Ởvùng ngoại ô của Damascus, trong một tòa lâu đài tráng lệ bằng cẩm thạch sáng loáng với những hàng cọ cao vút bao bọc bên ngoài, có một người đàn ông đặc biệt tên là Hafid đang sinh sống. Giờ ông đã nghỉ hưu, nhưng đế chế thương mại khổng lồ của ông vẫn được biết đến như là một đế chế không biên giới, từng mở rộng ra nhiều vùng lãnh thổ từ Parthia đến La Mã và đến cả Britannia, hùng mạnh đến mức đâu đâu cũng ca ngợi ông là người bán hàng vĩ đại nhất thế giới.
Đến khi ông nói lời tạm biệt giới thương mại sau hai mươi sáu năm tăng trưởng và lợi nhuận đạt mức kỷ lục, câu chuyện đầy cảm hứng về quá trình đổi đời của Hafid, từ cậu bé chăn lạc đà hèn mọn bước lên một vị trí đầy quyền lực và giàu sang, đã lan truyền khắp thế giới văn minh.
Trong thời đại hỗn loạn và đầy biến động, khi phần lớn thế giới văn minh cúi đầu trước Caesar và đội quân của ngài, tiếng tăm của Hafid gần như vượt qua cả ngài và trở thành một huyền thoại sống. Đặc biệt đối với tầng lớp nghèo hèn và bị áp bức ở Palestine, vùng biên giới phía Đông của đế chế, Hafid xứ Damascus được tán dương trong âm nhạc và thơ ca như một tấm gương chói sáng về những gì con người có thể giành được trong cuộc sống, mặc cho mọi rào cản và trở ngại.
Thế nhưng, dù là một người đã được nhào nặn trở thành một di sản bất hủ và đã tích cóp được một khối tài sản trị giá hàng triệu ta-lăng vàng, người bán hàng vĩ đại nhất thế giới vẫn chẳng hề cảm thấy hạnh phúc khi về hưu.
Tờ mờ sáng một ngày kia, như bao ngày khác trong suốt nhiều năm qua, Hafid xuất hiện từ cổng sau tòa lâu đài, cẩn thận bước đi trên con đường đá bazan bóng loáng vẫn còn đẫm hơi sương, nhanh nhẹn băng qua khoảnh sân trong rộng và tối. Xa xa, một con gà trống ẩn mình đâu đó cất tiếng gáy khi những tia nắng mặt trời đầu tiên lấp lánh ánh vàng chiếu xuống vùng sa mạc từ hướng Đông.
Hafid dừng lại gần đài phun nước hình bát giác giữa khoảnh sân rộng lớn và hít một hơi thật sâu, gật gù thưởng thức những bông hoa nhài rộ nở một màu vàng nhạt đang vấn vít bức tường đá cao vời vợi bao quanh lâu đài. Ông thắt lại chiếc thắt lưng da, kéo lại chiếc áo vải lanh mềm mại và tiếp tục bước chậm hơn, băng qua mái vòm tự nhiên bằng những tán cây bách đến trước một lăng mộ bằng đá granit vươn cao lên mà không một chi tiết trang trí.
– Chào buổi sáng, Lisha yêu dấu của ta! – Ông khẽ thì thầm, đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve một nụ hồng trắng vươn ra từ bụi hồng duy nhất cạnh cánh cổng bằng đồng nặng nề của lăng mộ. Sau đó, ông lùi về băng ghế đục đẽo từ gỗ gụ gần đấy rồi khoan thai ngồi xuống, mắt hướng về lăng mộ, nơi chứa đựng những gì còn lại của người phụ nữ thân thương đã cùng ông đi qua cuộc đời, qua gian nan và vinh quang chiến thắng.
Hafid cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình và trước khi kịp mở mắt, ông đã nghe thấy giọng nói khàn khàn quen thuộc của người quản lý sổ sách lâu năm, đồng thời là người bạn đồng hành trung thành của ông, Erasmus.
– Thứ lỗi cho tôi, ông chủ…
– Chào buổi sáng, anh bạn già.
Erasmus mỉm cười, chỉ tay về phía mặt trời lúc này đã ở ngay trên đỉnh đầu họ.
– Buổi sáng đã qua rồi. Chào buổi trưa, thưa ông chủ.
Hafid thở dài và lắc đầu.
– Lại một hiểm họa nữa của tuổi già. Đêm thì không ngủ được, luôn trở dậy trước bình minh, ban ngày lại ngủ suốt như mèo con. Cái tác phong này thật là phi tự nhiên quá.
Erasmus gật đầu và khoanh tay lại, trông đợi một bài ca thán nữa về nỗi phiền muộn của tuổi già. Nhưng hôm nay không giống mọi buổi sáng khác, vì Hafid đột nhiên đứng bật dậy và chạy thật nhanh về phía lăng mộ cho đến khi tay ông chạm vào phiến đá. Sau đó, ông xoay người và thét lên với chất giọng mạnh mẽ:
– Ta đã trở thành một kẻ đáng thương hại! Nói cho ta biết đi Erasmus, từ khi nào ta lại bắt đầu một cuộc sống ích kỷ và tách biệt như thế này, một cuộc sống mà từng giây từng phút đều khiến ta cảm thấy tiếc thương cho bản thân?
Erasmus đăm đăm nhìn Hafid và đáp:
– Thay đổi lớn nơi ngài bắt đầu từ việc phu nhân Lisha qua đời, và quyết định bất ngờ của ngài là từ bỏ hết tất cả những cửa hàng cũng như đoàn buôn của mình, sau khi chôn cất bà. Mười bốn năm đã trôi qua kể từ lúc ngài quyết định quay lưng lại với thế giới.
Hai mắt Hafid ươn ướt.
– Anh bạn già, người anh em yêu quý, làm thế nào mà anh có thể chịu đựng lối cư xử tồi tệ này của ta suốt từng ấy năm?
Viên kế toán già nhìn xuống, đăm đăm nhìn đôi bàn tay mình.
– Chúng ta đã ở bên nhau gần bốn mươi năm và lòng mến yêu tôi dành cho ngài là vô điều kiện. Tôi đã phục vụ ngài trong những giây phút ngài thành công và hạnh phúc nhất, và tôi phục vụ ngài ngay lúc này, vẫn sẵn lòng như trước, mặc dù tôi vô cùng đau đớn với cuộc sống còn tệ hơn cả cái chết mà ngài tự định ra cho bản thân. Ngài không thể làm phu nhân Lisha sống lại, vì thế ngài luôn cố gắng để được đoàn tụ với bà ấy trong lăng mộ kia. Ngài có nhớ nhiều năm trước, khi ngài ra chỉ thị cho tôi trông nom một bụi hồng đỏ và sẽ trồng nó cạnh bên bụi hồng trắng này, sau khi ngài qua đời và yên nghỉ nơi đây?
– Có, ta nhớ. – Hafid trả lời. – Và cũng đừng quên ta liên tục nhắc anh rằng tòa lâu đài và nhà kho này sẽ thuộc về anh sau khi ta chết. Một sự báo đáp nho nhỏ cho tình bạn và lòng trung thành suốt bao năm, cùng tất cả những gì anh phải chịu đựng từ ta kể từ khi chúng ta mất Lisha.
Hafid vươn tay ra ngắt lấy nụ hồng trắng và cầm nó trở lại băng ghế. Ông cẩn thận đặt nó vào lòng người bạn già.
– Tự thương hại là căn bệnh kinh khủng nhất, Erasmus à. Và ta đã khốn khổ vì nó quá lâu rồi. Ta đã thật ngu ngốc khi tách biệt bản thân ra khỏi nhân loại vì nỗi đau buồn vô bờ bến của mình, tự biến mình thành kẻ sống ẩn dật trong lăng mộ tại chính nơi ta và anh cùng cư ngụ. Đủ rồi! Đã đến lúc thay đổi!
– Nhưng thưa chủ nhân, đó không phải là những tháng năm lãng phí. Những đóng góp thiện nguyện của ngài cho người nghèo ở Damascus…
Hafid ngắt lời.
– Tiền bạc ư? Sự hy sinh ấy có là gì đối với ta? Tất cả những kẻ giàu có đều xoa dịu lương tâm bằng cách trao vàng cho người nghèo. Người giàu sống nhờ vào những đóng góp này, cũng như những người đói khát mà thôi. Và họ phải đảm bảo rằng cả thế giới phải biết đến sự rộng lượng vĩ đại của họ, trong khi với bản thân họ, những đóng góp đó chẳng là gì hơn một nắm những đồng bạc lẻ. Không, anh bạn đáng mến à, đừng ca ngợi lòng từ thiện của ta. Thay vào đó, hãy thông cảm cho việc ta không sẵn lòng chia sẻ thêm về bản thân…
– Thế nhưng, – Erasmus phản đối, – sự ẩn dật của ngài cũng có mặt tốt, thưa ngài. Chẳng phải ngài đã làm đầy thư viện bằng những công trình trí tuệ vĩ đại của thế giới và dành ra không biết bao nhiêu giờ để nghiên cứu, học hỏi các ý tưởng và nguyên lý đó sao?
Hafid gật đầu.
– Ta lúc nào cũng cố gắng làm bản thân bận rộn qua những ngày đêm dài đằng đẵng bằng cách để bản thân tiếp thu những kiến thức mà ta chưa bao giờ có được khi còn trẻ. Nỗ lực này đã mở ra trước mắt ta một thế giới của sự phi thường và triển vọng mà ta có rất ít thời gian để thưởng thức khi mải mê theo đuổi vàng bạc và thành công. Mặc dù vậy, ta đã kéo dài nỗi tiếc thương của mình quá lâu rồi. Thế giới này đã cho ta mọi thứ mà một người có thể mong muốn. Đã đến lúc ta bắt tay vào đền đáp món nợ này, bằng cách làm tất cả những gì có thể để cuộc sống của toàn nhân loại trở nên tốt đẹp hơn. Ta vẫn chưa sẵn sàng để đi đến nơi an nghỉ cuối cùng và khóm hồng đỏ mà ta yêu cầu anh trồng ở đây sau khi ta chết, cạnh bên bụi hồng trắng mà Lisha yêu thích, sẽ phải chờ đợi thôi.
Những giọt nước mắt vui mừng chảy dài trên đôi gò má nhăn nheo của Erasmus, trong khi Hafid vẫn tiếp tục.
– Livy1 viết lịch sử thành Rome khi ông ta bảy mươi lăm tuổi và Tiberius2 cai trị vương triều cho đến gần tám mươi tuổi. So với bọn họ, ta chỉ là một đứa trẻ… một đứa trẻ khỏe mạnh ở độ tuổi sáu mươi! Phổi ta còn sạch, cơ bắp ta còn săn chắc, thị lực vẫn tinh tường, tim vẫn đập khỏe mạnh, và tâm trí thì vẫn minh mẫn như thuở đôi mươi. Ta tin rằng mình đã được chuẩn bị cho cuộc sống thứ hai!
1 Titus Livius, trong tiếng Anh là Livy (59 TCN – 17 SCN), là một sử gia người La Mã, đã viết về lịch sử của Rôma trong cuốn Ab Urbe Condita.
2 Tiberius (42 TCN – 37 SCN) là hoàng đế thứ hai và là một trong những vị tướng vĩ đại nhất của đế chế La Mã.
– Đây đúng là phép màu tuyệt vời! – Erasmus reo vang, ngẩng mặt nhìn lên bầu trời. – Sau nhiều năm lặng im đau đớn trước tình trạng của ngài, lời cầu nguyện của tôi cuối cùng đã được đáp lại. Hãy cho tôi biết, thưa ngài, điều gì đã bất ngờ làm sống lại người đàn ông được cả thế giới yêu mến và kính trọng này đây?
Hafid mỉm cười.
– Là Lisha.
– Phu nhân Lisha ư?
– Anh vẫn nhớ chứ, suốt những năm Lisha còn sống, đã có biết bao nhiêu giấc mơ của nàng cuối cùng rồi cũng xảy ra trong đời thực?
Erasmus gật đầu.
– Những thông tin phu nhân trao cho chúng ta từ những giấc mơ của người vẫn thường ngăn chúng ta khỏi những thỏa thuận buôn bán nhiều may rủi.
Hafid chỉ về phía băng ghế:
– Sáng nay, khi ngồi ngủ gật ở đây, ta đã mơ thấy Lisha. Nàng nắm tay ta, dẫn ta đi qua những con đường ở Damascus, chỉ cho ta thấy bao nhiêu dân thường đang phải chịu cảnh đói kém, bệnh tật, đau đớn, lạc lối, nghèo nàn và bất hạnh. Ta nghe thấy giọng nàng nhẹ nhàng nói rằng ta không thể phớt lờ những mảnh đời như thế thêm một giây phút nào nữa. Nàng nhắc cho ta nhớ rằng trên thế giới có vô số những người như vậy, những người không ai thân thích, và ta không được nhắm mắt làm ngơ trước những cảnh ngộ này mà đào lỗ trốn chui trốn nhủi như một con sâu.
– Nhưng thưa ngài, chưa bao giờ phu nhân Lisha nói chuyện với ngài bằng giọng điệu như vậy.
– Chính xác, Erasmus à. Ngày trước nàng không có lý do gì để làm vậy. Nhưng gượm đã, giấc mơ của ta vẫn chưa kết thúc. Sau đó, nàng nói cuộc sống của ta sắp bắt đầu một lần nữa, và chuỗi ngày sống ẩn dật của ta sắp đi đến hồi kết, vì một người lạ mặt sẽ tìm đến ta vào một ngày gần nhất. Và ta sẽ không quay lưng lại với anh ta như đã làm với nhiều người trong quá khứ. Người lạ mặt này, theo lời Lisha, sẽ mang đến cho ta chiếc chìa khóa mở ra tương lai, một tương lai sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của rất nhiều người. Erasmus? Erasmus, sao mặt anh trắng bệch vậy? Có chuyện gì sao?
– Xin ngài thứ lỗi, thưa chủ nhân, vì quá vui mừng trước sự chuyển biến nơi ngài, tôi đã quên báo rằng có một vị khách đang ở trong thư viện chờ đợi được gặp mặt ngài.
– Một người bạn à?
– Một người lạ mặt, ít ra là đối với tôi. Ông ta xưng tên là Galenus, đến từ Jerusalem, và ông ta có lời đề nghị buôn bán với ngài.
– Sao anh không mời ông ta về theo lệnh ta, như anh đã làm với tất cả những vị khách đến thăm ta trong những năm qua?
– Có cái gì đó đặc biệt ở người đàn ông này, thưa ngài, khiến tôi không thể buộc mình mời ông ta ra về.
– Ông ta không biết rằng chuỗi ngày ngồi nghe về những đề nghị buôn bán của ta đã chấm dứt từ lâu rồi sao?
Erasmus mỉm cười và khẽ nghiêng đầu ra chiều tinh nghịch.
– Ông ta không biết. Ông ta cũng chẳng biết sự hiện diện của mình đã được báo mộng đâu, thưa ngài. Ngài vẫn muốn tôi mời ông ta ra về sao?
Lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ, tiếng cười của Hafid vang vọng khắp khoảnh sân khi hai người bạn già ôm chầm lấy nhau và cùng xoay người tiến về phía tòa lâu đài.
– Nhanh lên nào Erasmus. Không nên để giấc mộng chờ đợi lâu.