Tôi không phải là một nhà văn, nhà thơ, cũng không phải là người nghệ sĩ. Tôi chỉ là một người lính như bao người khác. Nhưng tôi yêu thiết tha cuộc sống, con người và những vùng đất tôi đã đến, đã sống và đi qua. Trên những chặng đường chiến trận qua các miền đất nước, tình yêu ấy đã chắp cánh cho cây bút nhỏ lao nhanh trên những trang giấy mỏng ghi lại những hoạt động của người lính trong các đơn vị; những xúc cảm và nghĩ suy của riêng tôi trước những diễn biến của cuộc sống qua lăng kính người chiến sĩ pháo binh.
Thước tầm là đơn vị đo trong pháo binh để xác định tầm bắn cho khẩu đội pháo. Quyết định bắn tầm xa hay gần là do tính toán, quyết định của người chỉ huy pháo binh sử dụng tầm nào chính xác để tiêu diệt mục tiêu nhanh nhất. Trong giai đoạn 3 năm học tại Trường Sĩ quan Pháo binh (1981-1984), một thời gian không dài nhưng nó đặc biệt quan trọng với chúng tôi. Đây là thời gian chúng tôi được rèn luyện bản thân nghiêm khắc để từng bước trưởng thành. Chính những sự thay đổi quan trọng đó trong cuộc sống của người học viên sĩ quan pháo binh nên tôi gọi giai đoạn này là Những thước tầm màu đỏ. Đó là những cung bậc hào hùng của cuộc sống người lính trẻ. Những ghi chép này cũng là những nét chấm phá đích thực, cụ thể trong cuộc sống. Khả năng có hạn, điều kiện không thuận lợi cho ghi chép kịp thời; vì lẽ đó chắc bạn đọc sẽ phần nào hiểu và thông cảm cho hạn chế trong các bài viết của tôi. Tôi đã cố gắng nhiều hơn để ghi chép lại một cách trung thực mọi diễn biến với những cung bậc mang âm hưởng của chặng đường quân ngũ đầy sôi động ấy.
1. Ấn tượng Sơn Tây
Những năm đầu trong cuộc đời quân ngũ, tôi đã đặt chân đến mảnh đất Sơn Tây - mảnh đất “cửa ngõ Thủ đô”.
Từ Hà Nội theo quốc lộ 32 về phía tây chừng hơn 30 cây số… là xứ Đoài mây trắng. Kể ra với tôi, lần đầu đến đây, cái thị xã trung du này không có gì làm hấp dẫn cho lắm. Cái đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là cột ăng ten vô tuyến truyền hình cao vút, in trên nền trời xanh, mây trắng; trên đỉnh cột ăng ten truyền phát sóng là lá quốc kỳ tung bay ngạo nghễ trong nắng gió Sơn Tây.
Thị xã cũng không giàu, nhà cửa phần nhiều cũ kỹ, một số ngôi nhà mới được xây dựng lại sau những năm tháng chiến tranh. Đường phố nhỏ hẹp nhưng rất râm mát vì nhiều cây xanh. Con người ở đây phần lớn là những người lao động. Một đặc điểm nổi bật của thị xã này là rất nhiều hàng quán bán đủ các loại hàng hóa. Dịch vụ thương nghiệp mọc lên khắp nơi. Đêm về đèn dầu, đèn điện lấp lánh khắp nơi. Chủ quán dù đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ đều giống nhau một điều: Nụ cười xã giao lúc nào cũng thường trực trên môi! Tất nhiên, người bán hàng mà, phải luôn tươi cười chào đón khách thì mới bán được hàng!
Chúng tôi gọi đây là “Thị xã Xanh” bởi vì đường phố có rất nhiều cây xanh; nhưng điều quan trọng hơn cả là như người dân ở đây nói: “Đặc sản quê họ là bộ đội”: Xe đạp Hà Nội - Bộ đội Sơn Tây! Mà đúng là đặc sản thật! Mảnh đất Sơn Tây là nơi trung tâm đào tạo đội ngũ sĩ quan quân đội. Trên mảnh đất này, gần một chục trường sĩ quan. Hằng năm cung cấp cho quân đội hàng ngàn sĩ quan trẻ đủ các quân binh chủng. Hằng ngày, ngoài giờ làm việc, nhất là những ngày chủ nhật, trên khắp các ngả đường nhỏ bé của thị xã đông nghịt những chàng trai mặc áo xanh đeo quân hàm học viên.
Thị xã Sơn Tây nằm ven bờ sông Hồng, bên kia là đất Vĩnh Phú. Dọc hai bờ sông bãi mía bãi ngô xanh mượt bởi phù sa. Phía tây thị xã là dãy các cao điểm 32 - 40 nằm gối lên nhau. Sừng sững trên cao điểm 32 là cây cột điện cao thế khổng lồ choãi ba chân vững chãi uy nghiêm như một người lính đứng canh cho thị xã.
Trung tâm thị xã là khu vực thành Sơn Tây cổ kính nằm giữa một hồ nước rộng, cả khu thành rêu phong được che phủ bởi những cây cổ thụ và cỏ dại, huyền bí và uy nghiêm! Vẳng nghe trong đâu đó tiếng cồng và tiếng dạ vang của những chiến binh giữ thành thời Nguyễn. Âm hưởng của những trận quyết chiến giữ thành của các quan binh nhà Nguyễn hay trận chiến giữa những đội quân Cờ đen của Đề đốc Lưu Vĩnh Phúc với quân thực dân Pháp những năm cuối của thế kỷ XIX (1873-1883). Đâu đó trong không gian u tịch và trầm mặc, có lời ai điếu của bài “Ai Sơn thành” của Giá sơn Kiều Oánh Mậu - một danh sĩ xứ Đoài… Tất cả đã lùi vào dĩ vãng nhường chỗ cho một trang sử mới hào hùng. Sân vận động, nhà hát, ủy ban nhân dân đã mọc lên làm thay đổi bộ mặt thị xã. Đây đúng là một vùng đất chiến lược, thuận tiện cho việc xây dựng, củng cố một đội quân cách mạng chính quy, hùng mạnh. Xa xa là dãy núi Tam Đảo mờ trong sương tạo thành một vòng cung vững chắc và hiểm yếu. Nhìn về phía tây, sừng sững đỉnh Ba Vì mây trắng vờn quanh như chiếc khăn lụa quấn quanh cổ một người khổng lồ. Trên nền trời xanh, nhô lên đỉnh núi hiên ngang trước gió mưa của ngàn năm lịch sử. Những ngày tạnh ráo, khô hanh đứng ở thị xã Sơn Tây có thể nhìn thấy rõ những rừng cây trên núi. Mùa khô, vào ban ngày nhìn rõ những ngọn khói ngoằn ngoèo bốc lên nền trời; đêm đêm thấy rõ cả những tàn lửa tung lên đỏ rực... Ở đó dân đang đốt nương làm rẫy.
Dọc chân núi Ba Vì là những đồi cỏ xanh rờn. Nơi đây là xứ sở của “đàn bò mộng Cu Ba đủng đỉnh đi ngắm núi Ba Vì”. Cũng ở nơi đây có mặt nước hồ Suối Hai mênh mông xanh biếc. Nằm ven bờ hồ là cột ăng ten thu phát sóng của Đài phát thanh Đông Dương. Tiếng nói của nhân dân ba nước trên bán đảo mấy chục năm chưa bao giờ im tiếng súng được phát ra từ đây, ca ngợi những thành tựu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân mỗi nước. Cũng từ đây, hằng ngày vang lên những lời đanh thép lên án, vạch mặt kẻ thù. Cùng nhân loại tiến bộ đấu tranh bảo vệ hòa bình.
Những năm tháng cuối cùng của thế kỷ XX nóng bỏng, thị xã Sơn Tây đã và đang lớn lên cùng những người lính chúng tôi và sự phát triển của đất nước. Một ngày không xa, thị xã này sẽ trở thành một thành phố lính.
2. Trường Sĩ quan Pháo binh
Từ thị xã Sơn Tây nhằm hướng núi Ba Vì theo con đường 21A đi qua cầu Ái Mỗ bắc qua dòng Tích Giang khoảng 2 ki-lô-mét bạn đã đến thị trấn Sơn Lộc - ngã ba Tông - Viện quân y 105 - Bưu điện Sơn Lộc - Cứ đi thẳng khoảng 500 mét bạn sẽ thấy Trường Sĩ quan Pháo binh của chúng tôi nằm yên tĩnh bên con đường nhộn nhịp đối diện phía bên kia là Trường Cao đẳng Ngân hàng Sơn Tây. Nhưng đấy mới chỉ là bề ngoài, qua chiếc cổng xây uy nghiêm suốt ngày đêm có người đứng gác bạn sẽ thấy không khí ở đây không còn yên tĩnh nữa. Cái đầu tiên đập vào mắt bạn là ngôi nhà ba tầng cao lớn quét ve vàng nhạt là nơi làm việc của các phòng ban trong nhà trường. Trước cửa ngôi nhà là hàng hoa dạ hương bốn mùa xanh tốt, ngát hương thơm. Dưới tán lá hai hàng pháo đứng uy nghiêm vươn nòng thẳng tắp hiên ngang.
Đằng sau dãy nhà gác ba, một công trình hiện đại đang mọc lên. Ở đây tôi không thể nói hết cảm nghĩ của mình. Nếu ai đã từng đến thời những năm 80 thế kỷ trước thì biết.
Trong khi chờ sự xây dựng mới, các khóa học viên chúng tôi vẫn đang tiếp tục tiến hành học tập và rèn luyện ở những cơ sở cũ. Nằm bên bờ hồ Bạc, những dãy nhà của khu học viên nằm xếp hàng thẳng tắp dưới bóng hàng xà cừ xanh tươi. Phía tây trường là khu nhà xe pháo rộng lớn. Ở đây có đầy đủ các loại pháo to nhỏ lớn bé. Ngày ngày vang lên tiếng gầm của xe kéo pháo, tiếng hô khẩu lệnh, tiếng thao tác vũ khí, khí tài của đội ngũ học viên. Dãy sa bàn nằm trong thung lũng phía trước có tường chắn đạn. Phía sau tám lầu bắn nằm thành một vòng cung ôm lấy sa bàn. Ngay sát phía sau là hai lầu chỉ huy bắn pháo binh. Có một lầu xây dựng từ năm 1957 đã bỏ hoang rêu mốc, mái đã bị bay mất do bom giặc Mỹ. Mái lầu chỉ huy bắn đứng lênh khênh, cô độc trên sáu cột xi măng trông như một hình nhân. Cạnh đó, lầu bắn mới xây dựng vào năm 1978 vuông vắn, vững chắc, phục vụ luyện tập chỉ huy bắn hằng ngày.
Trung tâm nhà trường là sân vận động lớn với lễ đài mới được xây dựng, nơi đây đã vang lên những bước chân hùng mạnh của đội ngũ học viên diễu qua lễ đài. Đã chứng kiến những trận đấu bóng sôi nổi hào hứng, những lần thi chạy tiếp sức quyết liệt… Dọc theo con đường từ cổng trường trở vào bạn sẽ thấy một hội trường xinh xắn; đi qua chút nữa là căng tin nhà trường lúc nào cũng đông người với món bánh rán thơm lừng.
Trường Sĩ quan Pháo binh, nơi hội tụ của học viên từ mọi miền Tổ quốc; các đơn vị, quân khu, quân đoàn gửi về học tập. Dù hoàn cảnh còn nhiều khó khăn nhưng tất cả đều chung sức, chung lòng đoàn kết dưới đội ngũ; luyện rèn để làm chủ trang thiết bị, vũ khí hiện đại để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nơi đây cũng đón tiếp những người con ưu tú của đất nước Triệu Voi, đất nước Chùa Tháp vừa thoát khỏi họa diệt chủng; những hạt nhân của lực lượng vũ trang non trẻ của đất nước bạn Campuchia. Tuy khác nhau màu da, tiếng nói nhưng tất cả đều đoàn kết một lòng học tập và rèn luyện làm chủ vũ khí, khí tài hiện đại để trở thành những sĩ quan pháo binh tương lai.
3. Sư đoàn Bộ binh cơ giới 304 - Binh đoàn Hương Giang
Theo kế hoạch huấn luyện đào tạo sĩ quan của Bộ Quốc phòng, mỗi khóa học các học viên sĩ quan chỉ huy Pháo binh đều có một thời gian đi thực tập ở đơn vị cơ sở để làm quen với đơn vị, rèn luyện tác phong chỉ huy, củng cố kiến thức kỹ chiến thuật và nâng cao kinh nghiệm tổ chức quản lý đơn vị... Với chúng tôi, những học viên sĩ quan Khóa 23 của Trường Sĩ quan Pháo binh cũng có thời gian ấy. Dưới đây, tôi xin phác dựng lại khoảng thời gian đáng nhớ ấy:
Sau kỳ nghỉ hè chúng tôi bước ngay vào học tập và chuẩn bị cho đợt đi thực tập ở đơn vị. Khoảng tháng 9 năm 1983, chúng tôi nhận được kế hoạch đi thực tập. Tôi cùng hai bạn Nguyễn Quang Vinh và Trịnh Đình Duân sẽ về thực tập tại tiểu đoàn pháo binh là đơn vị xe chiến đấu, hỏa tiễn BM21 của Quân đoàn 2. Riêng tôi được phân công về làm trung đội trưởng chỉ huy. Quả là chúng tôi khi nhận được quyết định ấy cũng hơi hoảng bởi vì với các loại pháo rãnh xoắn thông thường thì không sợ nhưng với loại xe chiến đấu tự hành hiện đại này thì cả trường cũng mới chỉ có một xe, nên thời gian học tập ít, học viên chúng tôi thiếu điều kiện tiếp xúc trực tiếp với xe pháo.
Với suy nghĩ: Trên giao nhiệm vụ thì nhận và sẵn sàng làm tốt để thử sức mình xem. Ý thức tự chủ, tự thách thức chính mình bắt đầu nổi lên trong tôi và thế là chúng tôi lao vào tìm hiểu, luyện tập để nhanh chóng làm chủ vũ khí, khí tài. Thời gian này, chúng tôi phải ôn lại từ đầu, hai buổi chiều ra pháo ôn luyện sau đó về nghiên cứu sách vở. Theo kế hoạch, ngày 30 tháng 9 năm 1983 chúng tôi bắt đầu lên đường đến đơn vị thực tập. Sáng hôm ấy trời xám xịt, sắp đổ mưa to. Đến bến xe Sơn Tây thì đông đặc người, toàn học viên đi thực tập. Thấy mấy người của đơn vị đang xếp hàng mua vé trước cửa xe, tôi cũng vào mua vé. Lúc này trong xe đã chật nêm người, trên nóc xe chồng chất ba lô. Tôi leo vội lên nóc buộc chiếc ba lô đựng quần áo chăn màn ở phía ngoài sau đó chen vào xe, chỉ còn đủ khoảng hở để chen chân.
Xe chạy khỏi bến thì trời đổ mưa như trút nước, ba lô trên nóc không gì che đậy, ướt sạch. Mưa kéo dài suốt từ Sơn Tây về Hà Nội. Xe lại chở đông người nên chạy chậm; về đến bến xe Kim Mã đã hơn chín giờ sáng. Chúng tôi phải ngồi ở quán nước chờ đến khoảng một giờ chiều mới tập trung đông đủ đoàn và phải kéo nhau về Bến Nứa để đi xe Mẹt (thuộc địa bàn tỉnh Lạng Sơn). Song đoàn trưởng đi trước không liên hệ được vé, chúng tôi phải ngủ tạm ở khách sạn Long Biên. Không báo được cơm trong khách sạn nên chúng tôi phải ra ngoài ăn. Tối hôm đó phải ngủ tại khách sạn, chúng tôi giở ba lô phơi quần áo ướt trong phòng và có thời cơ được đi chơi phố Hà Nội.
Tôi cùng bạn Mai Nghĩa Nhân đi ra phố Hàng Buồm gặp người quen của Nhân sau đó hai đứa lang thang khắp phố dưới trời mưa; nhìn và nhớ mãi hình ảnh đường tàu điện chạy quanh Bờ Hồ lóe ánh sáng xanh lét dưới mưa do ma sát giữa bánh xe và hệ thống đường ray. Sáng hôm sau báo thức xong phải tập trung ra khỏi khách sạn, ngồi chờ xe khách tuyến Long Biên - Mẹt. Hôm ấy, xe đi phố Mẹt chỉ có hai chuyến; chuyến sáng khởi hành lúc tám giờ sáng nhưng do quân số quá đông nên tôi phải nằm lại chờ đi chuyến chiều. Lại lang thang ở Hà Nội cho mãi đến chiều mới có xe đi Mẹt. Cũng như mọi lần, chuyến xe khách từ Long Biên đi phố Mẹt hôm ấy quả là quá đông người. Xe ì ạch chạy qua cây cầu Long Biên trong trời chiều tối sẫm, thấp nặng bởi những đám mây màu xám chì bao phủ khắp bầu trời. Vừa qua cầu Long Biên, vào qua phố Gia Lâm lại gặp mưa to. Thế là ba lô quân tư trang trên nóc xe lại ướt hết, thêm một lần nữa quần áo chăn màn lại ướt sũng. Mưa, mưa rất to do ảnh hưởng của cơn bão số 6 ập vào miền Bắc; xe chạy trong mưa, trời tối dần. Qua thị trấn Từ Sơn, trời ập tối mù mịt, không còn nhìn thấy gì cả. Xe vẫn đi xuyên đêm qua thị xã Bắc Giang bỗng nghe một phát súng nổ ven đường, mọi người trong xe hốt hoảng không biết chuyện gì xảy ra. Cả xe dừng lại, thì ra ven đường có vụ ẩu đả. Mọi người giải quyết xong việc, xe lại tiếp tục chạy trên quốc lộ 1. Đến ngầm Lường lúc ấy đã chín giờ ba mươi phút, trời tối đen như mực; được người của bộ phận tiền trạm dẫn vào Trung đoàn 68. Chúng tôi đi bộ dưới đêm khoảng 3 ki-lô-mét trên con đường lầy lội thì đến Nhà khách Sư đoàn 304. Lúc này bộ phận đi trước cũng vừa từ Mẹt ngược trở về, thì ra họ đã đi vượt quá vị trí đơn vị đóng quân, phải đi ngược trở lại. Đi ăn cơm tối xong về đến nhà khách lúc này đã mười một giờ đêm. Không đủ giường, chúng tôi rửa chân tay qua loa rồi trải chiếu xuống nền nhà dột ướt, lăn ra ngủ. Sáng ra thức dậy, nghỉ ngơi, đi ăn cơm và mười hai giờ trưa ngày 3 tháng 10 năm 1983 chúng tôi theo anh Trường về Tiểu đoàn 21 pháo hỏa tiễn phản lực. Đoạn đường từ nhà khách sư đoàn về đơn vị cũng tương đối xa, cộng với không biết đường nên đi mãi đến ba giờ chiều chúng tôi mới tới đơn vị. Lúc này toàn tiểu đoàn đang tập trung kiểm tra đội ngũ.
Đồng chí Thịnh - Phó Tiểu đoàn trưởng về Chính trị tiếp chúng tôi sau đó phân chúng tôi về các đại đội. Tôi cùng Duân - Vinh - Hùng về Đại đội 2. Đây là tiểu đoàn pháo hỏa tiễn trực thuộc Sư đoàn 304 là sư đoàn bộ binh cơ giới của Quân đoàn 2 - Một trong những quân đoàn chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ba anh em học viên sĩ quan chúng tôi tranh thủ gặp gỡ với đơn vị một lát, gặp gỡ xong thì đại đội lấy cơm chiều từ nhà ăn của tiểu đoàn về. Ăn xong, đơn vị sinh hoạt buổi tối, chúng tôi ra mắt, gặp gỡ chiến sĩ. Sáng hôm sau chúng tôi được nghỉ ngơi tắm giặt, phơi quần áo quân tư trang ướt do gặp mưa bão trong quá trình di chuyển về đơn vị.
Trung đội tôi về thực tập là Trung đội 3 chỉ huy. Vào lúc tôi về thực tập, trung đội trưởng đang nằm bệnh xá của quân đoàn. Trong trung đội, tôi tìm thấy có người đồng hương là anh Phạm Văn Tín quê ở An Lao, An Thanh, Tứ Lộc, Hải Hưng.
Về đơn vị thực tập, tôi được đồng chí đại đội trưởng giao toàn quyền chỉ huy trung đội đi đài chỉ huy. Cũng bởi do thiếu cán bộ nên tôi có cơ hội được thể hiện rất nhiều thao tác kỹ thuật trong công tác chỉ huy chiến đấu pháo binh.
Thời gian thực tập ở Đại đội 2, Tiểu đoàn 2 pháo binh, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 đã giúp cho tôi bổ sung nhận thức được nhiều điều cả về kinh nghiệm tổ chức chỉ huy lẫn củng cố kiến thức chỉ huy bắn Pháo binh trong thực tiễn chiến đấu tại các đơn vị. Hôm nay, hồi tưởng lại tôi không viết cụ thể lại nhiều, chi tiết những gì đã xảy ra trong thời gian thực tập chỉ huy tại đơn vị; chỉ tự lưu ý cho bản thân: Cán bộ nào, phong trào ấy! Người cán bộ là “chân dung” của đơn vị. Bức chân dung ấy có trong sáng, vững mạnh hay không sẽ góp phần quyết định sự phát triển của đơn vị. Cán bộ là nguồn gốc của mọi thắng lợi! Tự rèn luyện mình, tự phấn đấu nâng cao năng lực và tác phong chỉ huy của bản thân sẽ quyết định thắng lợi của đơn vị. Phải nỗ lực quyết tâm phấn đấu!
4. Cuộc diễn tập trên điểm cao Nam Múc
Trong thời gian thực hiện chương trình đào tạo năm thứ hai tại Trường Sĩ quan Pháo binh, các tiểu đoàn học viên chúng tôi có tổ chức diễn tập bắn đạn thật ở cấp trung đội.
Để cho cuộc diễn tập đạt kết quả tốt, đơn vị chúng tôi đã tiến hành nhiều công tác chuẩn bị. Bắt đầu là việc biên chế lực lượng, sắp xếp khí tài vật chất trang thiết bị. Trong đợt chuẩn bị diễn tập bắn đạn thật lần này, ở lớp ai cũng muốn làm trung đội trưởng chỉ huy và lên đài quan sát để tận mắt nhìn thấy viên đạn nổ. Sau thời gian họp bàn thống nhất giữa cán bộ đại đội và lớp đã thống nhất cử bạn Khánh là Trung đội trưởng chỉ huy. Còn tôi làm chiến sĩ kế toán pháo binh. Tuy nguyện vọng không đạt được nhưng được đi đài quan sát chỉ huy nên cũng rất khoái. Những học viên bị phân công phải ở dưới trận địa pháo và ở phân đội thông tin tha hồ kêu la, than vãn; song đã là lệnh của cấp trên rồi thì tất cả phải chấp hành tuyệt đối!
Rồi những ngày sau đó, chúng tôi lao vào ôn luyện chỉ huy bắn. Pháo chúng tôi sử dụng là loại Canon 76,2 ly thuộc loại pháo bắn trực tiếp nhỏ. Chính vì tính chất của cuộc diễn tập nên chúng tôi được cấp trên chỉ định sử dụng loại pháo này. Chính những khẩu pháo này trước đó sáu tháng chúng tôi cũng mang đi bắn trực tiếp ở núi Đồng Doi và khẩu đội do tôi làm số 1 đã không hoàn thành nhiệm vụ vì phán đoán sai cự ly thước tầm. Tuy rằng mới đang học năm thứ hai song chúng tôi rất háo hức được đi chỉ huy vì mục đích của cuộc diễn tập là: Chứng minh bằng thực tế quy tắc yếu lĩnh chỉ huy bắn pháo binh và nâng cao trình độ tổ chức, năng lực quản lý cho học viên.
Địa điểm chúng tôi diễn tập sẽ là Trường bắn quốc gia Hoà Lạc. Điều kiện địa hình tự nhiên và dân cư ở đây tương đối thuận lợi cho công tác tổ chức chiến đấu của bộ đội pháo binh và các phân đội binh chủng hợp thành khác. Khoá chúng tôi có ba tiểu đoàn học viên. Theo thứ tự chúng tôi sẽ bắn sau cùng trong khoá. Trong lúc chờ đợi, tin từ các tiểu đoàn bạn đi bắn trước càng làm cho chúng tôi náo nức. Rồi ngày đó đã đến…
Sáng 23-5-1983, chúng tôi bắt đầu vào tình huống, nhận lệnh cấp trên và triển khai công tác chuẩn bị, suốt ngày hôm đó trên những cương vị khác nhau của mình, tất cả chúng tôi đều miệt mài chuẩn bị vật chất, xử lý các tình huống chiến thuật. Cả ngày nhà trường rộn rã tiếng gầm của xe kéo pháo, tiếng hô khẩu lệnh, tiếng bước chân rầm rập của các học viên.
Tối 23-5-1983, chúng tôi vẫn đang trong tình huống ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Tất cả trên cương vị trung đội trưởng chỉ huy hoàn thiện văn kiện chỉ huy tác chiến theo chức trách. Sáng 4 tháng 5 năm 1983 các tổ trinh sát địa hình: Đài quan sát và trận địa bắn lên đường. Ba xe chỉ huy của ba trung đội trong toàn tiểu đoàn nối đuôi nhau bon bon trên quốc lộ 21A Sơn Tây - Xuân Mai hướng về khu vực trường bắn. Đến khu vực diễn tập, lúc này đứng trên các cương vị khác nhau bắt đầu vào tình huống thực sự. Vị trí đặt đài quan sát của chúng tôi là cao điểm 42. Ba tổ đài ở ba mặt của cao điểm, cùng hướng về một mục tiêu. Ba tổ đài lao vào đo đạc tính toán tọa độ đài. Cùng thời gian ấy ở phía nam sân bay Hoà Lạc, các tổ trinh sát lựa chọn trận địa bắn cũng tiến hành khẩn trương thiết lập vị trí trận địa pháo chiến đấu, chuẩn bị chiếm lĩnh trận địa.
Sau khi quyết định vị trí đài quan sát chỉ huy xong, lực lượng thông tin hữu tuyến bắt đầu triển khai đường dây thông tin liên lạc. Đây là bộ phận vất vả nhất của cuộc diễn tập vì phải trải dây trên nhiều địa hình phức tạp khác nhau rồi sau đó lại phải triển khai rải người coi sóc, bảo vệ dây trên cự ly khoảng sáu ki-lô-mét. Hơn nữa, các chiến sĩ làm nhiệm vụ đảm bảo thông tin liên lạc lại không được tận mắt nhìn thấy kết quả quan sát ở đài và việc thao tác ở trận địa bắn.
Triển khai chọn bài, phác họa công sự xong, tổ giáo viên chiến thuật bắt đầu giao nhiệm vụ chính thức cho các tổ đài.
Trước mặt chúng tôi, dưới chân đài quan sát chỉ huy là con đường quốc lộ phẳng lì. Kéo ra xa là hệ thống các điểm cao 17,5 - 23 - 28 - 32 - 40 và 50 cứ sàn sàn nằm gối lên nhau thật khó phân biệt; nhất là các vật chuẩn, dễ lẫn vào màu đất của các quả đồi trọc. Bên phải chúng tôi là cao điểm 110 núi Múc sừng sững. Cạnh nó có hai cao điểm 50 Nam núi Múc và cao điểm 50 Bắc núi Múc. Nếu đặt đài ở trên cao ấy quan sát sẽ dễ dàng hơn từ đó mà chỉ huy bắn nhất định sẽ chính xác hơn các vị trí khác.
Trinh sát thực địa đến mười giờ trưa xong chúng tôi lại hành quân về trường ăn uống nghỉ ngơi và đúng bốn giờ ba mươi phút chiều đội hình hành quân của chúng tôi bắt đầu chiếm lĩnh làm công sự ngụy trang. Sau khi tính toán thấy do cao điểm 42 nằm dưới đường bay của đạn pháo từ trận địa tới khu vực mục tiêu, không đảm bảo an toàn nên chỉ huy cuộc diễn tập quyết định vị trí đài quan sát chỉ huy tại cao điểm 50 Nam núi Múc.
Năm giờ ba mươi phút ngày 24-5-1983 tại chân cao điểm Nam núi Múc diễn ra hình ảnh hết sức sinh động hào hùng. Đỉnh cao điểm, lá cờ của sở chỉ huy tung bay, có giáo viên cầm loa chỉ huy. Dưới chân cao điểm các tổ đài đang tập hợp mang đầy đủ vũ khí trang bị chiến đấu chuẩn bị chiếm lĩnh đài quan sát. Sau khi lệnh chiếm lĩnh được phát ra, đội hình bắt đầu triển khai, bóng các chiến sĩ hòa vào màu cỏ cây luồn lách dưới lòng chiến hào. Sau 15 phút, tất cả các bộ phận đã vào vị trí chiến đấu đầy đủ, an toàn. Là kế toán, tôi được giao vai mang bàn đạc tác chiến pháo binh leo đồi quả là mệt, sau khi lên đến đài quan sát chỉ huy lại phải triển khai củng cố công sự ngụy trang ngay.
Tối hôm ấy, buổi học bắt đầu, từ sau những cao điểm đạn vạch đường đỏ lừ xuất hiện trên không trung, những ánh chớp của bộc phá loé sáng, các trận địa hoả lực địch bắt đầu hoạt động. Các trinh sát viên tíu tít hoạt động bắt các mục tiêu, đo đạc; tổ kế toán tính toán tìm ra toạ độ, phần tử bắn cho pháo. Đến chín giờ ba mươi phút tối, buổi học thực tế kết thúc. Lúc này anh nuôi khiêng lên đồi một nồi cháo lớn, ăn xong chúng tôi đi nghỉ. Đêm đầu tiên diễn tập, ngủ ngoài trời trên cao điểm, sương xuống mù mịt không còn nhìn thấy gì cả. Chúng tôi nằm ôm tròn lấy nhau trong công sự giữa đỉnh đồi, lấy ni lông phủ kín người cho khỏi ướt sương. Hơi ấm của lòng đất không làm cho chúng tôi bớt lạnh. Khói thuốc lá không thể bay lên và toả ra được vì sương xuống mỗi lúc một dày, tưởng vơ tay là có thể nắm được. Cái lạnh của đất trời cộng nỗi hồi hộp trong lòng làm chúng tôi trằn trọc thao thức. Thế là những câu chuyện về quê hương, gia đình, bè bạn, người yêu được đem ra ôn lại. Trong những giao thông hào tiếng đấm lưng nhau, tiếng cười rúc rích nổi lên. Đôi lúc có tiếng kêu thất thanh: Rắn, rắn nhưng chẳng ai muốn dậy cả.
Rồi cái mệt sau một ngày căng thẳng nó đã kéo chúng tôi vào giấc ngủ. Khoảng hai giờ sáng có người gọi bọn tôi dậy trực thay bộ phận thông tin để coi dây, giữ cho đường dây về trận địa luôn thông suốt. Bộ phận tổ đài chúng tôi phải bố trí người dọc đường dây để coi, riêng tôi nằm tại đài chính trực máy. Thế là lại mất ngủ. Một mình tôi nằm co như con tôm ôm chiếc máy hữu tuyến điện vào lòng cứ 15 phút lại quay máy một lần gọi về trận địa, giữ cho đường dây thông suốt. Cứ thế tôi chập chờn nửa thức nửa ngủ nhưng vẫn quay máy đều đặn. Từ đầu dây đằng kia chỉ đáp lại một giọng ngái ngủ của anh chàng nào đó. Xung quanh tiếng côn trùng rồi cũng im bặt.
Khoảng ba giờ ba mươi phút sáng, trong màn sương đêm đen đặc quánh, tôi quay máy liên tục không thấy ai ở đầu dây bên kia đáp lại; tôi quay liên tục rồi gào lên trong máy, vẫn im lặng. Đành phải báo cáo tình hình với đại đội trưởng. Ông cho người kiểm tra đường dây, té ra anh chàng trực máy ở trận địa đã ngủ quên, không trả lời chuông reo của máy điện thoại hữu tuyến.
Năm giờ mười lăm phút đất trời vẫn mù mịt trong sương, mảnh trăng cuối tháng đỏ sọc lơ lửng trên đầu chưa kịp lặn thì buổi diễn tập lại bắt đầu. Một quả bộc phá nổ bùng lên ở sườn đồi đánh thức các chiến sĩ dậy. Tình huống địch pháo kích vào trận địa, tất cả vào vị trí chiến đấu!
Sau khi kiểm tra việc sẵn sàng chiến đấu xong, giáo viên nhắc nhở một số điểm cần lưu ý rồi chúng tôi đi ăn cơm.
Hậu cần của tiểu đoàn đặt dưới chân cao điểm cạnh hồ nước trong khu nhà ở của trại tăng gia của Tổng đội 85. Tưởng gần nhưng thật xa. Trời tối không quen địa hình, chúng tôi từ cao điểm đi xuống quả vất vả, quần áo ướt sũng sương đêm rách toạc nhưng người thì nóng rực toát mồ hôi. Ăn cơm xong với cái bụng căng phồng chúng tôi lại lật đật trở về vị trí chiến đấu.
Vào trong chiến hào, không khí trở nên ngột ngạt, thông tin làm việc liên tục. Để an toàn cho khu vực trường bắn, lệnh cấm đường được phát ra, con đường bóng nhẫy sương đêm nằm im lìm dưới chân cao điểm không một bóng người, không một chiếc xe qua lại. Giữa đỉnh đồi lá cờ chỉ huy bay phần phật trong gió sớm, cạnh đó là khí tài quan sát của chỉ huy trường bắn và các phương tiện thông tin hoạt động liên tục, nhộn nhịp.
Sáng hôm ấy thời tiết không ủng hộ chúng tôi. Trời khu vực đài quan sát và trường bắn mù mịt sương; đến bảy giờ sáng sương tan thì trên bầu trời xám xịt những đám mây màu cánh vạc nặng trĩu nước không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cả. Quả nhiên, trời đổ mưa ngay sau đó, quần áo ướt sũng, nhìn trời mà lòng chúng tôi se lại lo lắng. Mưa hơi ngớt, chúng tôi bước vào bắn ngay. Trung đội 1, Lớp 331 triển khai bắn bài đầu tiên.
Khi khẩu lệnh bắn từ đài chỉ huy được phát ra, truyền ngay về trận địa qua đường dây thông tin hữu tuyến thì lúc này anh em ở trận địa vẫn còn ăn cơm sáng, các pháo thủ chưa vào vị trí chiến đấu. Ở trận địa còn điện lên hỏi: Bắn thật hay giả? Đến lúc đài chỉ huy yêu cầu chấp hành lệnh bắn ngay thì trận địa mới vội vàng về vị trí chiến đấu. Khẩu lệnh bắn được truyền đi rồi mà tất cả đều hồi hộp, thấp thỏm. Biết đâu khi bắn ra viên đạn rơi trúng đài thì sao! Mặc dù biết rằng ở trận địa pháo đã được giới hạn cả về tầm hướng song vẫn cứ sợ như vậy đấy.
Khẩu lệnh từ trận địa truyền lên: “Trận địa bắt đầu bắn”. Tất cả đài quan sát như ngừng thở... Ngay sau khi tiếng đề pa đầu nòng vang lên là tiếng đạn rít u u trong không trung rồi ở phía mục tiêu bùng lên một bụm nhỏ khói bụi, mấy giây sau mới nghe tiếng nổ của trái phá. Sau phát đạn đầu tiên, tất cả đều thở phào nhẹ nhõm, không khí đài quan sát trở nên nhộn nhịp, các bộ phận tíu tít hoạt động. Sửa bắn và truyền khẩu lệnh cho trận địa. Bài bắn không lấy gì làm xuất sắc cho lắm nhưng để khích lệ và động viên tinh thần các lớp học viên, tổ giáo viên chiến thuật bình loại giỏi 9 điểm!
Kết quả bài bắn và thực tế thao trường đã khích lệ chúng tôi thêm phấn chấn để phấn đấu. Đang bắn thì xe của cố vấn quân sự Liên Xô và hiệu trưởng nhà trường đến kiểm tra. Trời mưa, hai ông khoác áo mưa đứng xem một lát và nói mấy lời với chỉ huy trường bắn rồi ra về. Khi tổ đài của trung đội tôi vào vị trí chỉ huy bắn thì trời lại đổ mưa rào. Cả trường bắn mù mịt trong mưa, khu vực mục tiêu không còn nhìn thấy gì cả. Chúng tôi đều hết sức lo lắng, không hiểu có hoàn thành nhiệm vụ hay không? Lệnh chỉ huy trường bắn cho tạm ngừng đợi trời ngớt mưa. Ngồi trong chiến hào, người, giấy tờ ướt sũng nước rét run lên, tác nghiệp bàn đạc bị nước mưa xoá nhoà hết kết quả. Thế rồi trời ngớt mưa, chúng tôi bắt đầu bắn. Lúc này tất cả mọi hoạt động nhộn nhịp, người không còn cảm thấy rét nữa. Mục tiêu chúng tôi bắn là đài quan sát của địch, hướng bắn tập rất thuận lợi cho chỉ huy bắn. Sau khi cung cấp phần tử bắn cho trung đội trưởng, hai kế toán chúng tôi nhấp nhổm hướng về phía mục tiêu. Quay ống nhòm về trận địa thấy mù mịt bụi bốc lên: Trận địa bắt đầu bắn! Rồi tiếng đề pa, tiếng đạn rít trong không trung, tiếng nổ của trái phá phía mục tiêu, tiếng báo cáo kết quả của quan sát đạn, khẩu lệnh sửa bắn tung ra, khắp tổ đài thành một không khí phấn chấn, sôi động. Trời mưa, kết quả quan sát không được rõ lắm nhưng chúng tôi đã hoàn thành tốt bài bắn. Kết quả bài bắn của chúng tôi đạt 9 điểm. Xung quanh ba tổ đài của ba đại đội liên tục thay phiên nhau bắn. Từ khu vực đài quan sát chúng tôi thấy những quả đạn đào xới tạo thành những hố đất lớn. Thấy cả những vạt sắn tung lên nát vụn do sức công phá của các quả đạn pháo. Do đây là khu vực trường bắn cấm trồng trọt nhưng nhân dân cứ tranh thủ vào trồng các cây lương thực nên bộ đội chúng tôi không phải chịu trách nhiệm về sự tàn phá của cuộc diễn tập bắn đạn thật đối với cây trồng của dân trong khu vực trường bắn.
Chúng tôi bắn xong, trường bắn tạm nghỉ, nuôi quân mang lên cho mỗi người một chiếc bánh mì kẹp thịt. Đói, kết quả bắn tốt, chúng tôi ăn rất ngon. Dưới chân cao điểm, lệnh thông đường! Từng đoàn người xe tấp nập kéo nhau qua dưới chân đài quan sát, còi xe rú lên inh ỏi. Không khí đài trở nên ồn ào tiếng cười nói. Ăn xong chúng tôi lại khoác máy đo xa, phương tiện khí tài xuống đồi, di chuyển đi ngang qua sườn núi Múc đến đài quan sát phát triển lên phía trước trên cao điểm 36 ở phía bắc của núi Múc.
Chúng tôi bước vào giai đoạn hai của cuộc diễn tập: Di chuyển đến đài phát triển và trận địa dự bị. Ở vị trí đài mới này vì góc giãn cách lớn nên chúng tôi sử dụng phương pháp chỉ huy bắn đồ giải bằng thước SB70 kết hợp cùng việc dùng đồng hồ giây bắn sửa theo độ lệch. Lúc này đã thay trung đội trưởng. Ở trận địa cử người lên và trên đài cử người xuống. Thằng Thắng ở trận địa được chuyển lên đài nên rất ấm ớ về địa hình. Sau này rút kinh nghiệm đợt diễn tập giá như lúc ấy trong chúng tôi, bộ phận vốn đang ở trong đài quan sát chỉ huy cử ra một học viên làm chỉ huy bắn chắc kết quả không kém như hôm đó. Vừa chiếm lĩnh đài xong, chúng tôi vào bắn ngay, kết quả đo đạc tọa độ đài chưa xong, giáo viên hủy kết quả và cung cấp ngay cho tổ đài chúng tôi tọa độ đài quan sát. Lần này chúng tôi chỉ huy bắn bằng đồng hồ giây.
Lúc trận địa bắt đầu bắn, gió rất lớn làm chúng tôi lo ngại về đường bay của quả đạn. Quả nhiên, phát đạn đầu tiên lệch phải 02.00 và xa 400 mét. Sửa xong Thắng cho bắn bốn phát trong 15 giây theo đúng yếu lĩnh song giáo viên cho tạm ngừng ngay vì phải sửa bắn và thử lại cho chính xác rồi mới tiếp tục. Nhưng không kịp nữa rồi. Lệnh bắn đã truyền xuống trận địa, pháo thủ đã giật cò, đạn đã đang bay, chỉ kịp tạm ngừng viên đạn thứ hai. Sửa xong chúng tôi tiếp tục bắn ba phát còn lại, cũng may các viên đạn đã “bao bọc được mục tiêu”. Kết quả bài bắn được tổ giáo viên chiến thuật cho đạt 5 điểm. Không hiểu sao tất cả các bài bắn sửa theo độ lệch của cả ba tổ đài đều chỉ đạt 5 điểm. Đấy là giáo viên còn chiếu cố nữa đấy. Suốt buổi hôm ấy, không khí trường bắn sao mà xáo động đến thế. Tiếng pháo nổ, tiếng đạn bay thành một không khí hào hùng. Khi bắn xong các bài tập, chúng tôi kết thúc diễn tập bằng tình huống do cấp trên phát ra: “Quân địch thiệt hại đang rút chạy ra khỏi Xuân Mai…”. Chúng tôi thu khí tài, trang thiết bị, kiểm tra vật chất và lên xe về trường; kết thúc đợt diễn tập.
Mấy ngày sau đó chúng tôi tiến hành bảo quản pháo, khí tài, trả vật chất và tổ chức sinh hoạt rút kinh nghiệm. Do kết quả diễn tập bắn đạn thật của Đại đội 33 của chúng tôi là khá nhất trong tiểu đoàn nên được chỉ huy tiểu đoàn thưởng một con lợn giống năm ki-lô-gam để nuôi, sau đó nó lớn, thịt để liên hoan đơn vị. Cuộc diễn tập bắn đạn thật trên điểm cao Nam núi Múc của các học viên năm thứ hai của chúng tôi đã diễn ra như vậy!