N
hững cánh tay của họ run rẩy bởi sức nặng của cả Lincoln Rhyme và chiếc xe lăn Storm Arrow của anh, hai cảnh sát của Đội Khẩn cấp đang mang anh lên những bậc cầu thang trong tòa nhà và đặt nhà tội phạm học ở hành lang. Sau đó anh tự di chuyển được và đưa chiếc xe lăn của anh tới căn hộ của Gã phù thủy, nơi anh dừng lại cạnh Amelia Sachs.
Vào lúc các cảnh sát thuộc Đội Khẩn cấp lục soát căn phòng, Rhyme dõi theo Bell và Sellitto đang cẩn trọng lục soát tên sát nhân vẫn còn sửng sốt. Rhyme đã đề nghị họ mượn một bác sĩ của văn phòng Khám nghiệm Y khoa nhằm hỗ trợ cuộc lục soát. Một lát sau anh ta tới theo yêu cầu. Hóa ra đó là một ý hay; viên bác sĩ tìm thấy vài vết cắt trên da gã – chúng nhìn như những vết sẹo nhỏ nhưng có thể mở ra được. Bên trong là các thiết bị bằng kim loại nhỏ xíu.
“Hãy chiếu tia X qua gã ở nơi giam giữ,” Rhyme nói. “Mẹ kiếp, đợi đã, chụp MRI luôn đi. Từng tấc một đấy.”
Khi Gã phù thủy đã bị còng tay ba lần và xích chân hai lần, hai cảnh sát kéo gã xuống ngồi trên sàn nhà. Nhà tội phạm học đang kiểm tra phòng ngủ trong đó có một bộ sưu tập lớn đồ đạc và thiết bị ảo thuật. Những chiếc mặt nạ, tay giả và phụ tùng cao su khiến nơi đó thật đáng sợ, chắc chắn thế, nhưng Rhyme cảm nhận được chủ yếu là sự đơn độc, anh nhìn thấy qua các đồ vật chất chứa ở đây mục đích kinh hoàng của gã sát nhân khi chúng được dùng cho một buổi diễn giải trí cho hàng nghìn người.
“Sao lại thế?” Gã phù thủy thì thầm.
Rhyme để ý thấy vẻ mặt sửng sốt. Cả sự thất vọng nữa. Nhà tội phạm học thích thú sự kích động đó. Tất cả các thợ săn sẽ nói với bạn rằng lúc săn đuổi con mồi là phần hay nhất của cuộc chơi. Nhưng không thợ săn nào thực sự trở nên vĩ đại trừ khi anh ta cảm nhận được sự hài lòng cực điểm khi cuối cùng anh ta cũng hạ được con mồi.
“Làm sao mày biết được?” Gã đàn ông lặp lại trong tiếng rít như bị suyễn.
“Rằng mục đích của mày là tấn công rạp xiếc hả?” Rhyme liếc nhìn Sachs.
Cô nói, “Không có nhiều bằng chứng lắm, nhưng có thể thấy...”
“‘Có thể thấy ư,’ Sachs? Anh sẽ nói là chắc chắn thấy rõ.”
“Có thể thấy,” cô nói tiếp, không để ý gì tới câu cắt ngang của anh, “rằng những gì mày thực sự sẽ làm. Trong tủ đồ – tủ ở tầng hầm tòa nhà Tòa án Hình sự – bọn tao tìm thấy chiếc túi với quần áo đã được thay ra của mày, vết thương giả.”
“Mày tìm thấy chiếc túi đó sao?”
Cô nói tiếp, “Có một số sơn đỏ khô trên giày và áo mày. Và những sợi thảm.”
“Tao đã nghĩ sơn đó là máu giả.” Rhyme lắc đầu, tức giận với chính bản thân. “Thật lô-gic khi giả định thế, nhưng tao lẽ ra phải nghĩ tới những nguồn khác. Hóa ra bộ dữ liệu sơn của FBI xác định đó là sơn xe hơi của hãng Jenkin Manufacturing. Tông màu cam - đỏ được dùng riêng cho xe cứu thương. Loại sơn đặc biệt đó được bán thành những lon nhỏ – để sơn phủ. Sợi cũng là từ xe hơi – chúng từ loại thảm thương mại nặng lắp vào trong xe cứu thương GMC cho đến tám năm trước.”
Sachs, “Vậy là Lincoln suy đoán rằng mày đã mua hoặc ăn cắp một chiếc xe cứu thương cũ và sửa sang nó. Nó có thể dùng để trốn thoát hay cho một nỗ lực khác để lấy mạng Charles Grady. Nhưng rồi anh ấy nhớ lại nhúm vụn đồng – sẽ ra sao nếu nó thực sự là từ một chiếc đồng hồ hẹn giờ, như bọn tao đã nghĩ ban đầu? Và bởi mày sử dụng xăng trên chiếc khăn tay trong nhà của Lincoln, chà, điều đó có nghĩa là có thể mày đang giấu một quả bom xăng trong một chiếc xe cứu thương giả.”
Rhyme nói, “Rồi tao đơn giản là sử dụng lô-gic...”
“Ý anh ấy là anh ấy dựa vào linh cảm,” Bell nói.
“Linh cảm,” Rhyme nói, “chẳng nghĩa lý gì hết. Lô-gic thì khác. Lô-gic là xương sống của khoa học, và khoa học hình sự là bộ môn khoa học thuần túy.”
Sellitto đảo mắt với Bell.
Nhưng những phản ứng đó từ đồng đội không làm cùn nhụt sự háo hức của Rhyme. “Tôi đang nói tới lô-gic. Kara đã nói với chúng ta về việc hướng sự chú ý của khán giả vào nơi mà ta không muốn họ nhìn vào.”
Những ảo thuật gia giỏi nhất sẽ thao túng màn trình diễn giỏi tới mức họ chỉ thẳng ra phương pháp của họ, thẳng vào những gì họ sẽ thực sự làm. Nhưng ta sẽ không tin họ. Ta sẽ nhìn theo hướng ngược lại. Khi chuyện đó xảy ra, thì đã xong rồi. Ta đã thua và họ đã thắng.
“Đó là những gì mày đã làm. Và tao phải nói rằng đó là một ý hay. Tao không hay khen ngợi người khác, đúng không, Sachs?... Mày muốn báo thù Kadesky vì trận hỏa hoạn đã hủy hoại cuộc đời mày. Và vì thế mày tạo ra một tiết mục sẽ cho phép mày làm điều đó và rồi trốn thoát – đúng như khi mày tạo ra một ảo ảnh trên sân khấu, với các lớp lang đánh lạc hướng.” Rhyme nheo mắt lại cân nhắc. Anh nói, “Sự đánh lạc hướng đầu tiên: Mày ‘dồn ép’ – Kara nói với bọn tao là giới ảo thuật dùng từ đó, đúng không?”
Kẻ sát nhân không nói gì.
“Tao chắc chắn rằng đó là những gì cô ấy nói. Trước hết, mày dồn ép cho chúng tao ý tưởng là mày sẽ hủy diệt rạp xiếc để báo thù. Nhưng tao sẽ không tin điều đó – nó quá rõ ràng. Và sự nghi ngờ của bọn tao dẫn tới sự đánh lạc hướng thứ hai: Mày cài lại một bài báo về Grady, hóa đơn nhà hàng, thẻ phóng viên và chiếc chìa khóa khách sạn để khiến bọn tao kết luận là mày sẽ giết anh ta… Ồ, chiếc áo khoác chạy bộ cạnh sông Hudson ư? Mày cố tình để nó lại hiện trường, đúng không? Đó là bằng chứng được cài cắm mà mày muốn bọn tao tìm ra.”
Gã phù thủy gật đầu. “Phải, đúng vậy. Nhưng nó hiệu quả hơn khi tỏ ra là cảnh sát bọn mày làm tao ngạc nhiên và có vẻ tự nhiên hơn khi tao để lại chiếc áo khoác lúc trốn thoát.”
“Giờ, lúc đó,” nhà tội phạm học nói tiếp, “bọn tao nghĩ mày là một sát thủ được thuê, sử dụng ảo thuật để tiếp cận Charles Grady và giết anh ấy… Bọn tao đã hiểu ra mục đích của mày. Vậy là bọn tao không còn nghi ngờ nữa… Ở một mức độ nào đó.”
Gã phù thủy gượng nở một nụ cười yếu ớt. “‘Ở một mức độ nào đó,’” gã rít lên. “Thấy không, khi tao dùng sự đánh lạc hướng để lừa mọi người – những người thông minh – họ sẽ tiếp tục nghi ngờ.”
“Vậy là mày lại hướng bọn tao tới sự đánh lạc hướng thứ ba. Để kéo sự tập trung của bọn tao khỏi rạp xiếc, mày khiến bọn tao nghĩ rằng mày cố tình bị bắt để vào trong Trung tâm Giam giữ, không phải để giết Grady, mà là để giải cứu Constable. Tới lúc đó, bọn tao đã quên hoàn toàn chuyện rạp xiếc và Kadesky. Nhưng thực ra mày không hề quan tâm tới Constable hay Grady.”
“Bọn chúng chỉ là đạo cụ, những sự đánh lạc hướng để lừa mày,” gã thừa nhận.
“Hội Ái quốc, bọn chúng sẽ không vui với chuyện này đâu,” Sellitto thì thầm.
Một cái hất đầu về phía những chiếc xích chân, “Tao nghĩ đó là điều vớ vẩn nhất tao cần quan tâm lúc này, đúng không?”
Biết được những gì gã đã làm với Constable và những người khác trong Hội, Rhyme không chắc về chuyện đó lắm.
Bell hất đầu về phía Gã phù thủy và hỏi Rhyme, “Nhưng tại sao gã lại mất công như thế để dựng lên vụ Constable và kế hoạch vượt ngục giả?”
Sellitto trả lời, “Quá rõ ràng – để, anh biết đấy, đánh lạc hướng chúng ta khỏi rạp xiếc hòng giúp hắn dễ dàng cài bom ở đây hơn.”
“Thật ra, không phải thế, Lon,” Rhyme nói chậm rãi. “Có lý do khác.”
Trước những lời đó, hay có lẽ là trước giọng bí hiểm của Rhyme, kẻ sát nhân quay sang nhà tội phạm học, anh có thể thấy được sự thận trọng trong mắt gã – sự thận trọng thật sự, không phải nỗi sợ hãi – lần đầu tiên trong tối hôm đó.
Bắt được ngươi rồi, Rhyme nghĩ.
Anh nói, “Thấy chưa, còn một sự đánh lạc hướng thứ tư.”
“Thứ tư sao?” Sellitto nói.
“Đúng vậy… Gã không phải là Erick Weir,” Rhyme tuyên bố bằng giọng mà ngay cả anh cũng phải thừa nhận là điệu bộ một cách thái quá.