Trên bìa cuốn Phật Quang thái căn đàm từng in Phương thuốc chữa tâm bệnh của thiền sư Thạch Đầu1, đồng thời còn đính kèm Phương thuốc của sự sống, gồm: một dải Lòng hảo tâm, một mảnh Lòng từ bi, ba phân Đạo lý, mười phân Kính trọng, một mảnh Đạo đức, bắt buộc phải có Niềm tin và Hành động, một cái Thành thật, mười phần Ngay thẳng, dùng hết Phóng khoáng, phương tiện thì không kể nhiều ít. Sao mười vị thuốc này trong chảo Bao dung, sắc trên lò Rộng lượng, không được để cạn nước, cũng không được để cháy, bớt ba phần lửa (không được Nóng nảy), sau đó bỏ vào nghiền nhỏ trong cối Ngay thẳng (đồng tâm hiệp lực), lấy Suy nghĩ kỹ làm căn bản, khuyến khích làm thành thuốc viên, mỗi ngày uống ba lần bằng nước Quan tâm và Yêu thương. Như vậy thì bách bệnh đều khỏi.
1 Thiền sư Thạch Đầu: Còn gọi là Thạch Đầu Hy Thiên, sống thời nhà Đường, ngài trú tại chùa Nam Đài ở Hoành Sơn, bên phải chùa có một tảng đá lớn, giống như một nền rộng, bèn dựng am ở bên trên đó để tu tập. Nên người thời đó thường gọi ngài là hòa thượng Thạch Đầu.
Tâm của chúng ta bị bệnh, có lúc sẽ thấp thỏm, nóng nảy, có lúc lại muốn bay nhảy; có lúc tham lam vô tận, có khi lại sân hận không ngừng.
Khi đổ bệnh, ta có thể dùng vật lý trị liệu, cũng có thể điều trị bằng thuốc thang hoặc bằng thực phẩm, vận động, v.v. nhưng khi tâm hồn đổ bệnh, ta phải làm sao?
Phật giáo có nói rằng, đức Phật là một vị thầy thuốc giỏi, Phật pháp chính là phương thuốc của tâm, tăng sĩ như người khám bệnh. Bình thường không khó để nhận ra một người có bị bệnh hay không; cho dù không nhìn được bằng mắt thường thì chúng ta cũng có thể biết được thông qua các loại máy móc, nhưng bệnh trong tâm hồn thì khó lòng mà nhìn thấy được, mà cho dù có biết, cũng khó mà trị dứt điểm.
Ví dụ như bệnh nghi ngờ, bệnh ngạo mạn, bệnh sân hận, bệnh giả dối, bệnh phiền não, thậm chí bệnh không biết xấu hổ, bệnh lười biếng, chán nản, cẩu thả, v.v. nếu ta không dựa vào phương thuốc trị tâm bệnh của đức Phật, sao có thể trị hết được những chứng bệnh thuộc về tâm?
Bụi trần trong tâm, giống như tình trạng bệnh lý nhiều không thể kể xiết trong tâm của chúng ta vậy, vì thế, Phật pháp mới có rất nhiều phương thuốc để chữa tâm bệnh. Ví dụ như: Căn bệnh tham lam phải được chữa bằng phương thuốc Hỷ xả, bệnh oán hận thì phải dùng thuốc Từ bi, bệnh ngu si thì phải dùng thuốc Trí tuệ, bệnh ngạo mạn thì phải dùng thuốc Khiêm nhường, bệnh nghi ngờ, lo lắng dùng thuốc Chính tín, bệnh tà ác thì dùng thuốc Chính đạo.
Thời Đường có ông Lã Động Tân1 theo học thuật điểm kim với ông Hán Chung Ly2. Một hôm, Lã Động Tân hỏi Hán Chung Ly rằng: “Vàng được biến thành từ thuật điểm kim có trở về lại nguyên trạng ban đầu không?”
1 Lã Động Tân (796 - ?): Hay Lữ Động Tân, tên húy là Lã Nham, tự Động Tân, đạo hiệu Thuần Dương Tử, tự xưng là Hồi đạo nhân. Ông là vị tiên nổi tiếng trong Đạo giáo, một trong Bát Tiên, được tôn làm một trong Ngũ Ân Chủ, Ngũ Văn Xương. Trong Đạo giáo Trung Hoa thì phái Toàn Chân tôn Lã Động Tân làm một trong Ngũ Dương tổ, nhân vật tiêu biểu của phái Nội đan cũng như dòng tư tưởng Tam giáo đồng lưu.
2 Hán Chung Ly (168 - ?): Họ Chung Ly, tên Quyền, tự Tịch Đạo, hiệu Vân Phòng tử, tự xưng “Thiên hạ đô tản Hán Chung Ly Quyền”, là một trong số Bát Tiên của Đạo giáo. Nguyên mẫu của ông là một vị đại tướng thời Đông Hán nên gọi là Hán Chung Ly. Vị tiên này thường được coi là người đứng đầu bát tiên. Ông sử dụng một chiếc quạt có khả năng cải tử hoàn sinh.
Hán Chung Ly đáp: “Phải 500 năm sau nó mới trở lại nguyên trạng ban đầu là đá hoặc sắt”.
Lã Động Tân nghe vậy bèn nói: “Nếu vậy thì chẳng phải sẽ hại người của 500 năm sau sao? Tôi nghĩ tốt nhất là tôi không học thuật này nữa”.
Hán Chung Ly nghe vậy liền khen: “Muốn tu thành tiên thì cần tích luỹ 3000 năm công hạnh, nhưng chỉ với lời này, ông đã viên mãn 3000 năm công đức rồi!”
Trong Ngũ khổ chương cú kinh viết: “Tâm tạo ra địa ngục, tâm tạo ra súc sinh, tâm tạo ra trời người”, ba đường sáu cõi đều được quyết định ngay tại trong mỗi niệm ở tâm của chúng ta. Tâm sinh, mọi bệnh sinh, cho nên Phương thuốc chữa tâm bệnh là phương thuốc cực kỳ quan trọng với chúng sinh phàm phu ham thích ngũ dục, lục trần này!