Những ngày cuối tháng 10 năm 1981, quê hương tôi - mảnh đất nằm sâu giữa vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, đang vào mùa thu hoạch vụ lúa mùa. Với những đổi mới trong các chính sách đối với nông nghiệp - nông thôn lúc bấy giờ; ruộng đất của hợp tác xã đã được chia về các hộ gia đình để sản xuất thay dần cho hình thức sản xuất tập trung như những năm trước đó. Gia đình tôi cũng được chia vài mảnh ruộng ở các cánh đồng khác nhau xung quanh làng. Bữa đó mẹ tôi cũng đã bắt đầu gặt được mấy khoảnh lúa tăng sản ở cánh đồng mang tên gọi Đường Cao - Cửa Đình của làng, lúa khá tốt. Còn các khoảnh ruộng khác, các bông lúa cũng đã bắt đầu hoe đỏ, dưới nhành lá lấp ló những bông lúa to mẩy, đẫy đà trĩu hạt, hứa hẹn một vụ mùa bội thu. Đường làng quê đã rải rác xuất hiện rơm rạ của bà con nông dân phơi ra cho khô, đánh thành đống làm thức ăn dự trữ cho trâu bò và thay củi dùng để đun nấu của các gia đình.
Trong lúc ấy, gia đình tôi đang có một mối lo: Bà nội tôi sau 87 năm tần tảo làm lụng nuôi dạy con cháu, đã già yếu và đang ốm nặng. Cả gia đình, bố mẹ tôi, cô dì chú bác lo lắng chăm sóc cho bà, song do tuổi cao, bệnh tình của bà ngày càng chuyển biến xấu. Mấy hôm trước, tôi đã phải cùng mấy đứa em con ông chú mang xe cải tiến xuống phố huyện mua cho bà cỗ áo quan về nhà thuê ông Long thợ mộc trong làng xoi mộng lại. Đóng lại xong, tôi cùng chú Phóng sơn lại cỗ áo cho bà.
Hôm ấy là ngày 27 tháng 10 năm 1981, cả buổi sáng và đầu giờ chiều tôi cùng mẹ tôi dùng xe cải tiến chở phân chuồng ra cánh đồng Cửa Đình và đem hạt ngô giống gieo vào những luống đất mới cày còn ướt sũng nước. Đến buổi chiều còn mấy luống đất ngắn nữa, mẹ tôi đi thăm lúa, còn một mình tôi đi gieo nốt số hạt ngô lên trên các luống đất đã đánh vun cao. Chiều về, lúc ấy khoảng 16 giờ 30 phút tôi về đến nhà thì bố đang ngồi nấu cơm trong bếp. Mẹ đang băm rau lợn trên sân, tôi vừa về đến sân nhà, mẹ tay vẫn băm mớ rau cho lợn, ngẩng lên bảo nhỏ với tôi: “Con có giấy gọi đi đại học đấy!”. Tôi sững sờ! Bất ngờ và lạ quá; mình thi đại học được có 10 điểm cơ mà. Chưa rõ cụ thể tình hình thế nào, tôi xách chiếc sảo và gọi cháu Quang lúc đó bốn tuổi là con anh trai thứ hai của tôi đi ra cửa hội trường ủy ban nhân dân xã lấy rau về cho lợn ăn, trong lòng xốn xang không khỏi thắc mắc.
Mang sảo rau cho lợn ăn về nhà, tôi được bố đưa cho xem chiếc phong bì ngoài có đề dòng chữ: Trường Sĩ quan Pháo binh, đề gửi tên tôi. Giở ra bên trong có một giấy gọi nhập học vào Trường Sĩ quan Pháo binh. Thì ra là do tôi không đủ điểm vào Học viện Quân y nên cơ quan tuyển sinh của Bộ Quốc phòng đã chuyển tôi sang học trường sĩ quan. Vì năm ấy quân đội ta thực hiện thí điểm cơ chế tuyển sinh mới vào các trường sĩ quan.
Buổi tối hôm ấy, gia đình tôi vẫn tấp nập người ra vào chăm sóc bà nội tôi. Tôi có hỏi bố mẹ và các cô các chú xem có nên đi học hay không. Bố tôi bảo: “Con xem thế nào, đi cũng tốt. Vào quân đội có điều kiện để rèn luyện và trưởng thành”. Mẹ tôi thì bảo: “Mẹ già rồi, đau yếu luôn. Hơn nữa người ta gọi không đúng nguyện vọng thì đừng đi con ạ, ở nhà với bố mẹ một vài năm giúp đỡ gia đình rồi đi cũng chưa muộn”. Chú Phóng tôi thì nói: “Cứ đi cháu ạ, cái gì đến nó sẽ đến…”. Thâm tâm tôi lúc bấy giờ cũng rất thích đi, thế mới lạ. Vì trong điều kiện lúc ấy, sau khi thi đại học không đỗ, ở nhà cũng chán, nên thích đi xa, tuổi trẻ mà. Thế là tôi quyết định đi học ở Trường Sĩ quan Pháo binh.
Ngay tối hôm đó, tôi vào nhà cái Nga, em con cô Hồi, lúc đó nó làm bí thư chi đoàn, để bảo nó chuyển sinh hoạt Đoàn. Lúc bấy giờ có cả Nga và anh Lạc (con cụ Đăng) đang ngồi ở đó, tôi đưa giấy gọi nhập học ra cho anh Lạc xem. Xem xong, anh ấy cũng bảo: “Đi thế cũng tốt, Sáu còn trẻ mà…”.
Ngày hôm sau, ngày 28 tháng 10 năm 1981 tôi bắt đầu đi chuyển giấy tờ và cắt hộ khẩu khỏi địa phương, chuyển sinh hoạt Đoàn vào quân đội. Mọi việc nói chung rất gấp nhưng đều tương đối thuận lợi. Suốt ngày hôm đó, tôi đạp xe đi khắp các nơi trong xã, huyện để xin giấy tờ, chỉ còn thiếu học bạ và bằng tốt nghiệp lớp 10 mà thôi. Đúng buổi chiều trời bỗng nổi một cơn giông rất to, mây đen kéo mù mịt đầy trời, sắp mưa to đến nơi. Tôi vẫn phải cùng chú Đống, một người đã đi bộ đội hơn chục năm và về nghỉ mất sức lặn lội trong mưa để lo hoàn tất thủ tục. Cũng may, trời chỉ mưa ào qua ngay rồi tạnh và rồi lại hửng nắng. Tuy vất vả nhưng chú Đống vẫn tươi cười bảo: “Cháu nên đi, vào trong quân đội sẽ được rèn luyện tốt”. Được chú động viên tôi cảm thấy phấn chấn nên hăng hái xông xáo làm nhanh chóng các thủ tục. Lúc làm xong mọi việc thì đã đạp xe ra đến cống Neo thì gặp thằng bạn cùng học lớp 10 cũng nhận được giấy gọi đi học Trường Sĩ quan Thông tin. Hai đứa nói chuyện một lát rồi chia tay. Đạp xe về đến nhà trời đã gần tối, lại nổi gió lớn, gió Đông Bắc kéo cái rét đầu mùa đến. Chợt nhớ ở ngoài khu Cửa Đình còn ít rạ phơi khô mà chưa kịp đem về nhà, tôi đem đôi quang ra gánh về nhà. Chiều quê tối sẫm, trên cao vẳng tiếng máy bay đang bay ngang qua. Về nhà lại đem chiếc đòn gánh ra đồng quẩy rơm về giúp bố tôi. Lúc ngồi ăn cơm, nói chuyện với gia đình và ông Cao người hàng xóm, nguyên trung úy pháo binh đã nghỉ hưu cũng đã từng học ở Trường Sĩ quan Pháo binh lại được khích lệ thêm tinh thần.
Tối hôm ấy gia đình bảo tôi sắp đặt quần áo và đồ dùng cá nhân rồi mai ra chỗ anh Kháng đang công tác tại Ty Văn hóa ở thị xã Hải Dương bắt xe đi cho tiện. Sáng hôm sau tôi đến bên bà, nói với bà là cháu phải đến trường quân đội. Lúc ấy bà tôi đã yếu lắm rồi. Cầm tay bà mà lòng xúc động cứ muốn khóc. Bà tôi nói: “Bà già rồi, chẳng biết sống bao lâu nữa nhưng thấy các cháu trưởng thành là bà mừng”. Bà dặn lên trường nhập học cho tốt, cố gắng phấn đấu. Tôi chào bà mà nước mắt cứ ứa ra. Tôi nói với bà tôi: “Cháu đi hôm nay nhưng rất lo vì bà đang ốm”. Bà tôi bảo rằng: “Cháu cứ yên tâm đi, ở nhà đã có bố mẹ và các cô các chú lo cho bà”. Thế là tôi ra đi, cùng Vàn là đứa em con bà cô, hai anh em đạp xe ra thị xã Hải Dương. Sáng ấy trời rét, đi ngược gió khiến hai anh em cứ phải nhoai người ra để đạp. Hai anh em vất vả lắm mới tới Hải Dương. Đến nơi gặp anh Kháng vừa đi làm việc về; biết tình hình, anh tôi bảo: Định chủ nhật về bảo tôi xem có đi học sư phạm thì anh xin chuyển cho vào Trường Cao đẳng Sư phạm của tỉnh. Tôi bảo: Em không thích sư phạm, vả lại lúc bấy giờ tôi đã chuyển cả giấy tờ vào học trường quân đội rồi. Anh không nói gì, bảo tôi nằm nghỉ rồi đi ăn cơm. Anh sang Ty Giáo dục xin giấy chứng nhận tốt nghiệp lớp 10 cho tôi. Tối hôm đó tôi cùng các anh trong Ty Văn hóa ra hội trường tỉnh xem Đoàn Kịch nói Hải Hưng diễn vở: “Bản tình ca màu xanh”...
Sáng hôm sau, tôi và anh Kháng ra bến xe khách thị xã mua vé đi Hà Nội. Xe khởi hành từ lúc trời còn mờ tối. Ra khỏi thị xã trời hửng sáng, mặt trời cuối thu đỏ quạch chiếu những tia nắng đầu tiên vào cửa chiếc xe khách tôi ngồi. Đây là lần đầu tiên tôi đi xa, thế là thực sự mình đã lớn và bước vào đời. Chao ôi sao nhanh đến vậy! Cuộc đời tôi kể từ bé đến bấy giờ cứ như một giấc mơ.
Hai anh em không quen đi xa, lại say xe cơ chứ. Tôi chóng mặt quá cứ buồn nôn hoài, anh tôi cũng vậy. Đến Bến Nứa là bến xe khách của Hà Nội; xuống xe, hai anh em mệt lả vào ăn phở rồi đi xích lô đến bến xe Kim Mã mua vé xe khách đi Sơn Tây. Trên chặng đường Hà Nội - Sơn Tây lại một phen “sóng gió”. Đường xóc kinh khủng, trên xe người chật như nêm. Chiếc xe chở khách cứ lù lù đi như rùa bò. Chen chúc giữa vòng người quá đông đúc, tôi chẳng biết gì bên ngoài cả; người cứ nôn nao khó chịu. Đến bến Sơn Tây xuống xe, anh tôi nôn thốc cả ra. Thương anh tôi quá, biết làm sao. Nghỉ một lát rồi hai anh em túc tắc đi bộ hỏi đường đến Trường Sĩ quan Pháo binh...
Cảnh vật Sơn Tây đập vào mắt tôi đầu tiên là con đường trải nhựa bóng loáng, phẳng lì do Cu Ba giúp ta xây dựng từ năm 1978. Trên đường rất đông bộ đội đeo quân hàm học viên sĩ quan: nền đỏ một gạch vàng ở giữa. Phố xá cũng nghèo nàn nhưng có nhiều hàng quán ven đường chủ yếu là bán hàng cho bộ đội. Xa xa, núi Ba Vì in hình trên nền trời xanh thẳm. Tôi nhập trường vào lúc đầu giờ chiều hôm đó là ngày 30 tháng 10 năm 1981. Bên cạnh anh em tôi, có rất nhiều chàng trai khác từ khắp mọi miền đất nước cùng đến nhập trường. Đưa tiễn họ là những người cha, người anh, người chị và một vài người có cả người yêu đưa tiễn nữa. Ngồi chờ một lát ở cổng thì có một anh mang quân hàm thượng úy pháo binh khá điển trai ra tiếp nhận, sau này được biết đó là anh Mỡn người quê Thanh Hoá công tác tại Phòng Cán bộ nhà trường. Làm thủ tục nhập học xong một lát rồi tôi bảo anh Kháng về kẻo muộn. Anh dặn tôi ở lại cố gắng yên tâm học tập đừng lo lắng về tình hình gia đình. Rồi hai anh em chia tay. Anh về Hà Nội nghỉ ở Nhà khách Bộ Văn hoá, sáng hôm sau đáp tàu hỏa về thị xã Hải Dương.
Anh Mỡn gọi điện vào Tiểu đoàn 3, lát sau anh Đảng, Chính trị viên tiểu đoàn ra nhận và đưa chúng tôi vào trong trường về các tiểu đoàn học viên. Chúng tôi đi trên con đường hơi dốc, hun hút về phía trước. Hai bên đường có rất nhiều cây rậm rạp. Vào trường, những học viên cũ ùa ra xem những chàng học viên mới, mọi người hỏi nhau tíu tít xem có ai cùng tỉnh với nhau. Tôi chẳng gặp ai cùng quê cả. Họ dẫn chúng tôi vào một căn phòng nói chuyện một lát rồi anh Đảng đưa chúng tôi về Đại đội 33. Lúc ấy Đại đội trưởng của chúng tôi đang nằm điều trị tại Viện quân y 105, chỉ có Chính trị viên đại đội Đoàn Phú chỉ huy đơn vị. Về phòng làm một số thủ tục khác rồi chúng tôi đi ăn cơm tối.
Bữa cơm đầu tiên trong đời lính chỉ có rau cải luộc và lạc rang đen cháy, cơm cũng khá trắng. Cả một ngày đi đường mệt nên chẳng đứa nào ăn được. Sáng ấy, ở bến xe thị xã Hải Dương, chị Là người cùng cơ quan với anh tôi đã mua cho tôi một chiếc bánh nếp nhét vào ba lô, lúc ấy mới bỏ ra ăn, mỗi đứa ăn một miếng rồi về nhà chỉ huy đại đội. Sau đó, anh Phú dẫn mấy học viên chúng tôi quê ở Hà Nội - Hà Sơn Bình - Vĩnh Phú về lớp 333. Lúc đó, lớp đã có một số học viên người quê Thanh Hoá vào nhập học trước đang lao động và chờ khai giảng. Học viên cũ, mới ồn ào cả lên, trò chuyện rất vui.
Đêm đầu tiên được nằm trong doanh trại, cảm thấy lòng nôn nao nhớ nhà, nhớ tất cả. Không hiểu ở nhà sức khỏe bà ra sao? Ngày tiếp sau bọn tôi nghỉ và thứ hai thì bước vào học tập chính trị. Đời quân ngũ của tôi bắt đầu như thế đó. Hơn một tuần lễ sau khi vào trường tôi mới nhận được thư của anh Kháng báo tin bà nội tôi mất. Tôi đứng sững mà nước mắt cứ trào ra, cổ nghẹn ứ. Gần hai tháng sau, vào trung tuần tháng 12 năm 1981 lại hai chuyến xe đem quân số đến trường cho chúng tôi hơn 100 đồng đội là những người con quê Hải Hưng nhập ngũ; trong số đó có hai thằng bạn cùng học lớp 10 với tôi: thằng Yên và thằng Hoá. Bữa ấy, tôi đang đem liềm đi cắt cỏ cho cá thì xe chở bọn nó đến. Hai ngày sau, khi tôi đang mang bát chạy đi ăn cơm thì đâm sầm vào thằng Yên cũng đang chạy ngược chiều. Hai đứa ôm nhau bằng cả nỗi niềm của cảnh xa nhà lúc ấy.
Đấy! Thưa các bạn! Mùa thu năm 1981 đã đưa tôi vào lính pháo như vậy. Và mùa thu ấy đối với tôi không thể nào quên!