Tám năm bảy tháng là thời gian tôi trực tiếp phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Những con số đó có thể vô nghĩa với mọi người; nhưng với riêng tôi đó lại là một con số cực kỳ quan trọng và hết sức có ý nghĩa, là con số mà tôi không thể nào quên! Sau khi rời quân đội, đi thi vào Trường Đại học Văn hóa Hà Nội; trong khi chờ đợi để nhận thông báo kết quả của kỳ thi tuyển sinh quốc gia vào đại học năm 1990, có thời gian rảnh rỗi, tôi muốn suy nghĩ và nhớ lại về những sự kiện, những việc đã làm, và điều đã đến, đã xảy ra đối với tôi trong khoảng thời gian trong quân ngũ ấy. Đó là khoảng thời gian tôi học tập và rèn luyện tại Trường Sĩ quan Pháo binh, trên cương vị người học viên sĩ quan chỉ huy pháo binh.
Thời gian đã trôi đi, những chuyện trong thời gian tại ngũ tôi cũng đã quên nhiều… Tất cả những điều đó có thể làm giảm mức chính xác, sự chi tiết của các sự kiện. Song nó không thể làm tôi quên những năm tháng ấy: Những năm tháng tươi đẹp nhất của một đời người, cả một thời trai trẻ ấy tôi đã dành cho Tổ quốc. Với chiếc ba lô sau lưng, khẩu súng trên vai; trong đội hình cùng những đồng đội, tôi đã đi được một chặng đường vinh quang của thời trai trẻ; chặng đường ấy, dẫu chưa dài chỉ với tám năm bảy tháng.
*
Tháng 10 năm 1981, đêm đầu tiên nằm trong doanh trại quân đội, tôi trằn trọc không sao ngủ được, nhớ về gia đình, nhớ bà nội đang ốm mệt mà nước mắt cứ trào ra. Xung quanh, mọi người đã ngủ say, còn mình tôi thao thức trằn trọc với nỗi nhớ nhà và sự mới lạ trong đơn vị quân đội…
Mấy ngày sau đó, chúng tôi học chính trị một tuần, rồi được phát quân trang. Giã từ áo trắng tuổi học trò, khoác trên mình bộ quân phục xanh cũng là khoác vào nét kiêu hùng của những chàng trai trẻ. Tôi nhớ như in buổi lễ khai giảng đầu tiên của khóa học sĩ quan chỉ huy pháo binh. Hôm ấy nhà trường tổ chức tại hội trường lớn. Sau lễ khai mạc mười phút thì ở đồi phía bên kia của nhà trường, lễ khởi công xây dựng hệ thống giảng đường hiện đại do Liên Xô viện trợ cũng bắt đầu. Mở đầu bằng tiếng mìn phá đá, tiếng xe ủi đất gầm vang, hứa hẹn một ngôi trường khang trang cho các học viên học tập.
Khoảng một tháng rưỡi sau đó, vào một buổi chiều trung tuần tháng 12, sau khi đi học về, tiểu đội chúng tôi phải mang liềm đi cắt cỏ cho cá ăn. Chúng tôi đang cắt cỏ ở sân vận động lớn của nhà trường thì có hai chiếc xe Gát 66 chở đầy tân binh người Hải Hưng tới bổ sung cho đội ngũ học viên sĩ quan. Trong đám tân binh đó có cả bạn bè cùng thời cấp ba với tôi. Chiều tối hôm đó trong lúc đi ăn cơm tôi vô tình chạm trán với một người: Trời ơi! Thằng Yên! Thằng bạn thân nhất của thời học sinh trung học của tôi. Sao mày lại vào đây? Niềm vui, nỗi mừng không sao tả xiết lại được nhân lên gấp bội khi Yên báo tin cả thằng Hóa cũng vào trường cùng. Thế là ba thằng bạn thân thuở học trò ở Trường cấp ba Thanh Miện, giờ đây lại chụm lại thành một bếp kiềng vững chãi và ấm áp tình bạn trong Trường Sĩ quan Pháo binh. Cho mãi đến sau này, tôi vẫn nghĩ rằng nếu như không có hai thằng bạn ấy cùng học và sống trong trường thì mình sẽ ra sao nhỉ? Sẽ khó có thể vượt qua mọi thử thách để có như ngày hôm nay.
*
Giai đoạn đầu khóa học, chúng tôi tập trung vào học tập chính trị và từng bước làm quen với các môn chuyên ngành chỉ huy pháo binh. Những giờ học trên giảng đường, những giờ ra bãi tập, chúng tôi nâng niu những khẩu súng, khẩu pháo trên thao trường. Những giờ luyện đội ngũ, lăn, lê, bò, toài, chế độ, điều lệnh… Cường độ rèn luyện cao, chế độ ăn uống kham khổ, thiếu thốn; tuổi 17, sức ăn, sức ngủ, sức lớn nên rất đói! Chao ơi là đói! Những ngày mùa đông trên mảnh đất Sơn Tây, cái giá lạnh cũng thật là khủng khiếp! Đúng, phải dùng từ khủng khiếp mới diễn tả đúng cái rét mà chúng tôi phải chịu đựng và vượt qua trong những ngày ấy.
Tôi nhớ mãi đêm đầu tiên cầm cây súng gác, phiên gác mà tôi đảm nhận vào giữa một đêm mùa đông. Mục tiêu bảo vệ là cái nhà bếp của tiểu đoàn. Theo đúng điều lệnh canh phòng, phải mang súng trên người, chăm chú quan sát xung quanh mục tiêu, nhiều lúc lại ghé sát tai xuống đất để nghe xem có tiếng động nào khả nghi không. Nhưng chao ơi, nào có gì đâu, chỉ có gió lùa buốt lạnh và ở xa kia là tiếng rít của những chú lợn rét không ngủ được, rên rỉ cùng gió bấc… Cho đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ cảm giác rét buốt, bỡ ngỡ trong ca gác đầu tiên ấy.
Rồi khoảnh khắc thời gian cũng đã trôi đi, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ trong ca gác; thở phào vì người thay thế đã tới, tôi trao cây súng rồi về nhà chui vào chăn mà đánh đàn răng trong chiếc chăn chiên mỏng. Nhưng rồi cái rét không thắng được cơn buồn ngủ. Chẳng mấy chốc thì tiếng kẻng báo thức cũng vang lên. Lại một ngày sôi động; sít sao về chế độ học tập, rèn luyện bắt đầu…
Sau ba tháng huấn luyện kết hợp với học kỹ thuật chuyên ngành, lớp chúng tôi tổ chức kiểm tra bắn đạn thật súng bộ binh. Thao trường bắn dưới chân núi Vai hay còn gọi là đồi Kiên cách trường khoảng năm ki-lô-mét. Với sự tự tin, nắm chắc yếu lĩnh bắn, với ba viên đạn AK tôi đã bắn đạt 28 điểm: hai điểm chạm vòng 10 và một điểm chạm vòng 8, đạt loại Giỏi và ngay lúc ấy được anh Tuấn lớp trưởng, người Nghệ Tĩnh thưởng cho một điếu thuốc lá Sông Cầu - loại thuốc lá thượng hạng lúc bấy giờ mà không phải lúc nào chúng tôi cũng có để hút.
Tiểu đội của chúng tôi có mười hai anh em quê ở các tỉnh phía Bắc do anh Quyền - Hạ sĩ Tiểu đội trưởng. Anh Quyền vốn là bộ đội đã nhập ngũ được khoảng ba năm, từ đơn vị về trường học tập nên cũng đã chững chạc, chỉ bảo cho chúng tôi từng tý một: từ cách gấp chăn màn sao cho vuông vắn, rồi đến các động tác luyện tập đội ngũ: đi đều, đi nghiêm theo điều lệnh…
Năm 1981, Nhà trường sĩ quan pháo binh kỷ niệm tròn 30 năm thành lập (1951-1981). Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm, chúng tôi phải làm bao nhiêu công việc, từ quét dọn vệ sinh doanh trại, luyện đội ngũ chuẩn bị diễu hành truyền thống đến thao diễn kỹ thuật binh chủng pháo binh. Lớp chúng tôi phải tổ chức hai khẩu đội pháo thao diễn để đưa lên truyền hình; tôi là pháo thủ số 5, khênh càng pháo bắn thẳng 85D44 thật là nặng. Gần ngày kỷ niệm thành lập trường, chúng tôi được xem những thước phim trên vô tuyến truyền hình quay cảnh học viên ngồi học, khênh pháo, thao tác trên trận địa. Chỉ có năm phút trên màn ảnh nhỏ nhưng khẩu đội pháo của chúng tôi đã phải bỏ không ít mồ hôi, sức lực để luyện tập.
Như đã nói, thời gian đầu trong quân ngũ với chúng tôi thật là mệt và rất đói. Là khóa thí điểm của Bộ Quốc phòng đào tạo sĩ quan chỉ huy pháo binh từ nguồn những học sinh trung học chưa trải qua thời gian huấn luyện trong quân ngũ. Do vậy, chúng tôi vừa phải trở thành người lính thực thụ, vừa phải học tập, rèn luyện để trở thành người sĩ quan chỉ huy. Giữa mùa đông, cái rét, cái đói cứ bám lấy anh lính trẻ. Giữa giờ học, chúng tôi thường ra căng tin nhà mua bánh rán để ăn. Thứ bánh làm bằng bột sắn rán với bơ cứng quèo. Bánh không nhân nhưng với chúng tôi lúc ấy sao mà ngon đến vậy. Với tuổi trẻ chẳng có khó khăn nào mà không thể vượt qua. Chúng tôi luôn động viên nhau: “Đời lính mà” rồi mọi nhọc nhằn, lo lắng đều mau quên hết. Mỗi sáng ra thao trường hay lên giảng đường, chúng tôi đội ngũ thẳng hàng, hát vang bài hát: “Tiến bước dưới quân kỳ”:
“Vừng Đông đã hửng sáng,
Núi non xanh ngàn trùng xa
Tổ quốc bao la hiền hòa,
Tươi thắm bóng cờ
Vờn bay trên cao
Muôn trái tim này, hòa nhịp cùng ngàn lời ca trong sóng lúa
Lấp lánh sao bay trên Quân kỳ…”.
Có hôm cả lớp đi chưa đều, chưa chuẩn; chỉ huy đại đội, chỉ huy tiểu đoàn lại chỉ thị cho quay về cửa lớp đi lại, hát lại trên đường xuống nhà ăn. Đến cửa nhà ăn, lại phải xếp hàng, trực ban chỉ từng mâm vào; đang ăn mà mất trật tự, ồn ào, chỉ huy nhà ăn thổi còi, phải bỏ bát đũa xuống ra ngoài tập trung vào ăn lại. Chuyện đó đâu có hiếm vì cả bọn chúng tôi thanh niên trai trẻ, đang vô tư mà, thiếu gì chuyện. Bữa sáng được một bát cơm, có thời kỳ buổi sáng mỗi người được một cái bánh mỳ luộc to bằng nửa nắm đấm. Có một lần bánh mỳ được nhà bếp luộc từ tối, vớt ra bỏ vào rổ cho nguội, đêm không biết anh chàng nào gác đã ranh mãnh dùng xiên thò qua cửa sổ “tiêu diệt” mất 70 chiếc. Thế là sáng hôm sau, 70 chàng học viên sĩ quan pháo binh phải đành “cho qua” cái vụ ăn sáng! Đến trưa lại không được ngủ, phải đưa nhau ra gốc cây xà cừ ở ngoài sân doanh trại để tổ chức “sinh hoạt” tìm cho ra “thủ phạm” mà nào đâu có thấy! Còn đây nữa; một sáng tinh mơ, khi tiếng kẻng báo thức dậy tập thể dục, nhà ăn mở cửa cho trực ban các đại đội vào nhận cơm trước khi phân cho bộ đội. Tranh tối tranh sáng, nhà ăn thì rộng, một anh chàng nào đó đột nhập vào “rinh” mất một xoong cơm là suất ăn của bảy người. Vừa lúc đó, Tiểu đoàn trưởng Hằng đi kiểm tra việc tập thể dục buổi sáng của các đại đội, phát hiện ra “tên kẻ trộm”, lập tức rượt đuổi. Dù không đuổi kịp, nhưng cũng làm cho anh chàng “trộm cơm” phải quăng chậu tháo chạy. Cả tiểu đoàn biết chuyện, lại một tiếu lâm ký, bổ sung cho ngàn lẻ một chuyện buồn… cười của lính pháo. Trong lớp tôi có anh Hoàng Lễ, người Vĩnh Phú, nguyên Trung sĩ quân tình nguyện ở Campuchia về học, anh người cao, gầy, suốt ngày ôm cây ghi ta và cái điếu cày. Qua sự việc này, hôm sau anh Lễ bập bùng thêm giai điệu: “Sáng sớm hôm qua, trong bếp xuất hiện anh chàng, anh, anh chàng - Tay bưng mâm cơm chạy nhanh, chạy nhanh như gió - Mắt kém hơn ai, ông Hằng khó phân, khó, khó phân…”. Đã qua lâu rồi những ngày đói mà tôi vẫn còn nhớ và viết kỹ như vậy, chắc mọi người sẽ cho rằng tôi có một tâm hồn “ăn uống”. Cứ cho là thế đi, nhưng đó là kỷ niệm của những ngày đầu trong quân ngũ của tôi.
Trước cổng Trường Sĩ quan Pháo binh của chúng tôi là Trường Cao đẳng Ngân hàng Sơn Tây, bên đó rất đông sinh viên là các cô gái xinh đẹp, trẻ trung. Mỗi buổi tối thứ bảy, chủ nhật, được nghỉ sinh hoạt đơn vị là chúng tôi thường sang bên đó chơi. Các em nữ sinh viên sống cũng rất khó khăn. Hằng ngày, đến bữa ăn chúng tôi thấy họ phải bưng thau cơm, rá cơm từ nhà ăn tập thể về nơi ở cách khoảng 300 mét; đi trên con đường bụi mù mịt. Chúng tôi thường trêu là các em ăn cơm với đặc sản muối vừng! Có phải đâu, chẳng qua là bưng rá cơm về được đến nhà thì đã được phủ một lớp bụi mỏng bên trên. Vào ngày nghỉ, chúng tôi thường ra quán ven đường mua sắn luộc ăn, 5 hào một đĩa to, cũng thường gặp các em nữ sinh viên ngân hàng ngồi đấy rồi. Thật đúng là: “Bụng to, đói lớn, thường dễ gặp nhau bên bàn… sắn luộc!”.
Trong quá trình học tập, ngoài giờ học kỹ thuật chuyên ngành chỉ huy pháo binh, chúng tôi còn phải tham gia lao động, tăng gia sản xuất. Trại tăng gia của chúng tôi mang tên “Trại 410” nhưng chúng tôi thường gọi là “bốn trăm mù” do cuộc sống ở đó rất khó khăn, gian khổ. Hằng năm, các lớp học viên chúng tôi phải thay nhau vào lao động, tăng gia sản xuất, cấy lúa trồng khoai, làm cỏ lúa, cỏ mía, chăn bò… thôi thì đủ cả. Trại nằm dưới chân núi Múc ở Hoà Lạc cách trường chúng tôi trên 20 ki-lô-mét. Không có xe ô tô chở đi; chúng tôi phải hành quân “rèn luyện”. Trên vai mang đủ gia tài của người lính, ngoài ra còn cõng thêm gạo, mắm muối xoong nồi, dụng cụ lao động; nhất là anh chàng nào được phân công phải có nhiệm vụ mang chảo quân dụng nấu cơm cho tập thể thì ôi! Thật là nhớ suốt đời! Thế rồi vượt qua tất cả, hành quân bộ lại mang vác nặng, lỉnh kỉnh thế cuối cùng cũng đến nơi.
Trưởng trại tăng gia là “ông” Xuyền - Đại úy. Sở dĩ chúng tôi gọi là “ông Xuyền sẹo” bởi trên mặt ông có hai vết sẹo lớn nên chúng tôi thường gọi thêm biệt danh “ông sẹo” hay là “Bá Kiến”, bởi ông rất “hắc xì dầu”, giao công việc lao động cho học viên rất nặng trong khi điều kiện ăn ở thì rất tạm bợ. Chả trách ông bà ta vẫn nói: “Trông mặt mà bắt hình dong…” thật quả không sai. Mỗi đợt đi lao động thường kéo dài 15 ngày. Thật là một đợt phải vượt qua khó khăn thử thách lớn, thế mà cuối cùng chúng tôi vẫn cứ vượt qua, hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Cách trại tăng gia 410 của chúng tôi khoảng 2 ki-lô-mét cũng có một đội tăng gia của Bộ Tư lệnh Pháo binh; ở đó có khoảng 30 “em” gái:
Tuổi đời tại ngoại hăm, băm…
Môi thâm, mắt trắng, thưa rằng “sốt run”.
Sốt run nghĩa là sốt rét, khi sốt run lên. Nước vùng ấy nghe nói rất độc, đa số ai sống ở đó đều sốt rét và mắc bệnh viêm gan vi rút. Tuổi các chị chưa phải là cao nhưng so với chúng tôi toàn những thằng con trai mới 17-18 tuổi thì phải gọi là chị! Sau một ngày lao động vất vả, buổi tối chúng tôi thường kéo quân sang thăm “các em”. Thật là khách quý, trò chuyện hát hò, trêu chọc cười đùa đến nổ trời trong đêm đen giữa vùng đồi núi hoang vắng. Các chị chiêu đãi chúng tôi những chùm dâu rừng chín mọng, những trái sim mọng nước ngọt lừ, và uống nước - một thứ nước lờ lợ, chua vàng, đọng đầy cặn lắng xuống đáy những chiếc bát sắt “B-52” to đùng. Vậy đó, có biết bao người con gái đã gửi tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình trong những khoảng rừng như thế; chưa kể tới những cô gái thanh niên xung phong đã cống hiến tuổi thanh xuân của các chị trong những cánh rừng bạt ngàn của Trường Sơn năm nào.
*
Sơn Tây - mảnh đất này là “Thủ đô của lính” như nhiều người vẫn nói; với một không gian không rộng lắm đã có tới hơn 10 trường đào tạo sĩ quan cho quân đội, đủ các quân binh chủng. Vào ngày chủ nhật, trên các nẻo đường, nhất là những con đường dẫn đến khu vực chợ Nghệ ở trung tâm thị xã Sơn Tây tràn ngập sắc áo xanh của lính. Hàng quán mua bán tấp nập, chủ yếu là hàng ăn uống. Ngày nghỉ, được đi chợ, giao lưu, mua bán vài thứ lặt vặt cũng còn là cái cớ để cho những nhóm bạn đồng hương tại các đơn vị trong quân ngũ của chúng tôi gặp gỡ, giao lưu bên ấm chè, điếu thuốc hay thỉnh thoảng khi mới nhận phụ cấp hoặc có đứa nào mới về nhà lên là “tươi tỉnh” chén rượu, bò lạc rang béo ngậy, thơm lừng. Hiếm khi có dịp đột xuất mà nhóm bạn nào đó được ngồi quây quần bên nhau nâng chén rượu trắng cuốc lủi “đong đưa” cùng miếng thịt chân giò lợn luộc thì thật là sự kiện để đời “ngàn năm có một”.
Là vùng đồi núi trung du, xung quanh Trường Sĩ quan Pháo binh của chúng tôi có rất nhiều đồi đất thấp hoặc nếu có cao thì cũng không cao lắm. Có nhiều quả đồi trọc trơ trụi, quanh năm phơi mình dưới nắng mưa; có những đồi được trồng cây xanh tốt… Tất cả chúng nằm san sát gối đầu lên nhau thành dãy dài ngắn, cao thấp, rất thuận lợi cho việc huấn luyện chiến thuật binh chủng.
Gần đến cuối học kỳ hai của năm thứ nhất, lớp mang phiên hiệu 333 của chúng tôi phải kéo pháo vào khu trường bắn nằm ngay Trại tăng gia 410 để bắn kẹp nòng - một hình thức bắn ngắm trực tiếp của pháo bắn thẳng, chỉ khác là thay đạn pháo bằng đạn súng trường CKC. Tất cả các yếu lĩnh đều như thao tác bắn pháo. Chỉ khác là gắn trên pháo bằng súng CKC, thay vì viên đạn pháo bay ra khỏi nòng sẽ là một viên đạn CKC nhằm vào mục tiêu với các phần tử bắn như một viên đạn pháo thông thường. Bọn tôi gọi đùa hình thức bắn tập như vậy là kiểu bắn của “pháo nhà nghèo”, bắn như vậy nhưng địch cũng tèo! Kết quả bắn kẹp nòng của lớp tôi khá tốt, riêng tôi bắn đạt loại giỏi. Sau đợt bắn kẹp nòng, lớp tôi bắt tay vào chuẩn bị cho đợt bắn đạn thật. Ôn luyện kỹ thuật và chiến thuật pháo binh. Để đảm bảo cho kết quả bắn đạn thật của khẩu đội, lớp tổ chức sinh hoạt chọn xếp đội hình trong khẩu đội. Vì là bắn ngắm trực tiếp nên pháo thủ số 1 là quan trọng nhất, là người trực tiếp nhấn cò tiêu diệt mục tiêu. Vinh dự như vậy nên ai cũng xung phong làm số một. Sau quá trình xem xét, lớp quyết định cho tôi được làm pháo thủ số một và thằng Thành làm khẩu đội trưởng. Đây thực sự là một vinh dự lớn lao mà trách nhiệm nặng nề đối với tôi. Chẳng phụ lòng đồng đội, chúng tôi lao vào ôn luyện cho thành thục mọi động tác. Khi công tác chuẩn bị đã xong xuôi, chúng tôi chuẩn bị quân tư trang cùng vật dụng, để sẵn vào trong ba lô, cần đi đâu chỉ khoác vào người là xong.
Trường bắn đạn thật của chúng tôi nằm sâu trong dãy núi Đồng Doi, tít mãi trong khu vực ngã ba Xuân Mai rẽ vào. Đợt bắn này chúng tôi sử dụng pháo bắn thẳng 76 ly; trên hai loại trận địa: trận địa có chuẩn bị trước và trận địa không chuẩn bị trước. Chúng tôi kéo pháo vào ở nhờ nhà bà con người dân tộc Mường xây dựng thao trường từ hơn một tuần trước, làm các công tác chuẩn bị cho đợt bắn đạn thật. Theo sự phân công của chỉ huy trường bắn, đại đội chúng tôi có 12 khẩu đội thì sáu khẩu đội bắn ở trận địa có chuẩn bị trước. Tức là pháo đã được thiết bị chắc chắn, đạn đã sẵn sàng, khẩu đội của chúng tôi nằm trong số này. Còn sáu khẩu đội pháo khác để ở vị trí cách trận địa 300 mét, xe sẽ kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa và trực tiếp ngắm bắn các mục tiêu ở chân núi.
Trước khi vào bắn, chúng tôi được xem khẩu đội giáo viên bắn thao diễn. Cả đại đội học viên chúng tôi xếp hàng ngang phía sau, cách khẩu đội pháo bắn chiến đấu 100 mét. Khi viên đạn rời khỏi nòng pháo, bay đi về phía mục tiêu, dù đứng cách xa phía sau nhưng sóng xung kích cực mạnh vẫn làm tung bay áo quần của chúng tôi đứng phía sau. Rồi cũng đến khẩu đội tôi vào bắn, chúng tôi bình tĩnh tiếp cận vào bên pháo. Mục tiêu chúng tôi phải tiêu diệt là chiếc lô cốt nằm khuất dưới sườn đồi. Chúng tôi nhớ mãi ngày hôm ấy. Và riêng tôi có một kỷ niệm nhớ mãi lần diễn tập ấy với kết quả và hậu quả của nó. Khẩu lệnh bắn của Khẩu đội trưởng Thành đã vang lên: “Mục tiêu lô cốt, đạn nổ phá ngòi chậm vừa, liều nguyên, góc tầm 00-11, độ. Độ hướng 30-00, ngắm giữa cửa bắn! Nạp đạn! Bắn!”.
Từ tầm xa 2.700 mét, mục tiêu lọt vào trong ống kính. Cậu Tam số 3 nạp đạn và tôi nhấn cò. Dẫu đã chuẩn bị tinh thần từ trước nhưng khi tay phải nhấn cò, tiếng nổ gầm vang, viên đạn bay rít đi làm chúng tôi giật nảy cả người. Khi chưa kịp định thần thì bên tai đã nghe tiếng quát: “Đánh dấu điểm chạm, nạp đạn!”. Thì ra viên đạn đã không bắn trúng mà cày sát dưới chân mục tiêu. Khẩu đội trưởng Thành đã phán đoán sai cự ly, thước tầm hơi gần nên viên đạn ăn xuống dưới. Đúng ra sau viên đạn đầu chúng tôi phải tăng thước tầm nhưng khẩu đội trưởng là cậu Thành đã quyết định sai phương pháp là “đánh dấu điểm chạm”. Dùng núm cao thấp đưa đường tim chữ thập trong kính vào điểm nổ của viên đạn trước rồi dùng máy tầm, máy hướng đưa vào giữa cửa ngắm rồi lại đạp cò. Viên đạn lần này làm sạt một phần lô cốt. Vẫn phải tiếp tục bắn để tiêu diệt mục tiêu; nhưng do từ phát đạn thứ hai trở đi khẩu pháo đã bị lung lay nên đường đi của viên đạn bị ảnh hưởng do sức giật không đều hai càng của phản lực. Vì đó mà cho đến phát đạn thứ năm - hạn định cuối cùng của mỗi một khẩu đội được bắn, chúng tôi vẫn chưa hạ được mục tiêu. Đúng ra dưới góc độ thương tích thì mục tiêu coi như đã bị tiêu diệt, nhưng vì đây là hình thức “bắn phá hủy” nên yêu cầu phải bắn cho mục tiêu sụp đổ hoàn toàn. Vậy nên đơn vị xác định khẩu đội tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ! Thất bại ê chề, rã rời, chúng tôi lếch thếch kéo quân ra, không gì có thể diễn tả được nỗi đau; đúng, nỗi đau người lính pháo binh lần đầu ra trận đã không hoàn thành nhiệm vụ! Cho đến tận bây giờ tôi vẫn không quên và đau khổ mỗi khi nhớ đến kỷ niệm buồn này. Chao ôi! Đồng Doi - nơi mảnh đất chúng tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên ở đó. Thật là một kỷ niệm buồn không gì diễn tả hết được. Tôi không có ý định đổ lỗi cho ai bởi bộ đội pháo binh là chiến đấu hiệp đồng cao, là pháo thủ số 1, tôi chỉ thao tác theo các phần tử bắn được Khẩu đội trưởng hô; phần tử bắn sai, viên đạn sẽ bay không trúng đích. Mặc dù vậy, là pháo thủ số 1, trực tiếp nhấn cò mà viên đạn lại chưa phá hủy được mục tiêu nên tôi không thể không tự trách mình. Nhìn chung, đợt diễn tập bắn đạt thật lần đầu tiên của Tiểu đoàn 3 học viên chúng tôi lần ấy là một bài học đáng nhớ. Trong số 12 khẩu đội pháo tham gia diễn tập bắn đạn thật, không riêng gì khẩu đội tôi ngày hôm đó mà còn có tới cả 5 khẩu đội đều không hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt được mục tiêu. Lần đầu tiên đi bắn đạn pháo thật, chưa tiêu diệt được mục tiêu; cũng một phần do điều kiện khó khăn thiếu thốn đạn pháo chúng tôi toàn học chay, nên khi vào trận mới thiếu kinh nghiệm.
Sau đợt diễn tập bắn đạn thật, tập thể đại đội, lớp, liên tục tổ chức sinh hoạt rất nhiều lần để kiểm điểm. Riêng với tôi, mặc dù tất cả các môn học, kết quả thi tuy đều đạt loại khá giỏi nhưng vẫn không đạt danh hiệu học viên tiên tiến và chưa được kết nạp Đảng.
Lại nói về chuyện vào Đảng; trong lớp tôi có hơn 30 học viên thì chỉ có hai anh lớn tuổi là đảng viên (đây là những anh đã đi bộ đội được mấy năm, được đơn vị gửi đi học) còn lại chúng tôi đều là học sinh phổ thông tuyển vào cho nên đứa nào cũng đều đặt mục tiêu phấn đấu để sớm được kết nạp vào Đảng. Đợt đầu tiên lớp tôi kết nạp được hai đứa: thằng Khánh và thằng Thành, mấy đứa tôi xếp hàng dự bị “hạng hai”, phấn đấu cực kỳ gian khổ! Trước hết phải học cho giỏi, tất cả những gì thuộc về cuộc sống sinh hoạt của người học viên đều phải chấp hành rất nghiêm túc: từ ăn ở, chấp hành các chế độ đến việc giúp đỡ đồng đội tiến bộ. Trong lớp, tôi được giao phải giúp đỡ cho hai đứa học kém nhất lớp là thằng Lệ và thằng Nhân đều người quê Thanh Hóa. Thằng Nhân còn đỡ chứ thằng Lệ phải nói thẳng ra là cực kỳ chậm tiếp thu. Ngoài việc học của riêng mình đã vất vả lại phải kèm thêm hai đứa nhưng tôi vẫn đảm bảo việc học tốt. Các đợt kết nạp vào Đảng đều được tiến hành sau mỗi đợt thi, căn cứ kết quả thi để chi bộ xét kết nạp hay chưa kết nạp. Riêng đợt tôi, anh Phú, Bí thư chi bộ tuyên bố: Phải thi giỏi mới trở thành đảng viên được! Bọn chúng tôi đã phấn đấu đạt được mục tiêu ấy. Với kỳ thi tám môn, tôi đã có bảy môn đạt giỏi và một môn đạt khá. Từ những kết quả học tập và rèn luyện xuất sắc như vậy, sau cái lần bị bắn trượt, nên bị cho “rớt” ấy đến ngày 28 tháng 11 năm 1983, chỉ sau hai năm vào quân đội, tôi đã vinh dự được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới 19 tuổi. Kết thúc năm học thứ nhất, do thành tích học tập và rèn luyện, chúng tôi đều được thăng quân hàm vượt cấp từ binh nhì lên hạ sĩ.
Tôi nhớ lần chuẩn bị cái tết đầu tiên trong đời bộ đội, chúng tôi đều náo nức bồn chồn, đứa nào cũng mong được về đón xuân cùng gia đình vì tuổi mới lớn nên khoảng thời gian xa gia đình cả nửa năm trời là cả một khoảng thời gian dài dằng dặc, bao nhiêu nỗi nhớ: gia đình, bè bạn. Các môn thi đã xong, kết quả đã được thông báo tôi hoàn toàn yên tâm với tiêu chuẩn số một của mình: tất cả các môn thi đều đạt loại khá giỏi và trong suốt học kỳ không một lần nào vi phạm kỷ luật. Tiêu chuẩn được về tết đã nằm trong tầm tay! Để chuẩn bị cho nghỉ tết, lớp tôi phải thay phiên nhau đi lấy rau lợn để dự trữ thức ăn cho đàn lợn của tiểu đoàn trong dịp nghỉ. Trời Sơn Tây giá rét, cái rét cắt da cắt thịt mà chúng tôi vẫn phải cởi quần áo lặn ngụp dưới dòng sông Tích để lấy rong cho lợn. Khi lấy được xe rong thì người đã tím tái hết, mấy đứa trong tiểu đội phải vào quán cây Mít ven sông để sưởi ấm người. Chỉ còn vài ba ngày nữa là đến dịp nghỉ Tết Nguyên đán, chúng tôi mỗi đứa được phát một ki-lô-gam bánh quy, một bao thuốc lá Sông Cầu và một bao thuốc Sa Pa. Tối hôm đó, nhân có quà tết, ba thằng chúng tôi: Sáu - Yên - Hóa rủ nhau đi chơi. Trời mưa phùn bay lất phất; không có giấy ra vào ngoài cổng chính, chúng tôi kéo nhau ra đằng cổng phụ định xin vệ binh gác cổng cho ra ngồi uống nước. Nhưng vẫn không xin được ra ngoài, cả ba đứa đành kéo nhau về khu vực chăn nuôi của nhà trường kiếm một đầu hè sạch sẽ kín gió, trải ni lông rồi bày bánh kẹo, thuốc lá ra vừa ăn vừa trò chuyện. Biết bao nhiêu suy nghĩ, dự định đã được đặt ra chuẩn bị cho việc về tết. Trong lớp học viên của tôi đa số ở xa nên những đứa nhà ở gần như Hà Nội - Hà Nam Ninh - Hải Hưng phải thay phiên trực lớp, gác ở các điểm trong nhà trường cho các bạn ở xa được về quê ăn tết. Riêng tôi, nếu cứ tính theo tiêu chuẩn đã đạt được của người học viên thì hoàn toàn không phải trực tết. Song vì lớp thương lượng nếu không trực giúp thì đồng đội hoàn toàn không được nghỉ về quê dịp tết. Thế là trưa ngày mồng Hai Tết, tôi phải từ nhà tới trường, thật là buồn bã biết bao nhiêu, song không còn cách nào khác.
Sang năm học thứ hai, để rèn luyện tác phong chỉ huy, chúng tôi phải thay phiên nhau thực tập làm trung đội trưởng. Mới ngày hôm qua còn là một học viên bình thường như bao người khác trong lớp, hôm nay đã phải gương mẫu, dậy sớm đôn đốc mọi người tập thể dục buổi sáng, trực nhật phòng, kiểm tra nội vụ, dẫn bộ đội đi lên giảng đường hay ra thao trường cho đúng đội ngũ. Bao nhiêu việc dẫu chỉ nằm trong khuôn khổ mà vẫn thấy khó xử. Bởi ngoài điều lệnh điều lệ ra còn có biết bao nhiêu ràng buộc về tâm lý, tình cảm của những kẻ cùng trang lứa với nhau. Cả ngày, cả tuần lao vào học tập chỉ có mỗi tối thứ bảy và ngày chủ nhật nghỉ ngơi mà thường thì cứ tối đó là nhà trường có tổ chức chiếu phim cho học viên xem. Cả lớp, cả đại đội phải xếp hàng tập trung đi xem, không ai được quyền nghỉ không lý do.
Thật đúng là nghĩa vụ được xem phim, phải được thưởng thức văn hóa nghệ thuật! Ngày chủ nhật thì sáng lại thường làm lao động được gọi là lao động “cộng sản chủ nghĩa”.
Theo kế hoạch của Phòng Huấn luyện chiến đấu Trường Sĩ quan Pháo binh, trong một năm học ngoài chương trình huấn luyện chung ra, chúng tôi còn phải đi lao động ở Trại tăng gia 410 của nhà trường. Tổ chức canh gác ngày và đêm trên 22 mục tiêu trong nhà trường; nếu chỉ một ca bỏ gác là cả đại đội đều bị phạt gác và còn kèm theo bao nhiêu phức tạp phiền toái nữa. Suốt cả đêm đông, với khẩu súng thép lạnh giá, chúng tôi thay nhau gác, co ro trước cái lạnh đến tê tái mà ngắm nhìn màn sương giá bay bay, rơi tí tách…
Trong thời gian học tập ở trường, với khả năng vốn có của mình và cả dưới sự hướng dẫn của anh Phú, Chính trị viên, kiêm bí thư chi bộ, tôi đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo tường của đại đội và là cộng tác viên đắc lực cho đài truyền thanh nhà trường. “Thù lao” chẳng có gì, ngoài khả năng “luyện bút” cho mình. Và ngay cho đến tận bây giờ tôi vẫn đang mài bút, luyện bút, dẫu chẳng đi đến đâu, chẳng để lại cho đời tác phẩm gì sáng giá thì cũng là cách sử dụng thời gian một cách “văn hoa”, “chữ nghĩa” mà thôi.
Cuối năm ấy, nhà trường lại tổ chức diễn tập bắn đạn thật. Với kết quả học tập tốt của mình tôi được giao nhiệm vụ làm kế toán viên trên đài quan sát chỉ huy pháo binh, tính toán phần tử bắn cho các khẩu đội. Trải qua quá trình huấn luyện và rút kinh nghiệm nên thao tác phối hợp hiệp đồng trong khẩu đội cùng yếu lĩnh động tác được nâng cao hơn. Sau ngày diễn tập bắn đạn thật, căn cứ vào kết quả chung của cả đơn vị, đại đội chúng tôi được thưởng một con lợn giống khoảng năm kilôgam cả đơn vị trích quỹ nuôi đến cuối khóa ra trường được hơn một tạ, đại đội mổ liên hoan ra trường ăn lu bù hai ngày không hết.
Trong quá trình đào tạo, môn học chuyên ngành quan trọng nhất là Bắn pháo. Do không có thao trường chuyên dụng cho pháo, trường bắn rộng và đạn pháo huấn luyện có hạn nên chúng tôi được huấn luyện tại sa bàn bắn, với một mô hình là bản đồ 1/10.000 với hệ thống các lầu bắn, sử dụng pháo là súng tiểu liên K50, nòng súng giá vào các giá gỗ được điều khiển bằng các tay quay tầm hướng có giá trị như các ống thước tầm và vành độ hướng trên thân các khẩu đội pháo. Đạn sử dụng cho tiểu liên K50 là đạn của súng K54. Kết quả bắn cũng tương đối đảm bảo mức độ chính xác. Với hệ thống 13 đài quan sát cùng 13 trận địa bắn và được điều khiển chỉ huy bởi 2 lầu bắn được xây dựng quy mô hiện đại ở phía sau. Một lầu chỉ huy bắn do các chuyên gia Trung Quốc xây dựng từ năm 1957 nhưng đã bị bom Mỹ đánh hỏng từ những năm 1966-1967. Lầu chỉ huy bắn thứ hai do Liên Xô xây dựng năm 1978 thật bề thế và hiện đại. Để tránh nguy hiểm cho người và vật, trường bắn được đắp một bờ hào đất khá cao trước sa bàn để chắn đạn. Những ngày trời mưa thì quan sát thật là dễ bởi vì điểm chạm do viên đạn găm làm nổi bật lên trên nền sa bàn; nhưng với ngày nắng thì điểm chạm quan sát rất khó khăn do nền đất cứng khiến cho viên đạn bị thia lia khi chạm vật cứng, chỉ bùng lên một đám bụi nhỏ rồi vọt lên cao vượt qua tường chắn, rít u… u… trong không khí nghe đến rợn người.
Hằng tuần chúng tôi chỉ có ba buổi học, nhưng với một số lượng học viên đông không thể trực tiếp chỉ huy bắn được hết nên các buổi trưa, chiều tối trước giờ ăn cơm hay vào các ngày chủ nhật chúng tôi đều phải đi luyện thêm ngoài giờ công tác chỉ huy bắn. Nhưng các buổi học thêm này đều là sự hứng thú tự giác của học viên không ai gò ép mà đều vui vẻ đi học bởi nó có liên quan đến kết quả khi ra trường và việc chỉ huy chiến đấu pháo binh sau này. Trong tất cả các môn học, có lẽ vất vả nhất là môn binh khí và môn thao tác; bởi vì với hai môn học này chúng tôi phải sử dụng sức lực cơ bắp của chính mình để khênh pháo, đẩy pháo chiếm lĩnh trận địa, thiết bị bắn hoặc tháo lắp lau chùi bảo quản các bộ phận chi tiết của khẩu pháo. Các chi tiết phụ tùng pháo binh do Liên Xô hoặc Trung Quốc sản xuất đều rất cồng kềnh và nặng nề. Chỉ với sáu pháo thủ mà đẩy một khẩu pháo bắn thẳng 85D44 hay khẩu lựu pháo 122M30 khối lượng năm đến bảy tấn thì thật là quá sức tưởng tượng. Những hôm thao tác với các khẩu đội pháo chiến lược tầm xa Canon 130M46 của Liên Xô hay Canon 130K59 của Trung Quốc thì thật là vất vả. Không phải là bảy hay tám người nữa mà lúc này là cả lớp hơn 30 con người cùng phải “đánh đu” vào mà đẩy cho được khẩu trọng pháo tầm xa ấy di chuyển. Vào những lúc gần trưa, trời nắng, bụng đói, học thao tác chuẩn bị bắn và bắn thì thật là nhọc. Tôi xin trích ra đây nguyên văn một câu hô chỉ huy bắn mà các chàng học viên sĩ quan pháo binh chúng tôi “chế tác” ra trong những tình huống gian khổ ấy: “Đại đội nắng, mục tiêu chạy đâu tiệt - Đạn khổ quá, ngòi tức mình, liều thân!... Bắn!”.
Thao trường chính của chúng tôi là dãy đồi và thung lũng chạy dài dưới chân núi Tản Viên (Ba Vì). Xe kéo pháo của chúng tôi đã thường xuyên gầm rú trong một khoảng không gian rộng lớn. Những sườn đồi thoai thoải, mơn mởn cánh đồng cỏ của Nông trường Ba Vì; những đồi sim mua đầy hoa tím thật là lý tưởng cho việc thiết kế đặt các trận địa pháo binh. Dân cư cũng thưa thớt, ngoài cây lúa nước ở các thung lũng thì họ tập trung vào việc trồng các cây hoa màu: sắn, lạc… trên các sườn đồi chính vì vậy mà lạc, sắn rất nhiều, bán với giá khá rẻ, phù hợp với đồng phụ cấp ít ỏi của những chàng học viên sĩ quan chúng tôi. Mỗi buổi đi học, lớp chúng tôi thường mang theo một xoong quân dụng to, khi đến thao trường thì cử hai người ở dưới chân đồi làm nhiệm vụ hậu cần vào nhà dân lo mua sắn hoặc lạc rồi luộc luôn nhờ trong đó. Đến giờ giải lao giữa buổi học là lớp đã có một nồi sắn luộc vừa bùi vừa bở bồi dưỡng giữa ca để nâng cao “sức mạnh chiến đấu” cho đơn vị!
Dẫu khó khăn gian khổ, dẫu thiếu thốn thiệt thòi, những chàng trai 19-20 tuổi chúng tôi hồi ấy vẫn cứ hồn nhiên yêu đời và yêu người. Yêu đời bằng cách vượt lên trên những khó khăn thường nhật của đời thường. Tiếng đàn, tiếng hát không bị yếu đi khi những chậu cơm vơi, không bị nhạt đi sau những chậu nước chấm còn mặn chát! Tuổi trẻ mà, với tất cả những tiềm năng dồi dào của tuổi thanh niên đã phải huy động hết ra để chống trả những khó khăn, gian khổ trong cuộc sống hằng ngày của người học viên. Yêu người hay người yêu thì lại ở quá xa, ít nhất ai gần nhất cũng là 40 cây số (bởi vì những chàng trai Hà Nội là gần cũng cách xa trường 40 ki-lô-mét). Rồi những chàng trai quê xứ Thanh, xứ Nghệ… người thân của các bạn ấy còn ở xa hơn nữa. Trong số các học viên pháo binh, anh chàng Mai Nghĩa Nhân - bạn thân của tôi có yêu cô bé tên Mai ở cùng quê nhưng cô nàng lại học Đại học Nông nghiệp 3 tại cố đô Huế. Chẳng hiểu hai đứa giận dỗi nhau thế nào mà cô nàng Mai viết ra một bức thư đầy nước mắt, giận hờn. Lúc ấy, là người đứng giữa đảm nhận trách nhiệm “sứ giả hòa bình” tôi đã viết một bài thơ mang tựa đề “Bài thơ chưa kịp đặt tên” với mục đích hòa giải cho chàng và nàng. Trong bài thơ có một đoạn nói lên những ước vọng giản dị bình thường của những chàng trai mặc áo lính:
“Là tình yêu sao cứ phải yêu cầu?
Phải đòi hỏi ở người mình yêu dấu,
Hờn giận nhiều nhưng cũng đừng nên cáu!
Đừng trách hoài, trách mãi nữa nghe em!”.
Thư qua thư lại, tình thân giữa chúng tôi: hai chàng lính và một cô sinh viên đại học ở mãi trong thành phố Huế ngày một bền chặt, dẫu khoảng cách không gian là cả ngàn cây số. Sau khi ra trường bị mất thông tin không liên lạc; cho mãi đến năm 1989, tình cờ gặp thằng Hồng học cùng khóa ở Đại đội 32 (C32) công tác tại thị xã Kon Tum tôi mới biết chuyện tình duyên giữa thằng Nhân và cô nàng Mai không thành, chẳng hiểu vì sao nữa. Ôi những mối tình đầu của những chàng lính trẻ, được mấy phần trăm đi tới hôn nhân, hạnh phúc? Cuộc đời đã ngẫu nhiên tạo dựng cho họ gặp gỡ và yêu nhau rồi cũng ngẫu nhiên chia lìa đôi lứa.
*
Tháng 7 năm 1983, Khoá 23 đào tạo Sĩ quan chỉ huy Pháo binh của chúng tôi nhận lệnh đi thực tập tại các quân khu, quân đoàn phía Bắc kể từ Quân khu 4 trở ra. Trên các cương vị khác nhau: Đại đội phó, Trung đội trưởng chỉ huy, Trung đội trưởng hoả lực, Chủ nhiệm trinh sát thuộc các đơn vị pháo binh. Trước khi đi thực tập hai tháng, chúng tôi nhận được sự phân công về chức trách. Đoàn học viên chúng tôi đi Quân đoàn 2 về đơn vị pháo phản lực BM21 của Sư đoàn Bộ binh cơ giới 304 - Binh đoàn Hương Giang. Do đặc điểm đào tạo tại nhà trường lúc đó chỉ chuyên sâu vào các loại pháo rãnh xoắn còn pháo binh tên lửa do có ít nên chương trình học tập bị hạn chế chỉ giới hạn trên lý thuyết, việc thực hành trên pháo hỏa tiễn Ka-chiu-sa rất ít. Để bù lại việc đó, chúng tôi đành phải bỏ giấc ngủ trưa, buổi chiều tà và các ngày chủ nhật để luyện tập bù vào các lỗ hổng kiến thức. Cho đến ngày lên đường đi thực tập tại đơn vị, lượng kiến thức chuyên ngành đã tạm ổn, có thể đủ dùng trong thời gian thực tập.
*
Nói đến Trường Sĩ quan Pháo binh mà không nói đến các phong trào rèn luyện cả về chuyên môn và thể lực thì thật là cả một điều thiếu sót. Tôi không nhắc nhiều đến những chương trình rèn luyện đội ngũ. Tôi muốn nói đến một hình thức phong phú độc đáo của riêng học viên Trường Sĩ quan Pháo binh - hình thức “Chạy tiếp sức của Bộ đội Pháo binh”. Đó là một chương trình tổng hợp bao gồm tất cả các kỹ năng, kỹ xảo phải được nâng lên đến độ thành thục: Bắt đầu là chạy 3.000 mét của những tuyển thủ các đội, cờ được cầm trên tay rồi sau đó trao cho hai người được xỏ chân vào bao tải xốc tới tận nách và nhảy trong cự ly khoảng 100 mét. Rồi lại được trao cho hai vận động viên chạy bằng ba chân (một chân buộc chung vào với nhau), động tác này nếu không hiệp đồng chặt chẽ, người nọ giật ngã người kia mất. Khi xem tiết mục này thật cứ là bò ra mà cười, cười đau bụng, cười đến chảy cả nước mắt. Sau khi tới đích, cờ lại tiếp tục được trao cho một chiến sĩ trinh sát bộ binh vừa ngậm cờ vừa làm các động tác chiến thuật “tiềm nhập thấp” đột nhập vào tung thâm “quân địch”. Động tác này là một động tác vất vả, người chiến sĩ đảm nhiệm nhiệm vụ này phải nhanh nhẹn, khéo léo, trong một thời gian ngắn phải cơ động trên một địa hình toàn đá ong và cỏ sắc làm cứa nát chân tay, người xây xước, bầm tím. Sau khi người chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm vụ, cờ được trao cho một chiến sĩ bộ binh tháo lắp súng AK47. Tháo lắp xong, xung phong chiếm lĩnh trận địa, trao cờ tiếp sức cho một chiến sĩ pháo binh sử dụng phương hướng bàn đo các góc. Chiến sĩ thông tin truyền đi phần tử rồi chiến sĩ kế toán thao tác bàn đạc tìm ra phần tử bắn rồi truyền tới trận địa pháo binh. Phần tử có rồi nhưng khi chấp hành khẩu lệnh bắn thì lại có tình huống: pháo hỏng khóa nòng! Buộc phải tháo khóa nòng pháo 76 ly hoặc pháo 85D44 lau chùi khóa nòng thật nhanh và lắp nó chính xác mặc dù nó rất nặng nề.
Pháo đã được sửa chữa xong, chấp hành xong khẩu lệnh bắn truyền về từ đài quan sát lại phải nhanh chóng thu pháo, rời trận địa ngay tức khắc. Cờ được trao cho người chiến sĩ báo tin chiến thắng chạy vòng quanh khu thao trường. Ba chàng lính pháo ngay lập tức phát triển đội hình tạo thành một chân đế vững chắc giữ cho chiếc cột là cây ống bương đứng thẳng, cao khoảng 5 mét để một người chiến sĩ nhanh chóng leo lên cắm cờ trên đỉnh cột. Bộ phận thi đấu của đơn vị nào hoàn thành tất cả các chương trình một cách hoàn hảo, nhanh chóng, chính xác thì sẽ giành giải Nhất. Khóa 23 đào tạo hệ dài hạn sĩ quan chỉ huy pháo binh của chúng tôi gồm có ba tiểu đoàn: 1 - 2 - 3; trong các kỳ hội thao trong ba đoàn tuyển thủ thì đoàn tuyển thủ của Tiểu đoàn 3 chúng tôi thường xuyên dẫn đầu với số điểm cao nhất. Trong đợt tham dự Triển lãm các thành tựu của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Trung tâm triển lãm Vân Hồ (Hà Nội) vào cuối năm 1983, đoàn tuyển thủ của Tiểu đoàn 3, Khóa 23 học viên sĩ quan Pháo binh chúng tôi đã được hoan nghênh nhiệt liệt vì thành tích chạy tiếp sức như kể trên!
*
Do tính chất đặc thù là một binh chủng kỹ thuật được trang bị hệ thống súng, pháo, khí tài… nặng cồng kềnh; không thể chỉ dùng sức người và sức máy mà phải kết hợp con người với các phương tiện khoa học kỹ thuật thì mới có thể hành quân và chiến đấu được. Trong quá trình học tập, chúng tôi tùy theo thời điểm, sử dụng súng, pháo nào gắn với loại xe vận tải tương ứng để kéo pháo. Trong một lần tổ chức diễn tập dã ngoại, khi kéo pháo đi qua Trung tâm chỉnh hình Ba Vì, do va phải một ổ gà lớn trên đường, xe pháo bị rung mạnh, bật chốt khiến khẩu pháo bị bật văng một bên càng, càng còn lại vẫn gắn vào xe kéo pháo. Chiếc càng pháo bung ra gạt ngã hai người đi đường, may mà chúng tôi ngồi trên thùng xe kịp thời phát hiện và hô to cho lái xe dừng lại nên hai người đi đường chỉ bị xây xát nhẹ, thật hú vía!
Nhà trường của chúng tôi nằm trên một diện tích khá rộng, có hồ nước, có đồi thấp, có những khoảng đất trống rộng dùng làm thao trường cho việc luyện tập bộ môn Binh khí và Thao tác pháo binh. Nằm dưới chân đồi là kho vật chất của nhà trường rất nhiều cây nhãn cổ thụ tạo thành những rặng cây lớn, râm mát, đến mùa sai trĩu quả. Những cây ăn quả này do Phòng Hành chính tổng hợp nhà trường quản lý. Trưởng phòng Hành chính tổng hợp khi đó là Đại úy Vũ Trí Thức, người Hải Hưng, chúng tôi thường gọi ông là Thức “toác” vì ông có cái miệng rộng, giọng nói luôn oang oang vang xa, cách xa từ hàng trăm mét đã nghe thấy! Chúng tôi nhận xét về ông tính nết cũng thoáng xong cũng khá nghiêm khắc. Trong một buổi chiều, sau khi đi học về được tiểu đội phân công đi tưới rau, tôi đã cùng hai thằng học viên khác là Duân và Nhân trèo tuốt lên ngọn nhãn, nằm ngả mình trên chạc ba của cây vừa nhằn vỏ và hạt nhãn phun phì phì xuống đất thì giật mình nghe tiếng gọi của ông Thức: “Nào ba ông tướng! Xuống, xuống ngay!”. Thôi, rồi đành vui vẻ xuống theo ba “ông” vệ binh về nằm trong “comlét” - là vỏ chiếc thùng xe được dùng làm phòng “ở tạm” cho những kẻ vi phạm kỷ luật trong nhà trường - một đêm; sáng hôm sau chỉ huy đại đội đã được thông báo phải lên xin cho về, may mà không bị xử lý kỷ luật!… Đó thực sự là những kỷ niệm thật khó quên của cuộc đời người học viên sĩ quan, vui nhiều hơn buồn. Và không chỉ vậy, cũng có chuyện buồn nhiều hơn vui: Đó là vào dịp gần Tết Quý Hợi 1983, trời mưa phùn, gió rét; do tiểu đoàn không dự trữ đủ củi để dùng trong dịp tết nên ban chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho các lớp học viên phải góp từ 300 tới 500 ki-lô-gam củi khô. Hôm đó đến lượt tiểu đội của tôi đi lấy củi. Chúng tôi vác dao ra hàng cây xà cừ ở gần cầu Rù, thuộc khu vực cổng phụ của nhà trường. Vừa leo lên chặt được hai cành rơi xuống thì bị đội tuần tra của vệ binh nhà trường bắt gặp, thu dao, “mời” về nghỉ ngơi trong “téc” một đêm nữa; sáng hôm sau phải bị phạt lao động cải tạo; lại còn bị tịch thu áo bay, dép tông do sử dụng trang phục sai quy định! Thật là đi kiếm củi cho đơn vị lại bị quy kết là phá hoại tài sản của công. Không chặt cành cây thì biết kiếm đâu ra cho đủ 50 ki-lô-gam củi giữa vùng đồi trọc như vậy!
*
Thời gian cứ trôi, khó khăn gian khổ ba năm rồi cũng qua đi; trừ một số ít người bị đào thải trong quá trình học tập và rèn luyện còn đại đa số học viên chúng tôi cũng đã trưởng thành nhanh chóng, chuẩn bị thành người sĩ quan chỉ huy phân đội pháo binh vốn được mệnh danh là binh chủng: “Chân đồng vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng!”. Kỳ thi tốt nghiệp quốc gia đã tới, để có thể tốt nghiệp, chúng tôi phải trải qua ba môn thi: Công tác đảng, công tác chính trị, Chiến thuật Pháo binh và Chỉ huy bắn Pháo binh. Khỏi phải nói tới sự khổ công ôn luyện, luyện tập của chúng tôi để chuẩn bị bước vào kỳ thi. Kỳ thi quyết định cả ba năm học tập và rèn luyện tại Trường Sĩ quan Pháo binh - dấu ấn đầu tiên quan trọng của cuộc đời tôi. Với nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi bước vào kỳ thi với một niềm tự tin lớn, vững vàng của một người nắm vững kiến thức. Môn Công tác đảng, công tác chính trị được thi ở trên giảng đường, tôi đã gắp phải câu hỏi: “Công tác đảng, công tác chính trị trong tổ chức hành quân, trú quân và tổ chức chiến đấu ở đơn vị đại đội pháo binh”. Tóm lại là phải quán triệt tư tưởng cho bộ đội chấp hành nghiêm kỷ luật, đoàn kết, phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với nhau cũng như làm tốt công tác dân vận ở những nơi đơn vị tạm dừng trên đường hành quân, đóng quân… Kết quả trả lời đều được ba giáo viên gật gù và cho điểm Giỏi. Môn Chiến thuật Pháo binh thì gắp phải câu hỏi là: “Những công việc trong quá trình triển khai đài quan sát chỉ huy pháo binh ở vị trí tiền duyên trước giờ mở màn chiến dịch tiến công”. Những đề bài như thế này chúng tôi đã thuộc nằm lòng và tự tin trình bày đúng theo bài vở đã được học trong ba năm trên cương vị người học viên Sĩ quan chỉ huy phân đội pháo binh. Đến môn thi thứ ba là môn Chỉ huy bắn pháo binh, tôi gắp phải tình huống là: “Chỉ huy bắn phá hoại, tiêu diệt trận địa pháo binh của quân địch”. Trong tình huống này, tôi đã xuất sắc khi biết điều chỉnh thước tầm pháo khi áp dụng phương pháp chỉ huy bắn bằng đồng hồ giây. Tôi đã linh hoạt tính trừ bớt đi thời gian đo được từ khi nhìn thấy chớp lửa đầu nòng của pháo “đội” địch bắn ra đến khi tiếng động đến tai tôi nghe được để phán đoán cự ly. Trong tình huống này, tôi đã giảm thêm một phần nhỏ của thước tầm bắn do thời gian vang vọng của tiếng nổ đã bị tăng do bị địa hình đồi núi che chắn phía trước. Các giáo viên của tổ bắn pháo đã hỏi tôi tại sao lại giảm thước tầm, sau khi nghe tôi trả lời, họ đã ghi nhận và đánh giá cao quyết định này của tôi. Và thế là cả ba môn thi tốt nghiệp tôi đều đạt loại giỏi! Kết quả thi tốt khiến tôi không có gì vui hơn. Tôi khấp khởi mừng thầm là thế nào mình cũng được nhận bằng tốt nghiệp loại giỏi! Nhưng khi nhận bằng tốt nghiệp, tôi thực sự sốc: Bằng Khá! Hóa ra là nếu chỉ căn cứ vào kết quả học tập thì tôi được bằng giỏi nhưng vì trong thời gian học tập tại trường đã có hai lần vi phạm khuyết điểm vì đã “trẩy trộm nhãn” và “chặt cây lấy củi” như đã kể trên. Người sĩ quan chỉ huy pháo binh không chỉ học tập tốt mà cũng cần phải rèn luyện tốt nữa mới được công nhận là người sĩ quan chỉ huy giỏi! Nghe anh Chính trị viên Đoàn Phú giải thích lý do mà tai tôi ù đi vì không tin đó là sự thật!
Rồi thời gian cứ trôi; nỗi buồn không đạt được bằng tốt nghiệp loại giỏi do nguyên nhân kể trên rồi cũng qua đi; tôi nhận quyết định phong quân hàm trung úy do Đại tướng Hoàng Văn Thái - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ký ngày 19 tháng 7 năm 1984. Sau đó, tôi nhận quyết định điều động của Bộ Quốc phòng về nhận công tác tại Bộ Tham mưu Quân đoàn 3 đang đứng chân trên địa bàn tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Cuộc đời chàng học viên sĩ quan pháo binh trẻ là tôi với những cung bậc vui buồn đầy gian khó nhưng hào hùng đã khép lại như thế để rồi mở ra một chặng đường mới trên cương vị người chỉ huy phân đội pháo binh cấp chiến thuật tại đơn vị sẵn sàng chiến đấu nằm trong đội hình Quân đoàn 3 bộ đội chủ lực.