T
hom để Lon Sellitto vào trong hành lang, nơi Lincoln Rhyme đang ngồi trên chiếc ghế màu đỏ sẫm của anh, càu nhàu với những công nhân xây dựng bắt họ phải chú ý những đồ đạc bằng gỗ khi đẩy những thứ bỏ đi xuống dưới lầu từ việc sửa chữa căn phòng ngủ đã bị hủy hoại bởi trận hỏa hoạn.
Đi ngang qua chỗ anh tới nhà bếp để chuẩn bị bữa trưa, Thom càu nhàu lại, “Để họ yên, Lincoln. Anh thì quan tâm gì tới việc làm mộc chứ.”
“Đó là vấn đề nguyên tắc,” nhà tội phạm học căng thẳng đáp. “Đó là đồ gỗ của tôi và sự lóng ngóng của họ.”
“Anh ấy luôn thế này khi một vụ án đã xong,” tay trợ lý nói với Sellitto. “Anh có vụ cướp của hay giết người nào thật khó nhằn cho anh ấy không? Để trấn an anh ấy?”
“Tôi không cần được trấn an,” Rhyme độp lại khi tay trợ lý biến mất. “Tôi chỉ cần người ta thận trọng với những bức tường!”
Sellitto nói, “Này, Linc. Chúng ta phải nói chuyện.”
Nhà tội phạm học để ý tông giọng và nhìn vào mắt Sellitto. Họ đã làm việc cùng nhau nhiều năm và anh có thể đọc vị từng cảm xúc mà anh ta bộc lộ, nhất là khi đang khó chịu. Chuyện gì nhỉ? Anh tự nhủ.
“Vừa mới nghe từ trưởng bộ phận tuần tra. Là về Amelia.” Sellitto hắng giọng.
Trái tim Rhyme rõ ràng là đang đập nhanh hơn trong lồng ngực. Tất nhiên, anh chẳng bao giờ cảm thấy điều đó, dù anh quả thực có cảm thấy máu dồn lên cổ, đầu và mặt.
Anh nghĩ: Một viên đạn, một vụ tai nạn xe hơi. Anh nói đều đều bằng giọng trầm, “Tiếp đi.”
“Cô ấy trượt rồi. Kỳ thi lên trung sĩ.”
“Cái gì?”
“Ừ.”
Sự nhẹ nhõm vừa mới đó của Rhyme ngay lập tức biến thành nỗi sầu muộn dành cho cô.
Viên thanh tra nói tiếp, “Chưa phải chính thức. Nhưng tôi đã biết chuyện.”
“Anh nghe được ở đâu?”
“Bộ đàm của cảnh sát. Thằng chó chết nào đó. Tôi không biết. Sachs là một ngôi sao. Khi những chuyện kiểu này xảy ra thì chuyện sẽ lan nhanh.”
“Điểm thi của cô ấy thế nào?”
“Bất chấp điểm của cô ấy trong kỳ thi.”
Rhyme đẩy xe lăn vào phòng thí nghiệm. Viên thanh tra, hôm nay có vẻ đặc biệt cau có, đi theo.
Nguyên do hóa ra là hoàn toàn tại Sachs. Cô đã lệnh cho ai đó ra khỏi một hiện trường vụ án đang điều tra, và khi hắn ta không chịu đi, đã còng tay hắn.
“Thật tệ cho cô ấy, gã đó hóa ra là Victor Ramos.”
“Tay nghị sĩ.” Lincoln Rhyme gần như không quan tâm tới chính quyền địa phương, nhưng anh biết Ramos: chính trị gia cơ hội, đã bỏ bẵng các cử tri Latinh nói tiếng Tây Ban Nha ở khu Harlem tới gần đây, giờ thì điều kiện chính trị của hắn thích hợp – và quy mô của đội ngũ cử tri – có nghĩa là hắn có thể tranh giành vị trí ở Albany hay một suất ở Washington.
“Bọn họ có thể đánh trượt cô ấy không?”
“Thôi nào, Linc, bọn chúng có thể làm bất cứ điều gì chúng muốn. Chúng thậm chí còn nói tới việc đình chỉ.”
“Cô ấy có thể đấu tranh. Cô ấy sẽ đấu tranh.”
“Và anh có biết chuyện gì xảy ra với cảnh sát tuần tra đối đầu với cấp trên không. Khả năng là, thậm chí nếu cô ấy thắng, họ sẽ đẩy cô ấy sang Đông New York. Trời, thậm chí còn tệ hơn, họ sẽ đẩy cô vào một công việc bàn giấy ở Đông New York.”
“Chó đẻ,” nhà tội phạm học quát.
Sellitto bước quanh phòng, qua những sợi dây cáp và liếc nhìn vào mấy tấm bảng trắng ghi thông tin vụ Gã phù thủy. Viên thanh tra ngồi xuống một chiếc ghế mà nó kẽo kẹt vì sức nặng của anh. Anh xoa tay vào đám mỡ quanh eo mình; vụ Gã phù thủy đã làm chệch hướng thói quen ăn uống của anh một cách nghiêm trọng. “Có một việc,” anh nhẹ giọng, có mùi âm mưu trong đó.
“Hả?”
“Có một người mà tôi quen. Anh ta là người đã dọn dẹp khu Mười Tám.”
“Lúc mà tất cả ma túy và thuốc lắc biến mất ở tủ bằng chứng à? Vài năm trước phải không?”
“Phải. Là vụ đó đó. Anh ta có quan hệ khắp tổng hành dinh. Thành viên hội đồng sẽ nghe anh ta và anh ta sẽ nghe tôi. Anh ta nợ tôi.” Rồi thanh tra vẫy tay về phía những tấm bảng có bằng chứng vụ Gã phù thủy. “Và, chó đẻ thật, hãy xem những gì chúng ta vừa làm kìa. Chúng ta đã tóm được một gã đáng tởm làm sao. Để tôi gọi cho anh ta. Giật dây một chút cho cô ấy xem sao.”
Và đôi mắt Rhyme cũng nhìn vào những bảng biểu, rồi vào thiết bị, bàn làm việc, những cuốn sách – tất cả được dành cho sự nghiên cứu phân tích bằng chứng mà Sachs đã gỡ ra hoặc lấy được từ những hiện trường vụ án trong vài năm họ ở cùng nhau. “Tôi không biết nữa,” anh nói.
“Có vấn đề gì?”
“Nếu cô ấy lên trung sĩ theo cách đó, chà, cô ấy sẽ không tự làm được điều đó.”
Viên thanh tra đáp, “Anh biết việc thăng chức này có ý nghĩa thế nào với cô ấy mà, Linc.”
Phải, anh biết.
“Thế này, tất cả những gì chúng ta làm là chơi theo luật của Ramos. Hắn ta muốn hạ gục ta thì chúng ta cũng thế. Anh biết đấy, biến nó thành một cuộc chơi.” Sellitto thích ý tưởng của mình. Anh ta nói thêm, “Amelia sẽ không bao giờ biết. Tôi sẽ nói với người của tôi giấu nhẹm mọi thứ. Anh ấy sẽ làm thế.”
Anh biết việc thăng chức này có ý nghĩa thế nào với cô ấy mà…
“Vậy anh nghĩ sao?” Viên thanh tra hỏi.
Rhyme không nói gì trong một lát, tìm kiếm lời đáp trong những thiết bị pháp y câm lặng quanh mình, rồi trong đám mây mù màu xanh lá của những bụi cây mùa xuân tươi tốt trong công viên Trung Tâm.
Những vết trầy trên gỗ đã được làm nhẵn và mọi dấu vết của trận hỏa hoạn trong phòng ngủ đã “biến mất”, như Thom nói, khá là khéo léo, Rhyme nghĩ. Mùi khói vẫn còn rất nồng, nhưng điều đó khiến Lincoln Rhyme nghĩ tới scotch ngon nên không vấn đề gì.
Bây giờ, nửa đêm, căn phòng tối om, Rhyme nằm trên chiếc giường Flexicair của mình, nhìn chằm chằm ra cửa sổ. Bên ngoài là cử động chao đảo khi một con chim cắt, một trong những tạo vật duyên dáng nhất của Tạo hóa, đậu lên trên mỏm đá. Phụ thuộc vào ánh sáng, và mức độ cảnh giác của nó, những con chim có vẻ nhỏ lại hoặc to lên. Tối nay chúng có vẻ to hơn trong ánh sáng ban ngày, hình dáng của chúng thật ngoạn mục. Đầy đe dọa nữa; chúng không bằng lòng với những tiếng ồn phát ra từ Cirque Fantastique trong công viên Trung Tâm.
Chà, Rhyme cũng chẳng vui gì với chuyện đó. Anh chợp mắt độ mười phút trước để rồi bị đánh thức bởi tiếng vỗ tay thật lớn từ khu lều.
“Họ lẽ ra phải có lệnh giới nghiêm với thứ đó,” Rhyme càu nhàu với Sachs, đang nằm cạnh anh trên giường.
“Em có thể bắn hỏng máy phát điện của họ,” cô đáp, giọng cô thật trong trẻo. Cô có vẻ chưa hề ngủ chút nào. Đầu cô trên chiếc gối cạnh gối của anh, môi chạm vào cổ anh, và anh cảm thấy hơi nhột vì tóc cô và làn da mịn màng, mát lạnh của cô. Ngực cô cũng tựa vào ngực anh, eo đè vào hông anh, chân gác lên chân anh. Anh biết điều đó chỉ nhờ nhìn thấy, tất nhiên; không có cảm giác gì của việc động chạm. Dẫu vậy anh vẫn hoàn toàn thích thú với sự gần gũi đó.
Sachs luôn tuân thủ quy tắc nghiêm ngặt của Rhyme là những người kiểm tra hiện trường không xức nước hoa vì họ có thể bỏ lỡ bằng chứng dạng mùi ở hiện trường vụ án. Nhưng lúc này cô đang không làm việc và anh nhận ra trên da cô một thứ mùi dễ chịu, một hỗn hợp phức tạp, mà anh suy luận là hương nhài, dành dành và dầu máy tổng hợp.
Chỉ có hai người họ trong căn hộ. Họ đã cho Thom đi xem phim với bạn cậu ta, Peter, và dành cả tối xem mấy CD mới, ăn nửa lạng trứng cá Sevruga, bánh quy Ritz, và rất nhiều rượu Moët, bất chấp những khó khăn của việc uống sâm panh bằng ống hút. Giờ thì trong bóng tối, anh đang nghĩ về âm nhạc, về việc một hệ thống thuần cơ khí của tông điệu và quãng lặng lại có thể bao trọn lấy ta trọn vẹn như thế nào. Nó khiến anh thấy phấn khích. Càng nghĩ về nó, anh càng cho rằng vấn đề này dường như không bí ẩn tới mức đó. Rốt cuộc, âm nhạc đã ăn sâu bén rễ trong thế giới của anh: khoa học, lô-gíc và toán học.
Một người sẽ viết một giai điệu như thế nào? Nếu những bài tập vật lý trị liệu mà bây giờ anh đang thực hiện có tác động nào đó… có khi nào anh thực sự có thể nhấn tay mình lên phím đàn không? Khi anh nghĩ ngợi về điều này, anh để ý thấy Sachs đang nhìn vào khuôn mặt anh trong ánh sáng mờ ảo. “Anh nghe về kỳ thi thăng cấp trung sĩ chưa?” Cô hỏi.
Anh lưỡng lự một chút. Rồi đáp: “Có.” Anh đã cẩn thận né tránh chuyện đó cả buổi tối; khi nào Sachs thấy sẵn sàng chia sẻ thì cô ấy sẽ nói. Cho tới lúc ấy thì đề tài đó không tồn tại.
“Anh biết chuyện gì đã xảy ra chứ?” Cô hỏi.
“Không chi tiết lắm. Anh cho rằng nó rơi vào thể loại quan chức chính quyền băng hoại, vị kỷ đối đầu với một cảnh sát hiện trường vụ án anh hùng làm việc quá sức. Đại loại thế?”
Một tiếng cười lớn. “Đúng rồi.”
“Anh từng trải qua chuyện đó mà, Sachs.”
Tiếng nhạc từ gánh xiếc tiếp tục bập bùng, gây ra phản hồi lẫn lộn. Không hiểu sao ta cảm thấy tức giận khi nó xâm nhập vào không gian của ta, nhưng ta không cưỡng lại được sự thích thú với từng nhịp điệu.
Rồi cô hỏi, “Lon có nói với anh về việc chạy chọt cho em không? Gọi điện cho tòa thị chính ấy?”
Amelia sẽ không bao giờ biết. Tôi sẽ nói với người của tôi giữ kín…
Anh cười khúc khích. “Anh ấy có nói, quả thế. Em biết Lon mà.”
Tiếng nhạc dừng lại. Rồi tiếng vỗ tay tràn ngập màn đêm. Âm thanh nhạt nhòa nhưng kích thích ngay sau đó của người dẫn chương trình.
Cô nói, “Em nghe nói là anh ấy có thể thu xếp mọi thứ. Qua mặt Ramos.”
“Có lẽ thế. Anh ấy quen biết rộng.”
Sachs hỏi, “Và anh nói sao?”
“Em nghĩ sao?”
“Em đang hỏi mà.”
Rhyme nói, “Anh từ chối. Anh sẽ không để anh ấy làm thế.”
“Anh từ chối ư?”
“Không. Anh nói với anh ấy là em sẽ tự thăng tiến hoặc là không gì cả.”
“Chết tiệt,” cô thì thầm.
Anh nhìn xuống cô, thoáng hoảng hốt. Phải chăng anh đã đánh giá sai về cô?
“Em giận Lon bởi thậm chí anh ấy từng nghĩ tới chuyện đó.” “Anh ấy có ý tốt thôi.”
Anh tin rằng đôi tay cô vòng qua ngực anh đang siết chặt hơn. “Những gì anh nói với anh ấy, Rhyme, có ý nghĩa với em hơn bất cứ điều gì.”
“Anh biết.”
“Mọi chuyện có thể trở nên tồi tệ. Ramos muốn em bị đình chỉ. Mười hai tháng, không lương. Em không biết mình sẽ làm gì nữa.”
“Em sẽ đi tư vấn. Cùng với anh.”
“Một thường dân không thể kiểm tra hiện trường, Rhyme. Nếu em phải ngồi một chỗ, em sẽ phát điên.”
Khi ta di chuyển họ không thể bắt được ta…
“Chúng ta sẽ vượt qua chuyện này.”
“Yêu anh,” cô thì thầm. Lời đáp của anh là hít sâu vào mùi hương hoa và dầu máy Quaker State của cô và nói với cô rằng anh cũng yêu cô.
“Ôi trời, chói quá.” Cô nhìn ra cửa sổ, đang sáng bừng lên vì ánh sáng đèn chiếu từ rạp xiếc. “Màn cửa đâu rồi?”
“Cháy rồi, em không nhớ sao?”
“Em tưởng Thom đã mua cái mới.”
“Cậu ấy định treo lên nhưng lại càm ràm nhiều quá. Đo đạc rồi đủ thứ. Anh đã xua cậu ấy đi và nói cậu ấy làm việc đó sau.”
Sachs ra khỏi giường và tìm thấy một miếng ga giường không dùng rồi phủ nó lên cửa sổ, ngăn gần hết ánh sáng lại. Cô trở lại giường, cuộn người vào người anh và nhanh chóng thiếp đi.
Nhưng Lincoln Rhyme thì không. Trong lúc nằm đó nghe nhạc và giọng nói bí hiểm của người dẫn chương trình, vài ý tưởng bắt đầu hình thành trong đầu anh và cơ hội để ngủ được đến rồi đi. Rất nhanh chóng, anh đã hoàn toàn tỉnh táo, trôi dạt trong những suy nghĩ của mình.
Những suy nghĩ, không có gì ngạc nhiên, về rạp xiếc.
***
Gần trưa hôm sau, Thom bước vào phòng ngủ và thấy Rhyme có một vị khách.
“Xin chào,” anh nói với Jaynene Williams, đang ngồi trên một trong những chiếc ghế mới cạnh giường của anh.
“Thom.” Cô bắt tay anh.
Người trợ lý, vừa đi mua sắm về, rõ ràng là ngạc nhiên khi thấy có người ở đây. Nhờ chiếc máy tính, các thiết bị điều khiển môi trường và máy quay an ninh, tất nhiên là Rhyme hoàn toàn có thể gọi cho ai đó, mời họ tới và cho họ vào nhà khi họ tới.
“Không cần phải tỏ vẻ sốc như thế,” Rhyme châm chọc. “Tôi từng mời nhiều người tới đây, anh biết mà.”
“Chuyện lạ chưa từng thấy.”
“Có thể tôi sẽ thuê Jaynene để thay anh.”
“Sao anh không thuê cả chị ấy và tôi? Với hai người, chúng tôi có thể chia sẻ việc bị anh hành hạ.” Thom mỉm cười với Jaynene. “Tuy nhiên, tôi sẽ không làm thế với chị.”
“Tôi từng xử lý những chuyện tệ hơn.”
“Chị thích cà phê hay trà?”
Rhyme nói, “Xin lỗi. Phép lịch sự của tôi đâu rồi chứ? Lẽ ra giờ này nước phải sôi rồi.”
“Cà phê được rồi.”
“Cho tôi scotch,” Rhyme nói. Khi Thom liếc nhìn đồng hồ, nhà tội phạm học bổ sung, “Một ly nhỏ thôi vì mục đích y học.”
“Cà phê hết,” tay trợ lý nói và biến mất.
Sau khi cậu ta đã đi khỏi, Rhyme và Jaynene chuyện trò về những bệnh nhân bị thương tổn xương sống và các bài tập và lúc này anh đang tập một cách điên cuồng. Rồi, vẫn thiếu kiên nhẫn như thường lệ, Rhyme cho rằng anh đã đóng vai vị chủ nhà lịch sự đủ lâu rồi và hạ giọng nói, “Có một vấn đề khiến tôi phiền lòng. Tôi nghĩ chị có thể giúp. Tôi hy vọng chị giúp được.”
Cô nhìn anh cảnh giác. “Có thể.”
“Chị đóng cửa lại được không?”
Người phụ nữ phốp pháp liếc nhìn cửa, đứng lên và rồi làm như anh nói. Cô trở lại ghế của mình.
“Chị biết Kara bao lâu rồi?” Anh hỏi.
“Kara hả? Hơn một năm. Kể từ khi mẹ cô ấy tới Stuyvesant.”
“Đó là một nơi đắt đỏ, đúng không?”
“Cắt cổ,” Jaynene nói. “Họ thu phí cao khủng khiếp. Nhưng tất cả những nơi như chỗ chúng tôi thì mức phí cũng khá tương đương nhau.”
“Mẹ cô ấy có bảo hiểm không?”
“Chỉ có Medicare93. Phần lớn là Kara phải tự trả.” Chị nói thêm, “Gắng hết sức luôn. Cô ấy hiện giờ ổn, nhưng cũng nhiều lần không trả kịp.”
Rhyme chậm rãi gật đầu. “Tôi sẽ hỏi chị một câu hỏi nữa. Hãy suy nghĩ trước khi chị trả lời. Và chị phải hoàn toàn trung thực.”
“Chà,” người y tá nói vẻ mông lung, nhìn xuống sàn nhà mới được đánh véc-ni lại. “Tôi sẽ cố hết sức.”
***
Chiều hôm đó Roland Bell có mặt tại phòng khách của Rhyme. Trong tiếng nhạc jazz chơi bằng dương cầm lôi cuốn của Dave Brubeck94, họ nói chuyện về bằng chứng trong vụ Andrew Constable.
Charles Grady và đích thân tổng chưởng lý bang đã quyết định hoãn vụ xét xử hắn để đưa ra thêm các cáo buộc nhằm vào kẻ cuồng tín đó – cố sát với luật sư của chính hắn, âm mưu giết người và giết đồng phạm. Đó sẽ là một vụ không dễ – kết nối Constable với Barnes và những kẻ cùng âm mưu khác trong Hội Ái quốc – nhưng nếu có người kết tội được hắn, thì đó sẽ là Grady. Anh cũng sẽ theo đuổi án tử hình với Arthur Loesser vì vụ giết cảnh sát tuần tra Larry Burke, thi thể đã được tìm thấy trong một ngõ hẻm ở khu Upper West Side. Lon Sellitto đã có mặt tại lễ tang trọng thể của viên cảnh sát ở Queens.
Amelia Sachs giờ đang đi qua cửa, rã rời sau cuộc gặp cả ngày với các luật sư theo sắp xếp của Hội Công đoàn Cảnh sát về khả năng cô bị đình chỉ. Lẽ ra cô phải về từ mấy tiếng trước rồi, nhìn mặt cô, Rhyme suy đoán rằng kết quả cuộc gặp không tốt.
93 Chương trình bảo hiểm y tế quốc gia tại Hoa Kỳ, cung cấp bảo hiểm y tế cho người Mỹ từ 65 tuổi trở lên, người trẻ tuổi bị khuyết tật được xác nhận bởi Sở An sinh Xã hội, người mắc bệnh thận giai đoạn cuối và người bệnh xơ cứng teo cơ một bên. Trung bình, Medicare chi trả một nửa chi phí chăm sóc sức khoẻ cho những người tham gia.
94 Dave Brubeck (1920 - 2012), nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc jazz có ảnh hưởng người Mỹ.
Bản thân anh có một số tin tức mới – về cuộc gặp của anh với Jaynene và những gì xảy ra sau đó – và đã cố gắng liên lạc với cô nhưng không được. Tuy nhiên, hiện giờ không có thời gian để cho cô biết vì một vị khách khác xuất hiện.
Thom đưa Edward Kadesky vào trong phòng.
“Anh Rhyme,” ông nói, gật đầu. Ông đã quên tên Sachs nhưng vẫn gật đầu cái nữa để chào cô. Ông bắt tay Roland Bell. “Tôi đã nhận được tin nhắn của anh, nói là vụ này còn chuyện gì đó nữa.”
Rhyme gật đầu. “Sáng nay, tôi đào xới một chút, xem xét một số đầu mối lỏng lẻo.”
“Đầu mối lỏng lẻo nào?” Sachs hỏi.
“Những đầu mối mà anh không biết là lỏng lẻo. Những đầu mối lỏng lẻo chưa được biết.”
Cô nhíu mày. Nhà sản xuất cũng tỏ vẻ khó chịu. “Trợ lý của Weir – Loesser. Gã không trốn thoát đấy chứ?”
“Không, không. Gã vẫn đang bị giam giữ.”
Chuông cửa reo. Thom biến mất và một lát sau Kara bước qua cửa vào trong phòng. Cô nhìn quanh, vò mái tóc ngắn của cô, vốn đã mất đi màu tím óng ánh và giờ chuyển sang hoe hoe như màu tàn nhang. “Chào,” cô nói với cả nhóm, chớp mắt ngạc nhiên khi cô thấy Kadesky.
“Tôi lấy cho mọi người thứ gì đấy nhé?” Thom hỏi.
“Có lẽ anh nên để chúng tôi ở đây một lát, Thom. Cảm ơn.” Người trợ lý liếc nhìn Rhyme và nghe thấy âm điệu cứng rắn, khó chịu trong giọng nói của anh, gật đầu và rời căn phòng. Nhà tội phạm học nói với Kara, “Cảm ơn vì đã ghé qua. Chỉ là tôi cần hỏi thêm một vài điều về vụ này.”
“Chắc chắn rồi,” cô nói.
Những đầu mối lỏng lẻo…
Rhyme giải thích, “Tôi muốn biết thêm một vài chi tiết về buổi tối mà Gã phù thủy lái chiếc xe cấp cứu chở bom tới rạp xiếc.”
Cô gái trẻ gật đầu, những móng tay màu đen cọ cọ vào nhau. “Bất kỳ điều gì tôi có thể giúp đỡ, tôi rất sẵn lòng.”
“Buổi diễn theo lịch sẽ bắt đầu lúc tám giờ, đúng không?” Rhyme hỏi Kadesky.
“Đúng.”
“Ông chưa trở lại sau bữa tối và cuộc phỏng vấn với đài phát thanh khi Loesser đậu chiếc xe cứu thương ở lối vào đúng không?”
“Không, tôi chưa về.”
Rhyme quay sang Kara. “Nhưng cô có ở đó?”
“Phải. Tôi thấy chiếc xe cứu thương chạy vào. Tôi không nghĩ gì về nó lúc đó.”
“Chính xác thì Loesser đậu nó ở đâu?”
“Nó ở dưới mấy chỗ ngồi được chống bằng giàn giáo,” cô nói.
“Không phải dưới những ghế đắt tiền ư?” Rhyme hỏi Kadesky. “Không,” người đàn ông nói.
“Vậy là nó ở gần lối thoát hiểm chính, nơi mà hầu hết mọi người sẽ sơ tán.”
“Phải.”
Bell hỏi, “Lincoln, ý anh là sao?”
“Ý tôi là Loesser đậu chiếc xe cứu thương sao cho nó gây ra tổn hại lớn nhất nhưng vẫn cho một số người ở chỗ ghế vé rẻ cơ hội trốn thoát. Làm sao gã biết chính xác phải đậu xe ở đâu?”
“Tôi không biết,” nhà sản xuất đáp. “Có lẽ gã đã kiểm tra trước và thấy đó là địa điểm tốt nhất. Ý tôi là, tốt nhất theo quan điểm của hắn. Và tồi tệ nhất cho chúng ta.”
“Gã có thể đã kiểm tra trước đó,” Rhyme nói. “Nhưng gã sẽ không muốn bị bắt gặp khi đi thám thính quanh rạp xiếc – bởi chúng ta có cảnh sát trực ở đó.”
“Đúng.”
“Vậy là có khả năng một ai đó ‘bên trong’ cho gã biết nên đậu xe ở đó?”
“Bên trong sao?” Kadesky hỏi, nhíu mày. “Ý anh là có người đã giúp hắn hả? Không, người của tôi không làm thế.”
“Rhyme,” Sachs nói, “ý anh là gì?”
Anh phớt lờ cô và lại quay sang Kara. “Tôi yêu cầu cô tới lều tìm ông Kadesky vào lúc nào nhỉ?”
“Tôi cho là khoảng bảy giờ mười lăm.”
“Và cô ở khu vực ghế vé rẻ đúng không?” Cô gật đầu và anh nói tiếp, “Gần hàng ghế chỗ lối thoát hiểm đúng không?”
Cô gái nhìn quanh căn phòng một cách lúng túng. “Tôi nghĩ vậy. Phải, đúng thế.” Cô nhìn Sachs. “Tại sao anh ấy lại hỏi tôi tất cả những chuyện này? Có chuyện gì xảy ra vậy?”
Rhyme trả lời, “Tôi hỏi vì tôi nhớ một điều mà cô đã nói với chúng tôi, Kara. Về những người tham gia vào một màn diễn của nhà ảo thuật. Có trợ thủ – người mà chúng ta biết là đang làm việc với ảo thuật gia. Rồi có tình nguyện viên từ phía khán giả. Rồi còn người khác nữa: những tay trong. Đó là những người thực sự hợp tác với ảo thuật gia nhưng có vẻ như không liên quan gì tới ông ta. Họ giả vờ là người dựng cảnh hay tình nguyện viên.”
Kadesky nói, “Không sai, nhiều ảo thuật gia sử dụng các tay trong.”
Rhyme quay sang Kara và nói sắc lẻm, “Cũng là vai mà cô đã đóng từ đầu tới cuối, đúng không?”
“Chuyện gì vậy?” Bell hỏi, giọng nói lè nhè của anh rõ hơn khi ngạc nhiên.
Cô gái trẻ thở gấp, lắc đầu.
“Cô ta đã hợp tác với Loesser ngay từ đầu,” Rhyme nói với Sachs.
“Không!” Kadesky nói. “Cô ấy ư?”
Rhyme nói tiếp, “Cô ta rất cần tiền và Loesser đã trả cô ta năm mươi nghìn để giúp gã.”
Tuyệt vọng, Kara nói, “Nhưng Loesser và tôi chưa từng gặp nhau trước hôm nay!”
“Cô không cần gặp trực tiếp gã. Balzac là người trung gian. Ông ta cũng tham gia.”
“Kara?” Sachs thì thầm. “Không. Em không tin. Cô ấy sẽ không làm thế!”
“Phải không? Em biết gì về cô ta? Thậm chí em có biết tên thật của cô ta không?”
“Em…” Đôi mắt phiền muộn của Sachs hướng về phía cô gái trẻ. “Không,” cô thì thầm. “Cô ấy chưa bao giờ nói với em.”
Cô gái trẻ đẫm nước mắt lắc đầu. Cuối cùng, cô nói, “Amelia, tôi xin lỗi… Nhưng cô không hiểu đâu… Ông Balzac và Weir là bạn bè. Họ trình diễn với nhau nhiều năm và ông ấy rất buồn khi Weir chết trong vụ hỏa hoạn. Loesser nói với ông Balzac những gì gã sẽ làm và họ buộc tôi phải giúp gã. Nhưng các vị phải tin tôi, tôi không biết là họ sẽ làm hại người khác. Ông Balzac nói đó chỉ là một vụ tống tiền – để trả thù ông Kadesky. Tới lúc tôi nhận ra Loesser giết người thì đã quá muộn. Họ nói nếu tôi không tiếp tục giúp gã, gã sẽ khai tôi với cảnh sát. Tôi sẽ ở tù mãi mãi. Cả ông Balzac nữa…” Cô lau mặt. “Tôi không thể làm thế với ông ấy.”
“Với người thầy đáng kính của cô,” Rhyme nói cay nghiệt.
Với vẻ hoảng loạn trong đôi mắt xanh thông minh của cô, cô gái trẻ lao qua Sachs và Kadesky rồi nhảy ra cửa.
“Chặn cô ta lại, Roland!” Rhyme hét.
Bell chạy thật nhanh và lao vào cô gái. Họ đổ xuống góc phòng. Cô rất khỏe, nhưng Bell đã xoay xở còng tay cô lại. Anh ta đứng lên, thở dốc và lôi chiếc bộ đàm Motorola ra khỏi thắt lưng, gọi cho một chiếc xe chuyển tù nhân ở Trung tâm Giam giữ.
Anh cất bộ đàm với vẻ ghê tởm và đọc các quyền cho Kara.
Rhyme thở dài. “Anh đã cố nói trước với em, Sachs. Anh không thể liên lạc được qua điện thoại. Anh ước rằng đây là sai sót. Nhưng thế đấy. Cô ta và Balzac hợp tác với Loesser từ đầu tới cuối. Họ lừa bịp chúng ta như thể chúng ta là khán giả của họ.”