản ánh tình hình. Thầy Duệ và thầy Cương bực lắm, gọi chúng tôi lên quạt cho một trận rồi sau đó khai trừ ra khỏi Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Mãi khi lên lớp năm mới được kết nạp lại. Cuối năm lớp bốn, tôi và thằng Ngọc cùng làng đi thi học sinh giỏi Toán của huyện; hai đứa đi học mười ngày ở thôn Cụ Trì, xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện cách nhà chừng mười lăm cây số; không được về, nhớ nhà cứ khóc suốt.
Lên đến cấp 2, chúng tôi được chuyển về gần nhà. Được cử làm cán bộ lớp nhưng tôi rất ham đá bóng. Buổi trưa đi học về mặc dù đã 12 giờ vẫn cứ lôi nhau vào sân kho của hợp tác xã thi đấu giữa hai làng Vũ Xá và Tiên Lữ. Chúng tôi đá quên cả đói; đi chân đất, có đứa chân cày sủi gạch bật cả móng mấy ngày không đi học được. Đến buổi tối, là cán bộ lớp nên tôi phải cùng cô giáo Nguyệt chủ nhiệm và mấy đứa tổ trưởng xách đèn dầu đi tới các nhà để kiểm tra việc học tối của các bạn trong lớp. Bọn con gái sợ ma cứ rúc vào nhà một đứa nào đó mặc kệ mấy đứa con trai chúng tôi đi kiểm tra nhà các bạn trong các ngõ xóm. Ánh sáng lập lòe, ẩn khuất tỏa ra từ chiếc đèn bão làm những bóng người ngả nghiêng, xiêu vẹo, bập bùng đi trong đêm tối trên các ngõ xóm và con đường làng gập ghềnh, quanh co chỗ lát gạch, chỗ rải đất tạo cho chúng tôi một cảm giác thật khó tả.
Năm học lớp 6, nhân kỷ niệm Ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam chúng tôi mang mỗi đứa một bó hoa tặng thầy cô. Cái Hồng con bà dì tôi (dì Khoan) hiện tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội về dạy học ở xã mang bó hoa có mấy bông trắng và mấy bông hoa dại tên địa phương gọi là “hoa cứt lợn” không được hay cho lắm đến trường. Thế là thằng Ngọc lớp trưởng nói với cô chủ nhiệm đại khái không ra gì, cô Nguyệt gọi lên nhắc nhở làm nó khóc đến hết nước mắt.
Năm 1975, hòa bình lập lại, đất nước thống nhất. Anh Kháng được về phục viên, rồi được chuyển ngành về công tác tại Ty Văn hóa Thông tin tỉnh Hải Hưng. Năm 1978, lúc đó bố tôi được nghỉ hưu. Năm ấy cả làng chúng tôi được ba đứa con trai: Tôi - Ngọc - Nhĩ; con gái có: Dung, Liễu, Hồng, Yến đều đỗ vào lớp 8 hệ 10/10 lúc ấy. Những ngày đầu học cấp ba chưa biết đi xe đạp nên tôi toàn phải đi nhờ các bạn. Chính vì thế mà bố mẹ tôi xin cho trọ học ở làng Chương tại nhà ông Đĩnh là người vốn cùng công tác với bố tôi hồi còn ở phòng lương thực huyện. Nhà có anh Thâu đi bộ đội chiến đấu ở chiến trường Campuchia; ở nhà có hai cô con gái là Thuận và Diệm đã bước vào tuổi dậy thì. Cuộc sống ở trọ cứ phải ý tứ, giữ gìn, bọn con gái làng Chương cứ trêu tôi suốt, gán ghép với hai cô chủ nhà. Không quen nước sinh hoạt nên chúng tôi bị ghẻ hết. Ghẻ nặng quá chữa không khỏi, tôi thôi không ở trọ học nữa mà đi về nhà rồi tới trường hằng ngày.
Một kỷ niệm mà cũng có thể coi là dấu ấn của những năm học cấp ba thật khó quên. Chuyện là thế này: Ở trường chúng tôi, phong trào Đoàn Thanh niên hoạt động khá mạnh, sôi nổi với nhiều hoạt động. Năm ấy (1978), trong dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhà trường có tổ chức liên hoan văn nghệ, cắm trại và trong đó có tổ chức một bữa liên hoan. Để chuẩn bị cho ngày đó chúng tôi xúc tiến công tác chuẩn bị từ tháng trước. Lớp 8E chúng tôi tổ chức mượn vật chất để cắm trại và tổ chức một đội văn nghệ tham gia biểu diễn các tiết mục cùng với Đoàn trường. Đồng thời cử hai thằng Hải và Phú người ở làng Phạm Tân vào tận huyện Ân Thi (Hưng Yên) mua một con chó chừng hơn chục cân về chuẩn bị cho liên hoan. Mua về chúng tôi nhốt vào cái cũi và đem gửi ở nhà cô giáo chủ nhiệm. Buổi sáng chúng tôi đi tập văn nghệ và chiều đi học; sáng hôm ấy trời vẫn còn mưa xuân, đường đến trường lầy lội bùn đất, chúng tôi đạp xe đến trường thì cô giáo báo tin: “Mất chó”. Số là cu cậu không quen sống cảnh giam cầm đã tìm mọi cách trốn thoát. Lớp phải ngừng tập văn nghệ mỗi đứa cầm một cây gậy (cọc cắm trại) khoác áo mưa đi tìm. Lùng sục khắp nơi chẳng thấy đâu. Tìm mãi thấy bên kia bờ sông có con chim diều hâu đứng ngủ bên bờ lúa cứ tưởng là chó của mình, chạy bổ sang gần tới nơi con chim bay vù mất, chưng hửng ra. Còn một bộ phận khác đi tìm qua nhà ăn của ủy ban nhân dân huyện thấy họ đang mổ thịt một con chó cũng cứ nghĩ là chó của mình bèn tiến lại để hỏi, bị họ mắng cho một trận.
Tìm mãi đến trưa, đến giờ vào học chiều rồi phải về đi học, suốt buổi học cả lớp cứ xôn xao mãi chuyện đi tìm chó. Chiều, học xong cả lớp lại tổ chức đi tìm, mãi chiều tối mới tìm thấy. Té ra là “cậu chàng” sợ quá, lao vào một nhà ven phố huyện đi làm vắng, nằm im trong đó, mãi tối bà già về mở cửa cu cậu mới chạy ra và bị phát hiện…
Năm học lớp 9 tôi làm gãy một cái khung xe đạp, đó là một việc nghiêm trọng bởi lúc ấy phương tiện đi lại còn rất hiếm và có giá trị. Chuyện là thế này: Anh Kháng tôi đi bộ đội vào miền Nam; sau giải phóng vào năm 1976 có đem về nhà hai chiếc xe đạp, lúc ấy mọi người gọi là “xe miền Nam” để phân biệt với xe đạp Thống Nhất - một “thương hiệu” mạnh lúc bấy giờ. Hai chiếc xe đó anh dùng một để đi công tác, một chiếc để ở nhà cho tôi đi học. Thời gian ấy tôi không trọ ở làng Chương nữa mà sang trọ nhà bác Vân ở làng Thọ Xuyên. Sáng thứ hai hôm ấy, trời mùa đông tối mờ, đèn đường không có, đi đường chẳng nhìn thấy gì cả, cứ đạp xe mải miết cho kịp giờ chào cờ đầu tuần. Đường thì chúng tôi không lo, đi quen thuộc từng lỗ xẻ, từng ổ gà. Nhưng đi qua cây đa làng Xá chừng năm chục mét thì xe tôi đâm sầm vào xe thồ cũng đi chợ sớm. Cả hai cùng ngã lăn kềnh, lồm cồm dậy cãi nhau mấy câu rồi anh xe thồ lên xe phóng đi. Trời tối chẳng nom thấy gì cả. Sờ đến xe thì ôi thôi, xe tôi méo vành số 8 và gù khung! Té ra xe thồ cứng nên không việc gì, còn xe tôi thì như vậy đấy. Chiếc xe thồ đã đi xa, một mình đành dắt xe quay lại hiệu sửa xe ở cống Xá nắn lại vành. Trong túi không có đủ tiền sửa. Phải gửi túi gạo mẹ cho ở hiệu sửa xe, mượn xe đạp về nhà xin tiền. Một thời gian sau, do đi nhiều nên cái khung xe tôi đi gãy mất, anh tôi phải mua một cái khung xe nam cũ để thay cho khung chiếc xe đạp nữ anh mang từ miền Nam ra cho tôi tiếp tục đi học.
Tôi cùng thằng Yên trọ ở nhà bác Vân, hai đứa cùng đi học, cùng ăn, cùng ngủ. Vào năm lớp 10 là năm học cuối cấp nên chúng tôi chịu khó học lắm. Buổi tối ngồi học buồn ngủ, hai đứa bàn tìm cách khắc phục. Tuy không biết hút thuốc, hai đứa cũng mua một bao thuốc lá Đồ Sơn ngồi hút. Không quen, ho sặc sụa, giàn giụa cả nước mắt vậy mà vẫn cứ buồn ngủ. Rồi mỗi khi một trong hai đứa buồn ngủ lại bày trò đánh tay. Ngồi hai bên bàn, đầu gật gù như say rượu, tay ngoặc vào nhau xiêu vẹo. Rồi cả hai cùng buông tay gục xuống bàn ngủ lúc nào không biết. Chập chờn, lúc ngủ, lúc tỉnh lại học tiếp. Sáng ra chân tay đầy nốt muỗi đốt nổi cục.
Chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp 3, một hôm Trường cấp ba Thanh Miện của chúng tôi có một sĩ quan đeo quân hàm đại úy quân y ở Học viện Quân y về trường, chọn mấy đứa học khá giỏi trong trường làm hồ sơ để thi vào Học viện Quân y. Lúc đó chúng tôi cũng chưa hiểu gì về quân đội và cả cái lời hứa hẹn: “Trung úy bác sĩ” sau bốn năm học tập tại Học viện Quân y sao mà hấp dẫn đến thế! Thế là ba đứa chúng tôi Dương - Sáu - Yên làm hồ sơ và các thủ tục để thi. Đến khi khám sức khoẻ, thằng Yên lại không đủ tiêu chuẩn, thế là chỉ còn tôi và Dương dự thi.
Đến ngày thi tốt nghiệp cấp ba, bài tôi làm khá tốt, bốn môn thi đạt 30 điểm, về nhà bắt đầu ôn thi đại học. Anh Kháng đưa tôi lên thị xã Hải Dương ôn được mấy chục ngày, lớp ôn tập đã bắt đầu lâu rồi, tôi vào sau theo khá vất vả. Chất lượng học ôn cũng không thật tốt. Ngày đi thi đại học năm ấy, tôi làm bài chẳng lấy gì làm trôi chảy. Đến khi báo điểm, sự thật sững sờ làm tôi thất vọng.
Thế là trượt đại học, không còn hy vọng điều gì cả! Những tháng ngày sau thật buồn tẻ, chẳng thiết vui đùa gì cả. Dần dần nỗi buồn cũng nguôi tôi đã bắt đầu quen với cuộc sống mới của thôn quê và vẫn quyết tâm ôn thi, chuẩn bị cho một mùa thi tiếp theo thì nhận được giấy gọi nhập học của Trường Sĩ quan Pháo binh. Và cuộc đời tôi đã bước sang một bước ngoặt mới.