Ian Grint đến sớm. Simon đã đoán là anh ta sẽ như vậy, anh đã cảm nhận được cơn giận dữ của tay thám tử chỉ vài giây sau khi gặp anh ta, sự sốt ruột của một người cần phải chứng minh người khác là sai, và thật nhanh chóng. Grint đi về phía quầy, làm một cử chỉ nâng cốc với Simon, người vừa gật đầu. Thật ra thì, anh không cần nhiều thời gian như cả anh và Grint tưởng là anh sẽ cần. Anh đã đọc xong toàn bộ mọi thứ nửa tiếng trước và đã đi tản bộ một vòng. Quán rượu Grint đã chọn, quán Sống Và Để sống, nằm trong khu dân cư, nên Simon chưa hề thấy bất kỳ tòa nhà đại học cổ kính nào mà Charlie bảo anh phải đi xem bởi chúng rất đẹp, chỉ có nhà cửa và một quán rượu nhỏ khác: quán Sáu Chiếc Chuông.
Simon đi loanh quanh và rút ra kết luận rằng Cambridge là một nơi sáng tạo hơn Spilling. Dễ chịu đựng hơn nữa. Màu sắc của những cánh cửa trước đã làm anh ngạc nhiên: vàng, cam, tím nhạt, hồng, ngọc lam sáng. Có vẻ là cư dân của Cambridge tin rằng tất cả mọi sắc độ đều thích hợp để dùng. Ở Spilling hầu hết mọi người lựa chọn màu sắc ảm đạm và trang nghiêm: đen, đỏ thẫm, xanh lá cây thẫm. Simon ngờ rằng chỉ có duy nhất một cánh cửa màu cam trong cả vùng Culver Valley.
Tên của những quán rượu ở Spilling cũng quá nặng nề truyền thống: quán the Brown Cow (Bò Nâu), The Star (Ngôi Sao), The Wheatsheaf (Bó lúa mì), The Crown (Vương miện). Dù mất một triệu năm nữa cũng chẳng bao giờ có người chủ nào ở Culver Valley gọi quán của mình là Sống Và Để sống. Sống Và Xoắn Cả Lên Với Bất Kỳ Ai Không Sống Như Cách Bạn Sống, thì có thể - gọi tắt là quán Sống Và Xoắn. Quán Liv Và Chris Gibbs, Simon suy nghĩ kỳ cục - đó là quán rượu mà Charlie sẽ không đặt chân vào.
Anh lấy giấy tờ ra khỏi bàn, đặt nó xuống chiếc ghế bên cạnh mình khi Grint tiếp cận anh với cốc bia trong tay. “Tôi hy vọng không ai trong số những người đồng nghiệp đáng mến của tôi đã từng ở đây và nhòm mấy tờ giấy qua vai anh,” anh ta nói. “Dù rất muốn bị đuổi việc ngay bây giờ, có lẽ tôi nên cố gắng không để bị như vậy. Tôi không nghĩ là vợ mình sẽ đánh giá cao điều đó.” Từ “đáng mến” ngập tràn sự mỉa mai.
“Tôi sẽ làm anh thất vọng đấy,” Simon nói với anh ta. “Tôi chưa tìm ra được nhiều. Không có gì để anh có thể đặt trước mặt thanh tra cấp trên của anh và nói, ‘Đây là một góc độ mới, một hướng để mọi việc tiến triển.’“
“Dù sao thì, anh cũng tìm ra một thứ gì đó?”
“Một thứ gì đó và chẳng gì cả. Những bản tường trình mà Kit và Connie Bowskill đã ký - anh lấy riêng từng cái hay...”
“Riêng.” Grint uống một ngụm bia, rồi chùi miệng bằng mu bàn tay. “Bản tường trình chính thức, cả hai người họ đều chỉ có một mình với tôi. Sau đó, tôi cho họ vào một phòng cùng nhau và cho họ trải qua tất cả những việc đó một lần nữa, mang theo cả Sam Kombo nữa. Tôi muốn xem họ thay đổi đến thế nào khi có mặt người kia, nếu có sự thay đổi.”
“Có không?”
“Không phải theo cách anh có thể dự đoán được. Anh ta trông có vẻ không thoải mái hơn khi cô ta ở đó, nhưng nếu là tôi thì tôi cũng vậy, trong hoàn cảnh của anh ta - cô ta phun những lời buộc tội vào chồng, từ bên trái, bên phải và chính giữa, mọi phía. Cô ta có vẻ tăng động hơn một chút ở trước mặt anh ta so với khi chỉ có một mình, nhưng ít thôi.”
Simon lật qua những trang giấy tờ, lần tìm bản tường trình của Connie và Bowskill. “Khi anh phỏng vấn họ riêng biệt, anh có để ý thấy điều gì lạ không?”
Grint cười. “Ý anh là, ngoại trừ mọi thứ về họ?”
“Những sự tương phản thực tế.”
“Anh muốn tôi bắt đầu từ đâu đây? Anh ta tin rằng vợ hẳn là đã cài đặt địa chỉ vào định vị của mình, cô ta thì nói chồng đã làm thế. Anh ta đoán vợ có thể là kẻ giết người tâm thần, cô ta thì nghĩ chồng mới là kẻ tâm thần. Mỗi người họ đều sẵn sàng nghi ngờ đối phương đã giết người trên cơ sở của một bức ảnh và chẳng còn gì khác - một bức ảnh anh thậm chí còn chưa xem.” Grint lắc đầu. “Quái dị còn chẳng hề đủ để diễn tả.”
“Còn một điểm bất đồng nhỏ giữa họ nữa mà có thể rất đáng chú ý.” Simon đưa hai bản tường trình cho Grint. “Ngôi nhà họ suýt nữa mua ở Cambridge năm 2003. Trong bản tường trình của Connie Bowskill, cô ta ghi địa chỉ là số 17 Pardoner Lane. Trong bản của Kit, nó là số 18 Pardoner Lane.”
Grint cau mày. Nhìn chằm chằm trong khi Simon chỉ vào những đoạn có liên quan. “Không thể tin được là tôi bỏ lỡ nó,” cuối cùng anh ta cũng nói. “Dù sao, với khoảng cách bảy năm ròng, rất dễ để một người nhầm lẫn. Tôi ngờ rằng nó chẳng có nghĩa gì cả.”
Simon không đồng tình. “Cả hai người họ đều chỉ ra rằng ngôi nhà ở bên cạnh một ngôi trường tên là Trung tâm Beth Dutton. Cả hai người đều miêu tả chi tiết vì sao ngôi nhà đặc biệt này lại thu hút với họ: lò sưởi từ thời Victoria nguyên bản, lan can sắt nguyên bản bên ngoài...” Simon nhún vai. “Dù là ai đã nhầm lẫn đi nữa, tôi không thể hiểu được tại sao họ nhớ được tất cả những thứ đó mà lại không phải là số nhà.”
“Tôi vẫn quên những chuyện lặt vặt suốt,” Grint nói. “Anh không thế sao?”
Simon chẳng bao giờ quên điều gì. Anh né tránh câu hỏi. “Điện thoại của Connie Bowskill chuyển thẳng tới hộp thư thoại - tôi đã thử gọi cô ta chắc phải năm chục lần kể từ khi trở về từ Tây Ban Nha. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với người chồng, nên tôi không có số của anh ta. Tài liệu của anh có, nên tôi đã tận dụng nó.” Anh chờ đợi Grint quở trách mình. Khi việc đó không xảy ra, anh tình nguyện cung cấp thêm thông tin. “Anh ta đã đồng ý gặp tôi tối nay lúc tám giờ.”
“Ở đâu?” Grint hỏi.
Không phải việc của anh. Simon tự nhắc mình đừng thành ra thằng khốn. Grint có quyền được biết.
“Tại một quán rượu - quán Maypole. Tôi đang định nhờ anh chỉ đường.”
Grint kêu lên một tiếng khó chịu. “Quán Maypole,” anh ta lầm bầm, như thể cái tên đó làm anh ta cảm thấy bị xúc phạm. “Tôi sẽ không đi với anh đâu, trong trường hợp đó.”
Tôi có bảo anh đi cùng đâu. Simon giỏi nói chuyện với riêng một ai đó hơn là nói trong một nhóm, dù chỉ là nhóm nhỏ.
“Anh có thể gọi cho tôi sau, nói với tôi nếu anh lấy được thông tin gì có giá từ anh ta,” Grint nói. “Nếu không, tôi sẽ phải ngừng việc giả vờ mình là siêu anh hùng. Tôi sẽ làm cho ngài trên cao hạnh phúc bằng cách tuân theo mệnh lệnh và vờ như chưa từng có chuyện gì xảy ra - không còn nhiều việc tôi có thể làm, phải không?”
Anh ta thất vọng, Simon nhận ra. Sam đã khoa trương về tài năng của Simon, và Grint đã mong đợi anh nghĩ ra một kế hoạch hành động, mong đợi anh tìm thấy một điều gì đó trong những tài liệu anh ta đã đưa mà trước đây bản thân anh ta chưa thấy được. Simon mới là người hóa ra chẳng phải siêu anh hùng.
“Theo như Kit Bowskill, điện thoại của Connie đã hỏng,” anh nói. “Cô ta ném nó xuống đường.”
“Phải rồi, cô ta có thể làm thế.” Grint nhìn đồng hồ. “Anh còn tận một tiếng đồng hồ nữa cơ. Có muốn ăn tạm cà ri không? Anh có thể kể cho tôi những giả thuyết khó tin của mình và tôi có thể kể cho anh giả thuyết của tôi. Tôi luôn nhận thấy rằng những ý tưởng nhảm nhí lại mở đường cho những ý kiến hay.”
Simon cảm thấy không thoải mái khi đi ăn với những người mình không biết rõ. Tại sao người ta lại phải đi ăn cùng nhau? Để làm gì cơ chứ? “Tôi không nghĩ đến đồ ăn,” anh nói. Anh nghĩ về Pardoner Lane, rằng nó chắc chắn không quá xa chỗ anh đang đứng bây giờ. Anh có đủ thời gian để đi tìm nó, nhìn xem Trung tâm Beth Dutton ở bên cạnh số 17 hay 18. Một sự không tương thích nhỏ, đúng, nhưng không có lý do gì để nghĩ rằng nó không quan trọng tương đương.
Cũng như vậy, không có lý do gì phải nhắc đến kế hoạch hay những suy nghĩ của anh cho Ian Grint.
***
“Anh có nhớ cái đêm ở quán Brown Cow vài năm trước, khi anh suýt nữa tham gia vào một cuộc ẩu đả không?” Olivia hỏi Gibbs. Họ đang nằm trên giường cùng nhau tại khách sạn Malmaison ở London. Họ đã thử một vài khách sạn trong tuần này, nhưng đây là khách sạn ưa thích của Olivia. Những bức tường và sàn nhà đều tối màu - đỏ, nâu, tím, đen ở mọi chỗ, cảm giác như thể đang bước vào bên trong trái tim của con người. Liv đã nói với Gibbs về giả thuyết của mình nhiều lần: khách sạn hẳn là đã được trang trí với một tâm tư chứa đựng khao khát bí mật.
“Anh đã suýt dính vào rất nhiều vụ ẩu đả.”
“Vụ mà có một tay nói rằng anh lấy ghế của bạn hắn ta mặc dù hắn đã nói ghế này có người ngồi rồi. Anh nói hắn bảo với anh ghế chưa có ai cả.”
Gibbs lắc đầu. “Không nhớ.”
“Vậy mà anh lại nhớ đã gặp em ở Brown Cow?”
Anh ta nhìn cô bằng ánh mắt kỳ lạ. “Luôn luôn.”
“Anh đã nghĩ gì?”
“Nghĩ?”
“Khi anh thấy em ấy.”
“Anh không biết. ‘Cô chị gái của Charlie với giọng điệu bề trên và bộ ngực khổng lồ.’ Em nghĩ gì khi thấy anh?”
“Em không nghĩ chuyện này sẽ xảy ra, không thể trong một triệu năm nữa. Anh có nghĩ thế không?”
“Không.”
“Anh không nghĩ như thế là kỳ lạ à?”
“Gì cơ?”
“Rằng không ai trong chúng ta lại đoán được mình sẽ kết thúc... ở chỗ chúng ta bây giờ.”
“Không hẳn,” Gibbs nói. “Làm sao chúng ta biết được điều gì chuẩn bị xảy ra trước khi nó xảy ra?”
“Ý em là, chúng ta còn không nghĩ rằng mình muốn chuyện này xảy ra.”
“Thế thì sao ? Dù gì nó vẫn cứ xảy ra.”
“Ý anh là gì?” Olivia đẩy anh ta ra. “Anh có nghĩ thế thật không? Việc nó vẫn sẽ xảy ra, dù chúng ta không hề đoán được trước?”
Gibbs suy nghĩ. “Chuyện đã xảy ra rồi,” anh ta nói. “Trước khi nó diễn ra, ắt là nó chuẩn bị diễn ra.”
“Anh nghĩ việc chúng ta cuối cùng lại ở đây cùng với nhau là không thể tránh khỏi?”
“Giờ thì là như vậy mà,” Gibbs nói.
“Phải, nhưng ý em là...” Olivia băn khoăn phải đặt câu hỏi như thế nào cho tốt nhất. “Trước đám cưới của Charlie và Simon, liệu có thể nào có chuyện chúng ta ở cạnh nhau hay không, hay cái khả năng chúng ta không đến với nhau chưa bao giờ tồn tại hết?”
“Cái thứ hai,” Gibbs nói.
“Thật sao?” Liv cố gắng không để lộ sự hào hứng trong giọng nói. “Chưa từng có bất kỳ khả năng nào là chúng ta sẽ không qua lại với nhau - đó là điều anh thực sự nghĩ? Vậy là anh tin vào định mệnh? Anh tin rằng ý nguyện là một sự ảo tưởng?”
“Em lại đang làm thế nữa rồi.”
“Sao cơ?”
“Bất kỳ điều gì anh nói, em đều biến nó thành một thứ anh không thể hiểu nổi, rồi nói với anh đó là điều anh đã nói. Việc anh nói gì chẳng có nghĩa lý. Em viết ra những câu thoại cho anh, anh chẳng quan tâm.”
“Em mới là người chẳng hiểu gì hết,” Liv rên rỉ. “Giải thích đi!”
Gibbs nhìn chăm chú lên trần. “Khi điều gì đó xảy ra, em có thể nhìn lại và nói nó đã luôn định trước là sẽ xảy ra - bởi vì đúng là như vậy. Chẳng có sự lựa chọn nào khác, một khi chuyện đã rồi.”
“Em không hiểu liệu anh đang nói những lời lãng mạn hay không.”
Anh nhún vai. “Không có chủ ý gì hết. Anh chỉ đang nói ra một sự thật.”
“Thôi được rồi - vậy anh nghĩ gì về tương lai?”
“Toàn là ân ái.”
“Với em?” Olivia hỏi.
“Không, với Ant và Dec chết tiệt. Rõ ràng là em rồi.”
“Em không nghĩ Debbie sẽ nghĩ như thế là rõ ràng đâu.”
“Đừng nói về Debbie.”
“Dom cũng sẽ không nghĩ thế.”
“Cả anh ta nữa.”
“Có gì trong tương lai của họ? Dom và Debbie?”
“Không phải chúng ta,” Gibbs nói.
***
“Tôi vẫn thường xuyên đến đây khi còn là sinh viên,” Kit Bowskill nói với Simon. “Rất thích chỗ này. Kể từ hồi đó, tôi luôn có hứng thú với những quán rượu khuất nẻo khó tìm ở cuối phố. Không bao giờ trên những trục đường lớn. Một quán rượu ở trên mặt đường lớn là sai hẳn.” Anh ta mỉm cười, uống một ngụm ly Guinness của mình. “Xin lỗi. Tôi nói huyên thuyên quá.”
“Tôi có thể tới Silsford,” Simon nói, cảm nhận được sự lo lắng của anh ta. “Hay London. Anh có lý do gì để muốn được gặp mặt tôi ở đây không?”
“Như tôi đã nói đấy: tôi thích quán Maypole.”
Simon vẫn nhìn anh ta. Cuối cùng, Bowskill đỏ mặt và nhìn đi chỗ khác, nới lỏng cà vạt. “Tôi là một kẻ nói dối vô vọng, anh thấy đấy. Dù sao thì tôi cũng chuẩn bị đến Cambridge tối nay. Để gặp Connie.”
“Cô ấy có ở đây?”
“Tôi không biết bây giờ thì đã có mặt ở đây chưa, nhưng cô ấy nói sẽ gặp tôi lúc chín rưỡi.”
“Ở đâu?”
Bowskill trông có vẻ hối lỗi. “Tôi nói với cô ấy tôi sẽ gặp anh, và anh đã cố liên lạc với cô ấy. Cô ấy không muốn nói chuyện với anh.”
“Tại sao không?”
“Cô ấy tức giận với anh vì đi xa mà không báo cho cô ấy. Cô ấy tìm tới anh để được giúp đỡ và anh không giúp cô ấy.”
Dễ thấy là Simon đã thất bại trong việc che giấu sự khó chịu của mình, bởi Bowskill nói, “Tôi là anh thì sẽ không để bụng đâu. Con bây giờ đang giận dữ với tất cả mọi người - cảm thấy như cả thế giới này làm cô ấy thất vọng.”
Ở bàn bên cạnh họ, ba người đàn ông trung tuổi đang lớn tiếng nói chuyện về một học bổng - ai đó không xứng đáng đã được trao tặng, người xứng đáng lại không được. Một trong số họ rất tức giận vì việc này. Simon cố gắng bỏ ngoài ta những câu nói của họ, tập trung vào lời của Bowskill.
“Ngôi nhà anh và Connie suýt nữa mua năm 2003,” anh nói.
“Số 18 Pardoner Lane?”
“Địa chỉ của nó là như thế à?”
Bowskill gật đầu.
“Connie không nghĩ thế.”
“Ý anh là gì?”
“Cô ấy nói với Ian Grint nó là số 17. Số 17 Pardoner Lane.”
“Trong trường hợp đó, cô ấy đã nhớ nhầm,” Bowskill nói. “Nó là số 18.”
“Sao cô ấy lại nhầm nó?”
“Tại sao lại có ai nhầm một cái gì đó? Nếu tôi ngồi đây và liệt kê tất cả mọi thứ Connie đã sai lầm trong suốt sáu tháng qua, chúng ta sẽ vẫn phải ở đây cho tới tận thứ Năm tuần sau.”
Simon gật đầu. “Anh hẳn là cảm thấy khá giận dữ với cô ấy.”
“Tôi không được phép như vậy, phải không? Tôi ước mình tin được là cô ấy cố tình lên kế hoạch để phá hủy cuộc đời của cả hai - ít nhất tôi có thể ghét cô ấy. Như bây giờ, tôi đang sống trong một cái hộp vô danh ở London, bị vây quanh bởi rất nhiều những bộ vest, bị cấm cửa khỏi ngôi nhà tôi đã dành nhiều năm tạo dựng nên - từ con số không, gần như là như vậy. Melrose Cottage là một đống đổ nát khi chúng tôi mua nó. Đâu có phải là Connie đã đánh bóng mặt sàn, lát gạch cho lò sưởi, sắp xếp sân vườn - mà là tôi. Và giờ cô ấy đuổi tôi đi. Phải, tôi rất mong được tức giận với cô ấy, nhưng không phải cô ấy là người gây ra tất cả những chuyện này, nó là... tôi không biết nữa, một thứ gì đó đã xâm nhập vào cô ấy, một loại điên rồ nào đó. Cô ấy không nhận thức được chút nào những việc mình đang làm từ lúc này sang lúc khác. Cô ấy không còn là Connie nữa - đó là điều tồi tệ nhất trong tất cả những chuyện này.” Bowskill chớp chớp cho nước mắt khỏi rơi, hẳn nhiên là hy vọng Simon không để ý đến chúng.
“Tôi vừa trở về từ Pardoner Lane. Ngôi nhà hai người đã không mua năm 2003 là số 18.”
“Vậy là anh tin tôi?”
Một câu hỏi mà Simon rất muốn tránh, đặc biệt là khi giờ đây Bowskill trông có vẻ tự tin hơn. Tin tưởng chẳng liên quan gì đến chuyện đó, Simon đã tự mình kiểm chứng sự thật. Sự tự tin của anh nằm trong những khám phá của riêng anh, không phải từ Bowskill. Nhưng, anh vẫn có những câu hỏi cá nhân khác mà mình muốn hỏi, và sẽ chẳng hại gì khi cố gắng đi xa hết mức có thể theo con đường thoải mái. “Số 18 Pardoner Lane nằm bên cạnh Trung tâm Beth Dutton, vậy nên không có gì để tranh cãi cả,” anh nói. “Anh nói đúng còn Connie nói sai. Về số nhà. Cô ấy đã nói đúng về tất cả những thứ còn lại: lan can bằng sắt, kiến trúc kiểu Victoria, cửa sổ kính trượt. Số 17 nằm ở bên kia đường.”
Chủ nhân của nó, một cặp đôi trung niên thân thiện, đã mời Simon vào uống cà phê và trông có vẻ thất vọng khi anh nói không cần, anh chỉ có một câu hỏi nhanh cho họ. Họ đã mua ngôi nhà này hoàn toàn mới vào năm 2001, từ khoảng thời gian đó nó chưa từng được rao bán. Phải, họ nhớ rằng số 18 được rao bán năm 2003. Nó đã được bán ngay sau vài tuần, họ nói với Simon, và điều tương tự xảy ra khi nó được rao bán lần nữa năm ngoái. “Thực ra là, chúng tôi đã tính chuyện mua nó - hai lần. Mặt tiền của nó đẹp hơn nhà chúng tôi và phòng cũng rộng hơn. Không may là, điều đó cũng được phản ánh trong giá của nó. Và khi nghĩ về việc đó, có vẻ điên rồ khi chuyển sang bên kia đường - dù điều đó không thực sự có lý lắm, phải không? Nó giống như khi bạn đi ăn ở ngoài và ai đó gọi món bạn muốn và bạn nghĩ, ‘Ồ, được thôi, mình không thể gọi món đó nữa vì cô ta đang ăn nó mất rồi’, và rồi cuối cùng thì bạn gọi một món bạn không thích chút nào!”
Simon gật đầu, kinh ngạc. Anh muốn tránh những nhà hàng ra, nhưng dù sao, anh cảm thấy mình đáng ra nên biết rõ chủ nhân của số 17 Pardoner Lane đang nói về điều gì, mà anh lại không biết. Anh dành quá nhiều thời gian gật đầu với những thứ chẳng có nghĩa lý gì với mình cả, chỉ để giữ phép lịch sự.
“Tôi cần hỏi anh một câu hỏi riêng tư,” anh nói với Bowskill.
“Cứ hỏi đi.”
“Bố mẹ của anh.”
Phản ứng đó là không thể nhầm lẫn được: một sự tức giận ngay tức khắc. Với Simon, vì đã hỏi, hay với ông bà Bowskill? Simon không thể biết được. Anh biết một chút về họ, nhờ có Connie. Tên họ là Nigel và Barbara, họ sống ở Bracknell, Berkshire. Họ điều hành công việc kinh doanh riêng: cái gì đó có liên quan đến tạo tia la-de được dùng cho kỹ thuật nhận dạng vân tay.
Bowskill đã lấy lại sự bình tĩnh. “Để tôi đoán nhé,” anh ta nói. “Connie đã kể với anh là tôi không còn liên lạc với họ nữa. Tôi cho là cô ấy đã kể với anh tại sao?”
“Cô ấy nói với tôi chưa từng thực sự hiểu được tại sao.”
“Thật là vớ... “ Bowskill kiềm được cơn tức giận. Một nụ cười gượng ép thay thế cho vẻ cáu kỉnh của anh ta. “Như vậy là không hề đúng. Connie biết hoàn toàn chính xác chuyện gì đã xảy ra.”
“Anh có thể kể cho tôi được không?” Simon hỏi.
“Tôi không hiểu sao anh lại quan tâm. Nó có liên quan tới chuyện gì không?”
“Tôi chỉ muốn biết thôi.” Simon cố làm cho nó nghe như một sự tình cờ. Chẳng có lý do gì để nói với Bowskill đó là nguyên nhân chính mà anh muốn gặp anh ta. “Với tư cách là một người mà bố mẹ anh ta đang là bên cố gắng...”
“Nhưng nếu anh rơi xuống đáy vực, họ sẽ ở đó vì anh, phải không?” Bowskill nói. “Trong tình thế khẩn cấp, họ sẽ làm bất kỳ điều gì - họ sẽ chăm sóc cho anh.”
Simon chưa bao giờ nghĩ về điều đó. Những ngày còn nhỏ, suốt thời thơ ấu của anh, mẹ đã làm anh ngộp thở với sự chăm chút của bà, đối xử với anh như thể anh làm từ thủy tinh và sẽ tan vỡ nếu anh làm bất kỳ điều gì liều lĩnh kiểu như sang nhà bạn chơi. Giờ đây, thật khó để tưởng tượng Kathleen lại chăm sóc ai đó. Tiếng nói của bà đã mất đi trọng lượng lâu lắm rồi. Dù bà mới sáu mươi mốt tuổi và không có vấn đề gì về sức khỏe cả, bà cử động và nói năng như một di hài cổ mỏng manh lê bước dần về phía diệt vong. Simon thường tưởng tượng việc gặp gỡ bà với tư cách là một người xa lạ, mà thực ra đó chính là điều anh nghĩ về bà. Nếu được yêu cầu đoán tuổi tác và câu chuyện của bà, anh chắc chắn sẽ nói là tám mươi, và ở một thời điểm nào đó đã từng bị kề dao vào cổ bởi những tên sát nhân trẻ và mất đi ý chí muốn được sống.
Anh mở miệng để bảo rằng trong những hoàn cảnh cấp bách thảm khốc nhất anh sẽ tìm tới rất nhiều người khác nhau - bao gồm cả những người hoàn toàn xa lạ - trước khi liên quan gì đến mẹ mình, nhưng Bowskill đang được đà nói. “Bố mẹ gì mà lại không giúp đỡ con cái mình? Tôi không có anh chị em, nên không tồn tại bất cứ sự cạnh tranh nhằm đòi sự chú ý nào của họ cả. Tôi chẳng đòi hỏi họ phải hiến thận của mình.”
“Chuyện gì đã xảy ra?” Simon hỏi.
“Connie lúc ấy đang rệu rã. Cả về thể chất và tinh thần - la hét trong giấc ngủ, ác mộng, tóc cô ấy rụng. Tôi thực sự lo lắng cho cô ấy. Tôi nghĩ... ừ thì, cô ấy đã không làm thế, cho nên chắc không phải là dại miệng khi nói: tôi nghĩ cô ấy có thể làm chuyện dại dột.”
Simon gật đầu. Thực sự lo lắng cho cô ấy. Trái ngược với giả vờ lo lắng cho cô ấy hả? Liệu đó có phải là điều Bowskill đang làm vào khoảng thời gian đó không?
“Bố mẹ tôi nói rõ ràng rằng tôi không trông chờ được gì vào sự giúp đỡ của họ.”
“Anh có hỏi xin sự giúp đỡ của họ không?”
“Ồ, có chứ. Chẳng có gì là không rõ ràng về việc này cả. Tôi hỏi, họ nói không.”
“Chính xác thì, anh muốn họ làm gì?”
“Connie đã kể cho anh nghe về họ chưa?” Bowskill hỏi. “Rằng họ tẩy não cô ấy và hăm dọa cô ấy, làm tê liệt suy nghĩ của cô ấy khiến cho cô ấy không thể tự nghĩ cho bản thân mình nữa?”
Simon lắc đầu. “Cô ấy có nói họ rất khó chịu. Về chuyện hai người chuyển tới Cambridge.”
Bowskill bật cười. “Nói giảm nói tránh thường không phải sở trường của Connie,” anh ta nói. “Rất vui được biết là cô ấy đang mở rộng vốn khả năng của mình.”
“Vậy chuyện gì đã xảy ra?” Simon hỏi. “Với bố mẹ của anh?”
“Connie đã cần phải tránh xa khỏi gia đình mình, đặc biệt là mẹ cô ấy. Tôi không biết tại sao tôi lại dùng thì quá khứ nữa - cô ấy vẫn cần như thế. Tôi đã hy vọng mẹ tôi sẽ hành động đúng như hình tượng của một bà mẹ, chỉ trong một khoảng thời gian thôi - anh biết đấy, thúc đẩy sự tự tin của cô ấy, nói với cô ấy rằng cô ấy có thể có cuộc đời mà mình mong muốn, đạt được tất cả những gì cô ấy đã quyết tâm làm. Tôi đã tự mình nói với cô ấy cho tới khi tôi phát bệnh lên vì giọng điệu của chính mình, nhưng chẳng có tác dụng gì. Tôi chỉ là một người, và tôi không phải một bậc phụ huynh, tôi ngang hàng với cô ấy. Dù tôi có nói gì đi nữa, chỉ tôi thôi cũng không đủ để thay thế gia đình của Connie, dù họ có ảnh hưởng xấu tới cô ấy đến mức nào - và cô ấy hoàn toàn hiểu rõ họ đang gây tổn hại đến mình như thế nào, không phải là cô ấy không thể nhận thức được điều đó. Nhưng... cô ấy sợ phải phản đối mẹ mình, người không muốn cô ấy chuyển tới Cambridge. Thật là vô vọng. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ dụ dỗ được cô ấy xa lánh gia đình mình trừ phi tôi có... ừ thì, một thứ gì đó ngoài chính bản thân mình để dành cho cô ấy. Cô ấy và mẹ tôi luôn hòa thuận với nhau, bố mẹ tôi đã tuyên bố yêu thương cô ấy như con đẻ, nhưng... khi xảy ra chuyện như vậy, khi tôi nhờ họ đoàn kết lại và trở thành một gia đình cho Connie, họ nói, ‘Không, cảm ơn con, chúng ta không muốn dính líu vào.’“
“Anh có nghĩ họ thận trọng với việc khuyến khích cô ấy chống đối lại chính bố mẹ mình?” Simon hỏi. “Họ không muốn can thiệp?”
“Không,” Simon nói dứt khoát. “Chẳng liên quan gì tới việc đó. Họ chẳng quan tâm quái gì đến Val và Geoff Monk, chỉ để ý tới bản thân họ thôi. Họ không muốn gây khó dễ cho mình, đơn giản thế thôi. Bắt đầu lảm nhảm về chuyện một người cần phải tự đứng vững trên đôi chân mình, lệ thuộc là không tốt... Thật là đáng tởm, thật lòng là vậy - một sự rũ bỏ trách nhiệm hoàn toàn. Tôi sẽ không bao giờ làm thế với con mình, nếu tôi có một đứa. Tôi nhìn họ và nghĩ, ‘Bố mẹ là ai? Tại sao con lại bận tâm về bố mẹ kia chứ?’ Là vậy đấy - tôi không nói chuyện với họ kể từ lúc ấy.”
“Nghe có vẻ dữ dội,” Simon nói. Anh cố tạo ra một biểu cảm không lấy gì làm vui vẻ để cho hợp với biểu cảm của Bowskill, che giấu sự thỏa mãn của mình. Anh đã có một giả thuyết, và dù chưa được chứng minh là đúng, tất cả những gì Bowskill vừa mới nói cho thấy anh sẽ sớm làm được điều đó thôi.