V
ới một tiếng thở dài, gã sát nhân tựa nhẹ vào một chân ghế, mắt nhắm lại.
“Không phải Weir sao?” Sellitto hỏi.
“Điều đó,” Rhyme nói tiếp, “là toàn bộ lý do cho những gì gã đã làm cuối tuần này. Gã muốn báo thù Kadesky và rạp xiếc Hasbro – giờ là rạp Cirque Fantastique. Thật dễ để báo thù nếu ta không quan tâm tới việc trốn thoát. Nhưng” – một cái hất đầu về phía Gã phù thủy – “gã muốn trốn thoát, muốn tránh xa nhà tù, muốn tiếp tục được biểu diễn. Vì thế gã đã có một màn biến y về nhân dạng. Gã trở thành Erick Weir, để bị bắt vào chiều nay, bị lấy dấu vân tay rồi trốn thoát.”
Sellitto gật đầu. “Vậy là sau khi gã giết Kadesky và đốt cháy rạp xiếc, mọi người đều sẽ tìm Weir, chứ không phải nhân thân thật của gã.” Một cái nhíu mày. “Vậy thì gã là kẻ quái nào chứ?”
“Arthur Loesser, trợ thủ của Weir.”
Kẻ giết người thở gấp khi vỏ bọc cuối cùng của gã – và hy vọng trốn thoát – giờ đã tan biến.
“Nhưng Loesser đã gọi cho chúng ta,” Sellitto chỉ ra. “Anh ta ở bờ tây. Ở Nevada.”
“Không, không hề. Tôi đã kiểm tra lịch sử cuộc gọi. Cuộc gọi hiển thị là ‘Không có tên người gọi’ trên điện thoại của tôi vì gã đã gọi từ một số điện thoại đường dài trả trước. Gã gọi từ một buồng điện thoại trả tiền ở đường 87 Tây. Gã không có vợ. Tin nhắn trong hộp thư thoại của gã ở Vegas là giả.”
“Giống như khi gã gọi cho người trợ thủ kia, Keating, và giả vờ là Weir, đúng không?” Sellitto hỏi.
“Phải. Hỏi về trận hỏa hoạn ở Ohio, nghe có vẻ kỳ lạ và đe dọa. Để củng cố những gì chúng ta nghĩ: rằng Weir đang ở New York để báo thù Kadesky. Gã phải để lại những dấu vết cho thấy Weir đã xuất hiện trở lại. Như việc đặt mua còng tay Darby bằng tên của Weir. Cả khẩu súng mà gã đã mua nữa.”
Rhyme nhìn qua kẻ sát nhân. “Còn giọng nói thì sao?” Anh hỏi đầy chế giễu. “Phổi mày đã khá hơn chưa?”
“Mày biết là nó ổn mà,” Loesser bật lại. Tiếng thì thầm và rú rít đã biến mất. Phổi gã không bị sao cả. Đó chỉ là một trò giả mạo nữa để khiến họ tin rằng gã là Weir.
Rhyme hất đầu về phía phòng ngủ.
“Tao nhìn thấy vài thiết kế bích chương quảng cáo trong đây. Tao cho là mày vẽ. Tên trên đó là ‘Malerick.’ Giờ đó là tên mày, đúng không?”
Gã sát nhân gật đầu. “Những gì tao nói với mày trước đó là đúng – tao ghét cái tên cũ của mình, tao ghét mọi thứ về tao trước trận hỏa hoạn. Thật khó để nhớ lại thời đó. Malerick là cái tên tao đặt cho mình hiện giờ… Làm sao mày biết được điều đó?”
“Sau khi họ phong tỏa hành lang khu trại giam, mày đã dùng áo phông của mày để lau sàn và những chiếc còng tay,” Rhyme giải thích. “Nhưng khi tao nghĩ về chuyện đó, tao không hiểu tại sao. Để lau sạch máu ư? Vô nghĩa. Không, câu trả lời duy nhất mà tao nghĩ ra được là mày muốn xóa hết những dấu vân tay của mày. Nhưng mày đã được lấy vân tay rồi; tại sao mày lại lo lắng về việc để lại vân tay trong hành lang?” Rhyme nhún vai cho rằng câu trả lời rõ ràng đến đau đớn. “Vì vân tay thật của mày khác với những vân tay mà mày đã lăn và được cho vào hồ sơ.”
“Thế quái nào mà hắn làm được vậy?” Sellitto hỏi.
“Amelia tìm thấy những dấu mực còn mới ở hiện trường đó. Mực đó được in lên tay gã tối nay. Dấu vết đó bản thân nó không quan trọng, nhưng quan trọng ở chỗ nó khớp với vết mực chúng ta tìm thấy trong chiếc túi đồ thể thao ở vụ tấn công Marston. Điều đó có nghĩa là gã đã tiếp xúc với mực in dấu vân tay trước ngày hôm nay. Tôi đoán là gã đã ăn cắp một chiếc thẻ in vân tay trống và in nó ở nhà với vân tay thật của Erick Weir. Gã sử dụng sáp dính để giấu nó trong đường may áo vest mặc tối nay – chúng ta tìm kiếm vũ khí và chìa khóa, chứ không phải những mảnh bìa cứng – và rồi sau khi họ lấy vân tay của gã, gã đánh lạc hướng người kỹ thuật viên và tráo tấm thẻ. Có thể gã đã bỏ tấm thẻ lấy vân tay mới vào bồn cầu hay ném nó đi.”
Loesser mặt nhăn nhúm vì giận dữ như lời xác nhận cho suy đoán của Rhyme.
“Trung tâm Giam giữ đã gửi tấm thẻ họ có trong hồ sơ tới và Mel đã xử lý nó. Nó cho ra các dấu vân tay của Weir, nhưng dấu mờ hơn là của Loesser. Gã có trong dữ liệu AFIS từ khi gã bị bắt với Weir trong các cáo buộc vô ý gây nguy hiểm ở New Jersey. Chúng tôi đã kiểm tra cả khẩu Glock của viên cảnh sát ở Trung tâm Giam giữ. Cô ấy giằng lại được khẩu súng và gã không có cơ hội để lau nó. Những dấu tay đó hóa ra cũng khớp với của Loesser. À, và chúng ta có một phần dấu tay đó từ lưỡi dao lam nữa.” Rhyme liếc miếng băng dính nhỏ trên thái dương Loesser. “Mày đã quên cầm theo.”
“Tao không tìm thấy,” gã sát nhân quát lên. “Tao không có thời gian để tìm.”
“Nhưng,” Sellitto chỉ ra với Rhyme, “gã trẻ hơn so với Weir.”
“Gã quả là trẻ hơn Weir.” Anh hất đầu về phía khuôn mặt Loesser. “Những nếp nhăn chỉ là hóa trang. Giống như những vết sẹo – tất cả đều là giả. Weir sinh năm 1950. Loesser trẻ hơn hai mươi tuổi, nên gã phải hóa trang cho già đi.”
Rồi anh thì thầm, “Ồ, tôi lỡ mất điều đó. Lẽ ra phải nghĩ tới chứ. Nhớ những mảnh cao su phủ phấn trang điểm mà Amelia tìm thấy ở các hiện trường không? Tôi cho rằng chúng là từ đồ bọc ngón tay mà gã đeo. Nhưng nó không hợp lý. Chẳng ai lại trang điểm cho ngón tay. Nó sẽ rơi ra. Không, nó là phụ kiện cho vị trí khác.” Rhyme nhìn kỹ gò má và lông mày của gã sát nhân. “Đám cao su dẻo đó hẳn phải rất khó chịu.”
“Rồi cũng quen thôi.”
“Sachs, hãy xem gã thật ra trông như thế nào.”
Với một chút khó khăn, cô bóc bộ râu và những mảng nếp nhăn quanh mắt gã ra. Khuôn mặt sau đó lấm tấm vết bẩn vì keo dính, nhưng phải, gã rõ ràng là trẻ hơn nhiều. Cấu trúc khuôn mặt gã cũng khác, không hề giống người đàn ông mà gã từng cải trang.
“Không giống những chiếc mặt nạ trong Điệp vụ bất khả thi hả? Đeo vào, lột ra.”
“Không, đồ thật không hề giống thế.”
“Cả các ngón tay nữa.” Rhyme hất đầu về phía bàn tay trái của tên sát nhân.
Để làm cho hai ngón tay dính vào nhau trông có vẻ đáng tin, chúng đã được gắn lại bằng băng dính rồi phủ cao su dày lên. Kết quả là hai ngón tay nhăn nhúm, mềm oặt và gần như trắng bệch, nhưng tất nhiên, chúng là những ngón tay bình thường. Sachs kiểm tra chúng. “Tao đã hỏi Rhyme là tại sao mày không tháo nó ra ở chỗ hội chợ – bởi bọn tao đang tìm một kẻ với bàn tay trái biến dạng.”
Nhưng hai ngón tay thật đó cũng có vẻ ngoài bị biến dạng theo kiểu riêng của chúng và sẽ làm gã bị lộ.
Rhyme nhìn tên sát nhân lần nữa và nói, “Gần như một tội ác hoàn hảo: một nghi phạm đảm bảo chắc chắn là chúng ta sẽ truy tố một người khác. Chúng ta biết là Weir có tội, có nhận dạng khớp. Nhưng rồi gã biến mất. Loesser sẽ tiếp tục cuộc đời mình và kẻ vượt ngục – Weir – sẽ biến mất mãi mãi. Người Biến mất.”
Và dù Loesser đã chọn các nạn nhân của gã ngày hôm qua để đánh lạc hướng cảnh sát, chứ không phải vì thôi thúc tâm lý học sâu xa nào, song rốt cuộc thì chẩn đoán của Terry Dobyns vẫn khớp hoàn hảo – tìm kiếm sự trả thù cho vụ hỏa hoạn đã hủy hoại một người mà gã yêu thương. Sự khác biệt là thảm kịch đó đã khiến Weir mất sự nghiệp và khiến vợ anh ta thiệt mạng; còn mất mát của Loesser là người thầy của gã, chính là Weir.
“Nhưng có một vấn đề,” Sellitto chỉ ra. “Tất cả những gì gã làm khi tráo các tấm thẻ vân tay là để chúng ta sẽ săn đuổi Weir thật sự. Tại sao gã lại làm thế với thầy gã?”
Rhyme nói, “Tại sao anh lại nghĩ tôi yêu cầu các cảnh sát trẻ vạm vỡ kia đưa tôi lên lầu tới nơi cực kỳ khó vào này, Lon?” Anh nhìn quanh phòng. “Tôi muốn tự mình đi khảo sát hiện trường – ồ, xin lỗi, tôi nên nói là lăn xe khảo sát hiện trường.” Lúc này anh đang điều khiển xe qua căn phòng một cách nhuần nhuyễn, sử dụng điều khiển cảm ứng. Anh dừng lại chỗ lò sưởi và nhìn lên. “Tôi nghĩ tôi đã tìm ra nghi phạm của chúng ta, Lon.” Anh nhìn lên bệ lò sưởi, trên đó có một chiếc hộp khảm và một ngọn nến. “Đấy là Erick Weir, đúng không? Tro cốt của anh ta.”
Loesser nói nhỏ tiếng, “Đúng. Anh ấy biết mình không còn lại nhiều thời gian. Anh ấy muốn ra khỏi khoa bỏng ở Ohio và trở lại nhà ở Vegas trước khi chết. Tao đã giúp anh ấy thoát ra một tối nọ và chở anh ấy về nhà. Anh ấy sống thêm vài tuần nữa sau khi bọn tao tới đó. Tao đã hối lộ cho một người trực ca đêm ở nhà xác để hỏa táng anh ấy.”
“Và những dấu vân tay?” Rhyme hỏi. “Mày lấy vân tay anh ta sau khi anh ta chết đúng không? Làm thành những con dấu để mày có thể làm tấm thẻ vân tay giả?”
Một cái gật đầu xác nhận.
“Vậy là mày đã lên kế hoạch chuyện này nhiều năm rồi?”
Loesser nói đầy xúc động, “Phải! Cái chết của anh ấy… Nó như một vết bỏng không bao giờ ngưng nhức nhối.”
Bell hỏi, “Mày mạo hiểm tất cả chuyện này để báo thù sao? Vì sếp của mày hả?”
“Sếp? Anh ấy còn hơn thế,” Loesser hét lên điên loạn. “Bọn mày không hiểu. Tao chỉ nghĩ về cha tao vài lần một năm… và ông ta vẫn còn sống. Nhưng tao nghĩ về Ngài Weir từng ngày từng giờ. Kể từ khi anh ấy bước vào cửa hàng ở Vegas nơi tao từng trình diễn… Houdini Trẻ, chính là tao đây… Khi đó tao mười bốn tuổi. Đó là một ngày mới tuyệt vời làm sao! Anh ấy nói với tao anh ấy sẽ cho tao tầm nhìn để trở nên vĩ đại. Vào sinh nhật mười lăm tuổi của tao, tao đã bỏ nhà để đi cùng anh ấy.”
Giọng gã run rẩy trong chốc lát rồi rơi vào im lặng. Gã nói tiếp, “Ngài Weir có thể đã đánh đập và chửi bới tao và đôi khi biến đời tao thành địa ngục, nhưng anh ấy nhìn thấy những gì sâu thẳm trong tao. Anh ấy quan tâm tới tao. Anh ấy đã dạy dỗ tao trở thành một nhà ảo thuật…” Khuôn mặt người đàn ông trở nên mờ mịt. “Và rồi người ta tước mất anh ấy khỏi tao. Vì Kadesky. Hắn và việc kinh doanh chó chết của hắn đã giết Ngài Weir… Và cả tao nữa. Arthur Loesser đã chết trong trận hỏa hoạn đó.” Gã nhìn chiếc hộp và trên mặt hắn biểu lộ sự đau buồn, hy vọng và một tình yêu lạ lùng tới mức Rhyme cảm thấy sự ớn lạnh bò dọc cổ anh cho tới khi nó biến mất vào trong cơ thể đã tê liệt của mình.
Loesser nhìn trở lại vào Rhyme và cười lớn lạnh lẽo. “Mày có thể đã bắt được tao. Nhưng Ngài Weir và tao đã thắng. Mày đã không ngăn bọn tao kịp. Gánh xiếc không còn nữa, Kadesky không còn nữa. Nếu hắn chưa chết thì sự nghiệp của hắn cũng đã đi tong.”
“À, phải, rạp Cirque Fantastique, trận hỏa hoạn.” Rhyme lắc đầu một cách nghiêm nghị. Rồi anh nói thêm, “Dẫu vậy…”
Loesser nhíu mày, quét mắt khắp căn phòng, cố gắng tìm hiểu xem ý Rhyme là gì. “Sao? Mày định nói gì?”
“Hãy nghĩ lại một chút. Trước đó trong tối nay. Mày ở công viên Trung Tâm, chứng kiến vụ hỏa hoạn, khói, sự phá hoại, nghe thấy những tiếng thét… Mày nghĩ tốt hơn là mình nên rời đi bởi bọn tao sẽ sớm đi tìm mày. Mày đang trên đường trở lại đây. Một người nào đó – một phụ nữ trẻ, một phụ nữ người Á mặc đồ chạy bộ – đã va vào mày. Mày nói vài lời về chuyện đang diễn ra. Rồi mày đi đường mày.”
“Mày đang nói cái quái gì thế?” Loesser quát.
“Hãy kiểm tra phía sau dây đeo đồng hồ của mày,” Rhyme nói.
Trong tiếng lách cách của còng tay, gã xoay cổ tay lại. Trên dây đeo là một chiếc đĩa nhỏ màu đen. Sachs lột nó ra. “Thiết bị theo dõi GPS. Bọn tao sử dụng thứ đó để theo mày tới tận đây. Mày không ngạc nhiên sau khi bọn tao bất thần xuất hiện và phá cửa nhà mày?”
“Nhưng ai...? Đợi đã! Là ảo thuật gia đó, con bé đó! Kara! Tao đã không nhận ra nó.”
Rhyme nói ráo hoảnh, “Toàn bộ trò tạo ra ảo giác là thế mà, đúng không? Bọn tao đã nhận ra mày ở công viên nhưng bọn tao sợ là mày sẽ trốn thoát. Mày vẫn hay làm trò đó mà, mày biết đấy. Và bọn tao cho rằng mày sẽ đi rất lòng vòng để trở lại nơi mày thực sự đang ở. Nên tao đã nhờ Kara để tự cô ấy diễn một chút màn ngụy trang. Cô ấy giỏi lắm, cô gái đó. Chính tao cũng khó mà nhận ra cô ấy. Khi cô ấy va vào mày, cô ấy đã gắn chiếc cảm biến lên đồng hồ.”
Sachs nói tiếp, “Bọn tao có thể bắt mày ngay ở ngoài đường,nhưng mày giỏi trò trốn thoát quá. Dù sao đi nữa, bọn tao muốn tìm ra nơi trú ẩn của mày.”
“Nhưng điều đó có nghĩa là bọn mày đã biết trước về trận hỏa hoạn!”
“À,” Rhyme nói vẻ tùy tiện, “chiếc xe cứu thương của mày ư? Đội Phá bom đã tìm thấy nó và xử lý nó trong vòng sáu mươi giây. Họ lái xe đi và thay vào đó bằng một chiếc xe khác để mày không nghĩ là bọn tao đã nhận ra. Bọn tao biết mày muốn xem trận hỏa hoạn. Bọn tao đưa tối đa số cảnh sát mặc thường phục vào công viên, tìm kiếm một người đàn ông vóc người như mày đứng xem trận hỏa hoạn nhưng rồi rời đi không lâu sau khi nó bắt đầu. Hai cảnh sát đã nhìn thấy mày và bọn tao đã cử Kara gắn chip lên mày. Và úm ba la...” Rhyme mỉm cười với lựa chọn từ ngữ của anh. “Giờ bọn tao ở đây.”
“Nhưng trận hỏa hoạn… Tao đã nhìn thấy!”
Rhyme nói với Sachs, “Có thấy những gì anh vẫn nói về bằng chứng so với nhân chứng không? Hắn nhìn thấy trận hỏa hoạn; vì thế nó phải là thật.” Rồi với Loesser anh nói, “Nhưng giờ nó không phải là thật, đúng chưa?”
Sachs nói, “Những gì mày thấy là khói từ hai quả lựu đạn khói của Vệ binh Quốc gia mà bọn tao đặt lên trên nóc căn lều bằng cần cẩu. Còn lửa ư? Là từ đèn xì propan ở lối vào sân khấu nơi chiếc xe cứu thương đậu. Rồi chiếu thêm vài hình ảnh lửa trong sân khấu giữa rạp và phóng những ngọn lửa đó ra bên cạnh lều.”
“Tao đã nghe những tiếng la hét,” Loesser thì thầm.
“À, đó là ý tưởng của Kara. Cô ấy nghĩ rằng bọn tao có thể để Kadesky nói với khán giả là họ sẽ nghỉ giải lao một chút để một đoàn quay phim có thể quay một cảnh trong khu lều – về một vụ hỏa hoạn trong rạp xiếc. Ông ấy đã khiến tất cả mọi người hét lên theo hiệu lệnh. Họ rất thích điều đó. Tăng thêm hiệu quả.”
“Không,” Gã phù thủy thì thầm. “Đó là...”
“... một ảo ảnh,” Rhyme nói với hắn. “Tất cả là một ảo ảnh.”
Chút nhanh trí từ màn Người đàn ông bất động.
“Tốt hơn là em nên kiểm tra hiện trường ở đây,” Sachs nói, hất đầu quanh căn phòng, và nhíu mày.
“Chắc chắn rồi, Sachs. Anh đã nghĩ gì vậy nhỉ? Chúng ta cứ ngồi đây trò chuyện và làm ô nhiễm hiện trường vụ án sao.”
Với rất nhiều còng tay và xích chân trên người gã và mỗi bên kèm một viên cảnh sát, tên sát nhân được dẫn ra cửa, không còn kiêu ngạo như lần cuối gã bị dẫn xuống Trung tâm Giam giữ nữa.
Vào lúc hai cảnh sát của Đội Khẩn cấp sắp sửa mang Rhyme ra ngoài lần nữa, điện thoại của Lon Sellitto reo. Anh nhận cuộc gọi. “Cô ấy ở ngay đây…” Anh nhìn Sachs. “Anh muốn nói chuyện với cô ấy hả…?” Rồi anh lắc đầu với cô và tiếp tục lắng nghe, vẻ mặt nghiêm trọng. “Được rồi, tôi sẽ nói với cô ấy.” Anh gác máy.
“Là Marlow,” anh nói với Sachs.
Trưởng phòng Tuần tra. Có việc gì? Nhà tội phạm học tự hỏi, nhìn thấy vẻ khó chịu trên mặt Sellitto.
Viên thanh tra nhăn nhó nói tiếp, hướng về phía Sachs, “Anh ấy muốn cô xuống Trung tâm ngày mai lúc mười giờ sáng. Về việc thăng chức của cô.” Rồi Sellitto nhíu mày. “Còn một việc khác anh ấy muốn tôi nói với cô, liên quan đến điểm trong cuộc sát hạch của cô. Là điều gì nhỉ?” Anh lắc đầu, nhìn trừng trừng lên sàn nhà. Rõ ràng là khó chịu. “Điều gì nhỉ?”
Sachs nhìn theo mà không nói gì, dù Rhyme quan sát thấy một ngón tay khẽ bấm vào móng ngón tay cái của cô.
Rồi viên thanh tra búng tay. “À, phải rồi, giờ tôi nhớ rồi. Anh ta nói là cô có điểm thi cao thứ ba trong lịch sử sở cảnh sát.” Một cái nhíu mày trên khuôn mặt anh và anh nhìn Rhyme. “Anh biết điều đó có nghĩa là gì, đúng không? Xin Chúa xót thương – giờ ta sẽ không thể sống thiếu cô ấy.”
***
Cô bước nhanh, thở gấp.
Hành lang như dài cả dặm.
Kara chạy trên miếng lót sàn màu xám, chỉ nghĩ duy nhất một điều trong đầu: không phải là Erick Weir quá cố hay gã trợ thủ tâm thần của anh ta, Art Loesser, không phải sự xuất sắc của màn ảo giác với lửa ở Cirque Fantastique. Không, tất cả những gì cô nghĩ là: Mình có về kịp không?
Dọc hành lang tối tăm. Những bước chân dồn dập trên sàn.
Đi qua những cánh cửa đóng và mở. Nghe thấy tiếng ti-vi và nhạc, những đối thoại chia tay khi các gia đình sắp sửa ra về vào cuối ngày Chủ nhật sau giờ thăm viếng.
Nghe thấy chính tiếng bước chân trống rỗng của mình.
Cô dừng lại bên ngoài căn phòng. Hít sâu hơn một chục lần để giọng nói bình thường lại và, còn hồi hộp hơn bất kỳ lần nào đứng trên sân khấu, cô bước vào phòng.
Một khoảng lặng. Rồi: “Con chào mẹ.”
Mẹ cô quay ra khỏi ti-vi. Bà chớp mắt ngạc nhiên và mỉm cười. “Sao chứ, xem ai đây nào. Chào con yêu.”
Ôi Chúa ơi, Kara nghĩ, nhìn vào đôi mắt sáng của bà. Bà đã trở lại! Bà đã thực sự trở lại.
Cô bước đến và ôm người phụ nữ rồi kéo ghế lại gần hơn. “Mẹ khỏe không?”
“Khỏe. Tối nay hơi lạnh.”
“Con sẽ đóng cửa sổ.” Kara đứng lên và kéo cửa sổ lại. “Ta nghĩ là con sẽ không tới kịp, con yêu.”
“Tối nay bận quá. Con sẽ phải nói với mẹ con đã gặp những chuyện gì, mẹ. Mẹ sẽ không tin nổi đâu.”
“Ta rất nóng lòng.”
Kara hỏi đầy phấn khích, “Mẹ có muốn uống trà hay gì đó không?” Cô cảm thấy một sự thôi thúc dữ dội muốn trút ra mọi chuyện về cuộc đời cô trong sáu tháng qua, lảm nhảm cũng được. Nhưng cô tự nhủ là hãy chậm lại; cô cảm thấy là kể hết chuyện mọi chuyện có thể làm mẹ cô ngợp, bà có vẻ cực kỳ mong manh ở thời điểm này.
“Không, không cần gì đâu, con yêu… Con tắt ti-vi được không? Ta thích nói chuyện với con hơn. Điều khiển ở kia. Ta không bao giờ bấm được. Đôi lúc ta gần như nghĩ là có người lẻn vào đây và thay đổi các nút bấm.”
“Con mừng là mình đã tới đây trước khi mẹ đi ngủ.”
“Ta sẽ thức đợi con mà.”
Kara mỉm cười với bà. Rồi mẹ cô nói, “Ta chỉ đang nghĩ về bác con, con yêu. Anh trai ta.”
Kara gật đầu. Người anh quá cố của mẹ cô là con cừu đen của gia đình. Ông đã đi về miền tây khi Kara còn nhỏ và không bao giờ liên lạc lại với gia đình. Mẹ cô và ông bà ngoại Kara không chịu nói chuyện với bác và tên ông ấy bị cấm trong những cuộc gặp mặt gia đình. Nhưng tất nhiên, những tin đồn lan đi: ông là người đồng tính, ông không đồng tính và đã kết hôn nhưng ngoại tình với một mụ di-gan, ông đã bắn một người đàn ông vì một phụ nữ khác, ông không kết hôn và là một nhạc công jazz nghiện rượu…
Kara luôn muốn biết sự thật về ông ấy.
“Mẹ nghĩ gì về bác, mẹ?”
“Con muốn nghe không?”
“Chắc chắn rồi – kể chuyện cho con đi,” cô hỏi, ngả người về phía trước và đặt bàn tay cô lên vai bà.
“À, để xem nào, là khi nào nhỉ? Ta nhớ là tháng Năm năm bảy mươi, có thể là bảy mốt. Không chắc là năm nào – trí nhớ của ta là thế – nhưng ta chắc đó là tháng Năm. Bác con và mấy người đồng đội vừa trở về từ Việt Nam.”
“Bác ấy là lính sao? Con chưa bao giờ biết điều đó.”
“Ồ, bác con rất đẹp trai khi mặc quân phục. Phải rồi, họ gặp nhiều chuyện kinh khủng ở đó.” Giọng bà trở nên nghiêm túc. “Bạn thân nhất của bác con chết ngay cạnh ông ấy. Chết trên tay ông ấy. Một anh chàng da đen to lớn. Chà, Tom và một người lính khác đã nghĩ tới việc bắt đầu một công việc để hỗ trợ gia đình người bạn đã chết của họ. Vì thế họ đi về miền nam và mua một chiếc tàu. Con có thể tưởng tượng được bác con trên một chiếc tàu không? Ta nghĩ đó là điều lạ lùng nhất từng xảy ra. Họ bắt đầu làm nghề đánh bắt tôm. Tom đã kiếm được cả một gia tài.”
“Mẹ,” Kara nhẹ nhàng nói.
Mẹ cô mỉm cười với ký ức nào đó rồi lắc đầu. “Một chiếc tàu… Chà, công ty đó rất thành công. Và mọi người ngạc nhiên vì, chà, Tom chưa bao giờ là người sáng láng.” Đôi mắt mẹ cô lấp lánh. “Nhưng con có biết anh ấy thường nói gì với họ không?”
“Nói gì vậy mẹ?”
“‘Làm điều ngốc thì mới ngốc.’”
“Đó là một câu thật hay,” Kara thì thầm.
“À, con hẳn sẽ thích anh ấy, Jenny. Con có biết là anh từng gặp tổng thống Hoa Kỳ không. Và chơi bóng bàn ở Trung Quốc.”
Không để ý rằng con gái mình đang lặng lẽ khóc, người phụ nữ lớn tuổi tiếp tục kể với Kara phần còn lại câu chuyện phim Forrest Gump, bộ phim bà vừa xem trên ti-vi không lâu trước đó. Cậu của Kara tên là Gil, nhưng trong ảo mộng của bà, ông ấy là Tom – có lẽ là theo tên của ngôi sao trong phim, Tom Hanks92. Bản thân Kara thì đã trở thành Jenny, bạn gái của Forrest.
92 Tom Hanks, sinh năm 1956, tài tử lừng lẫy người Mỹ. Phim Forrest Gump với Hanks đóng vai chính, ra mắt năm 1994, giành 6 giải Oscar, bao gồm giải nam chính xuất sắc nhất.
Không, không, không, Kara suy nghĩ trong tuyệt vọng. Rốt cuộc mình đã không tới đúng lúc.
Linh hồn mẹ cô đã tới rồi đi, chỉ còn để lại ảo ảnh.
Câu chuyện của người phụ nữ trở thành một dòng chảy bị xê dịch đi, từ chiếc tàu đánh bắt tôm ở vùng Vịnh tới một tàu đánh cá kiếm ở Bắc Đại Tây Dương rơi vào một “cơn bão hoàn hảo” sang một tàu chở khách xuyên đại dương bị chìm trong khi anh trai bà, mặc tuxedo, chơi vĩ cầm trên boong. Những suy nghĩ, những ký ức và hình ảnh từ hàng chục bộ phim hay cuốn sách khác nhau tạo thành ký ức thật. Rất nhanh, “ông bác” của Kara, cùng tất cả những gì có vẻ nhất quán, biến mất hoàn toàn.
“Nó ở đâu đó ngoài kia,” người phụ nữ lớn tuổi nói dứt khoát. “Ta biết nó ở ngoài kia.” Bà nhắm mắt lại.
Kara ngồi ngả người về phía trước, nhẹ nhàng đặt tay cô lên cánh tay mịn màng của mẹ cho tới khi người phụ nữ già đã ngủ. Cô nghĩ: Nhưng bà ấy đã tỉnh táo trước đó. Jaynene đã không nhắn tin cho cô nếu không phải vậy.
Và nếu điều này xảy ra một lần, cô nghĩ đầy bướng bỉnh, nó có thể xảy ra lần nữa.
Cuối cùng Kara đứng lên và đi ra khỏi hành lang tối tăm, nhớ lại rằng, dù là một nghệ sĩ trình diễn tài năng, cô vẫn thiếu một kỹ năng mà cô đang cần một cách tuyệt vọng: bằng sự nhiệm màu đưa mẹ cô tới nơi mà những trái tim đầy yêu thương đập ấm áp bất chấp những năm tháng mà Chúa đã cho họ sống. Nơi mà tâm trí còn giữ lại hoàn hảo từng chương trong lịch sử phong phú của gia đình. Nơi mà dù cho khoảng cách giữa những người thân yêu có vẻ lớn đến đâu chăng nữa thì cuối cùng, không hơn gì những hiệu ứng, những ảo ảnh nhất thời.