A
melia Sachs cất bình xịt hơi cay đi.
Viên trung sĩ tiềm năng trong cô có hơi đắn đo với cú xịt hơi cay ân huệ thứ hai vào mặt Constable.
Nhưng khi thấy mảnh nhọn mười bốn mi-li-mét giấu trong tay hắn, Sachs, viên cảnh sát đường phố hoàn toàn thích thú khi nghe tên cuồng tín tàn độc thét lên như một con lợn lúc cô xịt hơi cay vào hắn lần nữa. Cô bước qua một bên khi hai người lính gác xách tay gã tù nhân và lôi hắn ra.
“Bác sĩ! Tìm bác sĩ cho tôi. Mắt tôi! Tôi có quyền được gặp bác sĩ!”
“Tao đã nói mày câm miệng lại mà.” Tay lính gác lôi hắn dọc hành lang. Constable giẫy giụa hai chân. Họ dừng lại, xích mắt cá của hắn, rồi lôi hắn qua góc hành lang.
Sachs và hai lính gác nữa xem qua Joseph Roth. Anh ta còn thở nhưng đã bất tỉnh và bị thương nặng. Cô quyết định tốt nhất là đừng di chuyển anh ta. Thật nhanh chóng, một nhóm thuộc Đội Khẩn cấp tới, sau khi Sachs kiểm tra giấy tờ tùy thân của họ, họ vào xử lý tay luật sư, giúp anh ta thở dễ dàng hơn và nẹp cổ cho anh ta, rồi quàng anh ta vào một chiếc cáng, mà họ dùng đặt lên một chiếc giường đẩy. Họ đưa anh ta ra khu vực an toàn để tới bệnh viện.
Sachs lùi lại và quan sát căn phòng và khu sảnh để đảm bảo rằng Weir đã không thừa dịp lẻn vào. Không, cô chắc chắn là hắn đã không vào. Sau đó cô đi ra ngoài và chỉ khi cô lấy lại khẩu Glock từ viên cảnh sát ở bàn kiểm tra, cô mới cảm thấy thoải mái hơn. Cô gọi cho Rhyme và kể với anh những gì đã xảy ra. Rồi cô nói thêm, “Constable đang đợi hắn, Rhyme.”
“Đợi Weir à?”
“Em nghĩ thế. Hắn ngạc nhiên khi em mở cửa. Hắn cố che giấu nhưng em có thể nói là hắn đang đợi một ai đó.”
“Vậy Weir đang toan tính điều gì chứ – muốn giải thoát cho Constable sao?”
“Em đang nghĩ thế.”
“Lại là vụ đánh lạc hướng khốn khiếp,” anh lầm bầm. “Gã đã khiến chúng ta tập trung vào âm mưu giết Grady. Anh chưa bao giờ nghĩ đây lại là một vụ vượt ngục.” Rồi anh nói thêm, “Trừ khi vụ vượt ngục là để đánh lạc hướng và nhiệm vụ của Weir thực sự là giết Grady.”
Cô cân nhắc điều đó. “Cũng có thể như thế.”
“Và vẫn không có dấu hiệu gì của Weir ở bất cứ đâu?”
“Không có.”
“Được rồi, anh vẫn sẽ xem qua những gì em tìm thấy ở Trung tâm Giam giữ, Sachs. Hãy trở lại đây và chúng ta sẽ xem xét chúng.”
“Em không thể, Rhyme,” cô nói, nhìn khắp hành lang trong đó một tá những người tò mò đang đứng nhìn chằm chằm đầy phấn khích vào khu vực an ninh của sảnh. “Gã phải ở đâu đó tại đây. Em sẽ tiếp tục cuộc săn lùng.”
***
Các bài học dương cầm Suzuki cho trẻ em bao gồm tập luyện qua hàng loạt những bài trong các cuốn sách nhạc càng lúc càng khó hơn, mỗi cuốn có đại khái hơn chục bản nhạc. Khi một học trò hoàn thành một cuốn sách thành công, cha mẹ thường mở một bữa tiệc nhỏ cho bạn bè, gia đình và giáo viên âm nhạc, ở buổi đó người học trò sẽ trình diễn một trích đoạn.
Bữa tiệc Sách Suzuki Tập Ba của Christine Grady được lên lịch trong một tuần nữa từ tối nay và cô bé đã luyện tập rất chăm chỉ cho buổi hòa nhạc mini của mình. Lúc này cô đang ngồi trong phòng tập đàn trong căn hộ của gia đình, chơi nốt bản “The Wild Rider” của Schumann84.
Phòng học đàn tối và nhỏ, nhưng Chrissy thích ở đây. Nó chỉ có vài chiếc ghế, những chiếc kệ để tập chép nhạc và một cây đại dương cầm thấp đẹp đẽ, bóng loáng – tâm điểm của căn phòng.
Với chút nỗ lực, cô bé chơi phần khoan thai trong bản Sonata cung đô trưởng của Clementi85 rồi tự thưởng cho mình bằng cách chơi bản Sonata của Mozart86, một trong những bản cô bé thích nhất. Tuy nhiên, cô không nghĩ là mình đã chơi thật tốt. Cô bị phân tâm vì cảnh sát trong căn hộ nhà mình. Những người đàn ông và phụ nữ đều rất tử tế và nói chuyện vui vẻ về Star Wars hay Harry Potter hay những trò chơi Xbox với nụ cười tươi rói trên mặt. Nhưng Chrissy biết họ đều không thực sự tươi cười; họ chỉ làm thế để cô thấy thoải mái. Nhưng tất cả những nụ cười gượng gạo đó thực sự chỉ khiến cô bé sợ hãi hơn.
Bởi vì, mặc dù họ không nói ra, thực tế là việc cảnh sát có mặt ở đây có nghĩa là có người đang định làm hại cha cô. Cô bé không lo lắng về việc có kẻ định làm hại mình. Điều làm cô sợ hãi là một kẻ xấu nào đó sẽ cướp đi cha cô khỏi cô. Cô ước gì ông thôi không làm công việc ở tòa án nữa. Có lần, cô bé đã lấy hết can đảm và nói điều đó với ông. Nhưng ông nói với cô, “Con thích chơi đàn dương cầm tới mức nào, con yêu?”
84 Robert Schumann (1810 - 1856): nhà soạn nhạc và phê bình âm nhạc người Đức. Ông được coi là một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất thời kỳ lãng mạn.
85 Muzio Clementi (1752 - 1832): nhà soạn nhạc và nhạc trưởng người Anh, sinh ra ở Ý.
86 Wolfgang Amadeus Mozart (1756 - 1791): nhà soạn nhạc thiên tài người Áo.
“Rất nhiều.”
“Cha cũng thích công việc của mình như thế.”
“À. Con hiểu,” cô bé nói. Dù cô không hề hiểu. Vì chơi nhạc không khiến người ta ghét bạn và muốn giết bạn. Giờ cô bé đang nheo mắt lại và tập trung hơn. Đã nhầm mất một đoạn và rồi cố gắng chơi lại.
Và giờ, cô đã biết, họ sẽ phải tới sống ở nơi khác một khoảng thời gian. Chỉ một hoặc hai ngày, mẹ cô nói. Nhưng sẽ ra sao nếu lâu hơn thế? Sẽ ra sao nếu họ phải hủy buổi tiệc Suzuki? Buồn bã, cô bé không chơi nữa, đóng cuốn sách nhạc lại và bắt đầu cho nó vào trong chiếc túi đựng sách của cô.
Ồ, nhìn này!
Nằm trên kệ nhạc là một túi kẹo sô-cô-la bạc hà York. Không phải một cái nhỏ, mà nguyên túi lớn, kiểu được bán ở các quầy tính tiền tại Food Emporium. Cô bé tự hỏi ai đã bỏ lại chúng. Mẹ cô không thích ai ăn uống trong phòng nhạc và Chrissy không bao giờ được phép ăn kẹo hay bất kỳ thứ gì nhớp nháp lúc đang chơi đàn.
Có thể là cha cô. Cô bé biết ông cảm thấy có lỗi với cô vì tất cả những cảnh sát ở đây và vì cô đã không được tới buổi hòa nhạc tối qua ở trường Neighborhood.
Chắc là thế – một món quà bí mật của cha.
Chrissy liếc lại phía sau, qua khe cửa. Cô thấy người ta đi tới lui. Nghe thấy giọng trầm tĩnh của vị cảnh sát tử tế người Bắc Carolina, người có hai cậu con trai mà cô bé sẽ gặp một ngày nào đó. Mẹ cô mang một chiếc valy ra từ phòng ngủ. Bà nhìn thấy khuôn mặt buồn bã của cô bé và nói, “Chuyện này thật điên rồ. Tại sao cácmvị không tìm được hắn? Hắn chỉ có một người. Các vị có hàng trăm. Tôi không hiểu.”
Chrissy ngồi lại, mở túi đựng ra và từ từ ăn kẹo. Khi ăn xong, cô bé cẩn thận kiểm tra mấy đầu ngón tay. Phải, có sô-cô-la trên đó. Cô sẽ đi vào phòng tắm để rửa tay. Và trong khi cô ở đó, cô sẽ vứt vỏ kẹo xuống toa-lét để mẹ cô không tìm thấy. Như thế gọi là “phi tang chứng cứ,” điều cô bé biết được từ chương trình truyền hình cảnh sát điều tra hiện trường mà cha mẹ không cho cô xem, dù sao cô bé đã xoay xở để xem được, thỉ thoảng được một chút.
***
Roland Bell an toàn trở về căn hộ cùng Charles Grady, nơi gia đình anh đang gói ghém đồ đạc tới một nơi trú ẩn của NYPD ở khu Murray Hill. Anh kéo rèm cửa xuống và nói với gia đình tránh xa những cửa sổ. Anh có thể thấy điều đó làm tăng sự bất an nơi họ. Nhưng công việc của anh không phải là chăm sóc tâm lý. Công việc của anh là không để một kẻ giết người rất thông minh lấy mạng họ.
Điện thoại di động của anh reo. Là Rhyme. “Mọi thứ ở đó ổn chưa?” Nhà tội phạm học hỏi.
“Ổn như trong phòng ngủ một em bé,” Bell đáp.
“Constable đã được đưa vào buồng giam an ninh.”
“Và chúng ta biết rõ những lính gác của hắn, đúng không?” Bell hỏi.
“Amelia nói Weir có thể giỏi, nhưng gã không đủ giỏi để biến mình thành hai người giống Shaquille O’Neal87.”
87 Shaquille O’Neal: sinh năm 1972, một trong những cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất ở Mỹ. Anh chơi cho 6 câu lạc bộ khác nhau trong sự nghiệp kéo dài 19 năm, giành 4 chức vô địch NBA.
“Roth hả? Anh ta sẽ sống. Nhưng bị đánh tệ lắm. Tôi…” Rhyme ngừng nói khi một người khác trong phòng bắt đầu lên tiếng. Bell tin rằng anh nghe thấy giọng mềm mỏng của Mel Cooper.
Sau đó anh quay lại nói với Bell. “Tôi vẫn đang tìm hiểu những gì Amelia đã tìm thấy ở các hiện trường trong Trung tâm Giam giữ. Chưa có bất kỳ đầu mối cụ thể nào. Nhưng chúng ta có một thứ khác mà tôi muốn nói tới. Bedding và Saul cuối cùng đã tìm ra căn phòng ở Lanham Arms dùng chiếc thẻ chìa khóa đó.”
“Ai đăng ký phòng đó?”
“Tên giả và địa chỉ giả,” Rhyme giải thích. “Nhưng người lễ tân nói vị khách khớp hoàn toàn với mô tả về Weir. Đội hiện trường không tìm được gì nhiều, nhưng họ thấy một ống tiêm dưới bàn phấn. Chúng ta không biết có phải Weir bỏ nó lại không, nhưng tôi sẽ giả định rằng đấy là gã. Mel tìm thấy những vệt sô-cô-la và saccarôzơ trên kim tiêm.”
“Saccarôzơ – là đường phải không?”
“Đúng. Và asen trong ống tiêm.”
Bell nói, “Vậy là gã đã tiêm chất độc vào đồ ngọt.”
“Có vẻ thế. Hỏi nhà Grady xem có ai đưa kẹo bánh gì tới cho họ gần đây không.” Bell truyền đạt lại câu hỏi đó tới tay công tố viên và vợ anh ta và họ lắc đầu, bực tức thậm chí là khi nghe câu hỏi đó.
“Không, chúng tôi không có kẹo trong nhà,” vợ tay công tố viên nói.
Nhà tội phạm học khi đó hỏi Bell, “Anh nói gã làm anh ngạc nhiên chính vì việc đột nhập vào căn hộ của Grady chiều nay sao?” “Phải. Chúng tôi nghĩ chúng tôi sẽ bắt được gã ở sảnh, tầng hầm hay nóc nhà. Chúng tôi không bao giờ ngờ là gã lại vào qua đường cửa trước.”
“Sau khi lọt vào, gã đi đâu?”
“Gã chỉ là xuất hiện trong phòng khách. Khiến tất cả chúng tôi sửng sốt.”
“Vậy là gã có thể đã có thời gian để bỏ lại bánh kẹo trong bếp.”
“Không, không thể là trong bếp được,” Bell giải thích. “Lon và tôi ở trong đó.”
“Còn phòng nào khác mà gã có thể vào không?”
Bell nêu câu hỏi đó với Grady và vợ anh.
“Có chuyện gì xảy ra vậy, Roland?” tay công tố viên hỏi.
“Lincoln vừa tìm thấy thêm bằng chứng và đang nghĩ là Weir có thể tìm cách đưa chất độc vào nhà anh. Có vẻ như là trong bánh kẹo gì đó. Chúng tôi không chắc chắn là gã làm thế nhưng...”
“Kẹo ấy ạ?” Một giọng mềm mại, cao vút vang lên sau họ.
Bell, vợ chồng Grady và hai cảnh sát khác của đội bảo vệ quay sang và thấy con gái của tay công tố viên đang nhìn viên thanh tra chằm chằm, mắt mở to vì sợ hãi.
“Chrissy?” Mẹ cô bé hỏi. “Có chuyện gì vậy?”
“Kẹo ấy ạ?” Cô bé lại thì thầm.
Miếng giấy gói rơi từ tay cô bé ra và cô bắt đầu nức nở.
***
Hai tay vã mồ hôi, Bell nhìn những người khách bộ hành trên vỉa hè phía trước căn hộ của Charles Grady.
Có hàng mấy chục người.
Có khi nào một trong số đó là Weir?
Hay một kẻ nào khác từ Hội Ái quốc chết tiệt kia?
Chiếc xe cứu thương đậu lại và hai kỹ thuật viên nhảy ra. Nhưng trước khi họ qua được cửa chính, viên thanh tra cẩn trọng kiểm tra giấy tờ tùy thân của họ.
“Tất cả chuyện này có nghĩa là gì?” Một người trong họ hỏi, lấy làm phật ý.
Bell phớt lờ anh ta và kiểm tra những chiếc xe trên đường, những khách bộ hành, cửa sổ những tòa nhà gần đó. Khi đã an toàn, anh huýt sáo và Luis Martinez, tay cảnh vệ ít nói, đẩy cô bé ra và đưa vào trong một chiếc xe cứu thương, đi cùng là mẹ cô.
Chrissy chưa cho thấy triệu chứng nào của việc bị nhiễm độc dù trông cô bé nhợt nhạt và run rẩy bởi khóc lóc do sợ hãi. Cô bé đã ăn kẹo sô-cô-la bạc hà xuất hiện một cách bí ẩn trong phòng tập đàn. Với Bell điều này quá độc ác – làm hại trẻ con và dù anh đã bị lôi kéo bởi màn nói chuyện ngọt xớt của Constable trong chốc lát, biến cố này cho thấy rõ ràng sự băng hoại của những kẻ ở Hội Ái quốc kia.
Khác biệt văn hóa ư? Khác biệt chủng tộc ư? Không, thưa ngài. Chỉ có một sự khác biệt. Điều tốt và tử tế ở một bên còn sự độc ác ở phía bên kia.
Nếu cô bé này phải chết, Bell sẽ coi việc cả Weir và Constable nhận sự trừng phạt xứng đáng với những gì chúng gây ra cho Chrissy là một vấn đề cá nhân – tử hình bằng tiêm thuốc độc.
“Đừng lo, cháu yêu,” lúc này anh đang nói với cô bé khi một bác sĩ kiểm tra huyết áp của cô. “Cháu sẽ không sao đâu.”
Cô bé đáp lại bằng tiếng thút thít lặng lẽ. Anh liếc qua mẹ của Chrissy, khuôn mặt với vẻ dịu dàng không thể giấu được cơn thịnh nộ rõ ràng là lớn hơn sự tức giận của Bell nhiều.
Viên thanh tra gọi bộ đàm về Trung tâm và được kết nối với Khoa Cấp cứu ở bệnh viện mà họ đang tới lúc này. Anh nói với người phụ trách ở đó, “Chúng tôi sẽ đưa bệnh nhân tới trong hai phút nữa. Giờ nghe cho kỹ đây – tôi muốn rằng khu vực và đường tới trung tâm chống độc không có một ai cả. Tôi không muốn thấy dù chỉ một linh hồn lảng vảng ở đó trừ khi họ có phù hiệu dán hình.”
“À, thưa thanh tra, chúng tôi không thể làm thế,” người phụ nữ nói. “Đó là khu vực rất đông đúc của bệnh viện.”
“Tôi sẽ là ‘đầu bò’ trong chuyện này đấy, thưa chị.”
“Anh sẽ thế nào?”
“Sẽ cứng đầu đấy. Có một nghi phạm vũ trang đang săn đuổi cô bé này và gia đình cô ấy. Và nếu tôi thấy bất kỳ ai trong tầm mắt mà không có phù hiệu, họ sẽ bị còng tay một cách không lấy gì làm nhẹ nhàng đâu.”
“Đây là phòng cấp cứu của một bệnh viện thành phố, anh thanh tra,” người phụ nữ đáp cáu kỉnh. “Anh có biết tôi đang đứng trước bao nhiêu người ngay lúc này không?”
“Không, thưa chị, tôi không biết. Nhưng hãy tưởng tượng là tất cả họ đều bị trói gô lại. Đó là điều chúng tôi sẽ làm nếu họ không biến đi lúc chúng tôi tới. Và khi nói lúc, ý tôi là hai phút nữa kể từ bây giờ.”