M
ỗi buổi chiều, tôi thường ra ngồi ở khoảnh sân trước với hộp màu nước và giá vẽ trong trí tưởng tượng. Là người kiên nhẫn nên tôi có thể ngồi đó hàng tiếng đồng hồ, bất động, chờ đợi những cảnh tượng tuyệt đẹp của thiên nhiên bất ngờ xuất hiện. Tôi luôn có cảm giác một điều gì đó quan trọng lắm sắp xảy ra, và tôi muốn được chứng kiến. Đó có thể là một con sóng lớn tinh nghịch cuốn vào bờ cát, hoặc cũng có thể là một con cua khổ hạnh đang cố tìm cách thoát khỏi đại dương mênh mông.
Nhưng không phải lúc nào tôi cũng ở trong tâm trạng háo hức chờ đợi như thế - như thể mỗi thời khắc trôi qua, vũ trụ sẽ tiết lộ cho tôi thêm những điều bí mật. Lúc mới đặt chân đến Miramar, tôi như kẻ bị đắm tàu duy nhất còn sống sót trên hoang đảo, cô đơn và cảnh giác với tất cả mọi thứ xung quanh. Nhưng giờ đây, tôi tưởng tượng mình là Paul Gauguin[1], sau một chặng đường dài, cuối cùng cũng đã đến được Tahiti, thiên đường của những cơn mê mị.
[1] Paul Gauguin (1848-1903): Danh họa Pháp, sống ở Tahiti từ năm 1891 đến 1901, thời gian ông sáng tác sung sức nhất và để lại nhiều kiệt tác hội họa.
Gauguin viết trong hồi ký: “Khi bắt đầu công việc, tôi ghi chú, phác họa đủ các kiểu. Mọi thứ xung quanh làm tôi lóa cả mắt. Cơ thể tôi như được giải phóng”.
Sau đó Gauguin đã gặp được Tehamana – người ông yêu. Ông viết tiếp: “Hạnh phúc đến với chúng tôi thật êm đềm, bất tận. Ngôi nhà chúng tôi bao giờ cũng ngập tràn những ánh vàng rực rỡ bởi gương mặt đáng yêu của Tehamana. Vào mỗi buổi rạng đông, hai chúng tôi thường đi bộ đến dòng suối nhỏ gần đó để tận hưởng cảm giác thư giãn tuyệt vời”.
Tehamana, Tehamana - tôi cứ gọi đi gọi lại cái tên ấy với mong mỏi một điều kỳ diệu sẽ xảy đến với mình. Và rồi tôi lại tự hỏi, liệu một gã đàn ông như tôi có thể tìm thấy người phụ nữ có cái tên như thế không?
Dường như giờ đây tôi càng hiểu rõ hơn sự thôi thúc bên trong của người cầm cọ. Những ngày tĩnh lặng đi dọc bờ biển không làm tôi cô đơn như khi bước trên các đại lộ ở New York. Và Gauguin cũng vậy, chính sự cô đơn đã mang ông đến vùng biển phía Nam. Sự cô đơn đã làm trái tim chúng tôi chai cứng, không chút xúc cảm giữa biển người mênh mông. Gauguin không thể cưỡng lại được sức hút mãnh liệt của vùng đất bình yên ấy đến mức ông đã từ bỏ tất cả gia đình, công việc để đến đó, như một con chim nhạn di cư mỗi lúc mùa về.
Tôi nghĩ mình có thể hiểu được Gauguin, đó là ông luôn vẽ bằng tất cả cảm xúc của mình. Ông vẽ, nhưng không phải vẽ lên khung vải, mà tự họa chân dung của chính mình – một việc làm đầy khó khăn, thử thách. Và ông đã làm được điều kỳ diệu đó, tạo ra mẫu người như ông mong muốn.
Sau cuộc hôn nhân đổ vỡ, tôi một mình lưu lạc đến miền đất Miramar này. Thời gian đầu, cảm giác cô đơn và lạc lõng vây lấy tôi. Nhưng rồi sau đó, những cảm giác tiêu cực cũng dần biến mất và tôi bắt đầu tạo lập cho mình một cuộc sống ý nghĩa hơn.
Không biết tự bao giờ tôi trở nên “nghiện” sự cô độc, và luôn cố gắng tìm mọi cách bảo vệ mình tránh khỏi những “cám dỗ” xung quanh. Trong khi đó, những người hàng xóm tốt bụng lại muốn kéo tôi tham gia vào cuộc sống ồn ào, xô bồ của họ. Mỗi khi nghe chuông điện thoại reo, tôi lại lo ngại không biết tiếp theo sẽ là lời mời nào.
Mọi người cho rằng tôi đang rất cô đơn khi ngồi một mình bên hiên nhà, nhìn xa xăm về phía biển, hoặc lủi thủi trong căn nhà rộng thênh. Vì lẽ đó, tôi thường xuyên được mời đến ăn tối cùng gia đình họ. Miễn cưỡng nhận lời mời tham gia bữa tối, tôi đến với bộ cánh bảnh bao, và luôn giữ ý để cư xử một cách lịch thiệp theo ý gia chủ. Những bữa tối nhạt nhẽo và vô vị này thường khiến tôi có cảm giác như mình chỉ là trò tiêu khiển của họ mà thôi. Và điều đó thật quá sức chịu đựng của tôi.
Tôi từng nghĩ mình sẽ chia sẻ với họ những suy nghĩ về cuộc sống mà tôi đã chọn lựa. Nhưng giờ thì không cần nữa, bởi vì tôi hiểu rằng, nếu biết rõ về cuộc sống của tôi chắc chắn họ sẽ há hốc miệng ra kinh ngạc và sau đó nhìn chằm chằm vào tôi như thể một sinh vật lạ vừa xuất hiện trước mặt họ. Dù đã từng chuyện trò với những người này nhưng quả thật là tôi không thể tìm thấy tiếng nói chung với họ. Họ luôn tranh cãi về một vấn đề nào đó. Thật buồn cười khi cô vợ vừa nói xong, tức thì anh chồng phản bác lại để rồi sau đó thừa nhận, ỉ ôi xin lỗi và lại tiếp tục khẩu chiến. Có lẽ với họ, tranh cãi là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày.
Nhiều khi bất đắc dĩ phải chứng kiến những cuộc chiến như thế, thực sự tôi chẳng biết làm gì hơn ngoài việc ngồi im thưởng thức món khai vị, và không ngừng hy vọng họ sẽ tìm được điểm tương đồng với nhau trước khi dùng món tráng miệng. Đó là cuộc sống riêng tư của họ, và tôi không muốn can thiệp vào dù tôi có thể nói với họ rằng, mỗi người đều có quan điểm riêng, vì vậy cả hai không cần phải to tiếng với nhau làm gì.
Mỗi khi hoàng hôn buông xuống, tôi cảm nhận được một nỗi buồn man mác đang bủa vây tâm hồn mình. Tôi nghĩ đến những trận cãi nhau giữa cặp vợ chồng mà mình từng chứng kiến và thấy thương cảm cho họ. Có thể họ chẳng bao giờ muốn cãi nhau, đổ lỗi cho nhau nhưng đó là cách duy nhất giúp họ thoát khỏi cảm giác cô đơn đang tồn tại. Họ không thể hiểu được bản thân mình, do vậy chẳng bao giờ họ tìm được tiếng nói chung với người bạn đời. Và những cuộc cãi vã như một hình thức giải tỏa sự ức chế tâm trạng, đồng thời để họ nhận biết được sự tồn tại của bản thân.
Tôi bật dậy trên chiếc ghế xếp và đi vào nhà bếp, bóc vỏ một ít đậu cho vào túi rồi bước nhẹ đôi chân trần trên bờ cát, vừa đi vừa nhắm nháp cho đến khi tới được nơi những con sóng vỗ bờ.
Khi tôi đến nơi thì trời vừa xế. Những tia nắng chiều lấp lánh trên mặt nước tạo ra những vệt sáng lung linh. Tôi bước thêm vài bước nữa và nhìn thấy một vật lóa lên trong nắng chiều nằm dưới chân mình. Thì ra, đó là một mảnh gương oval màu xanh nhạt bị sóng đánh vào bờ. Tôi nhớ mang máng hình như mình đã từng thấy một mảnh gương hệt như thế trước đó rất lâu.
Đó là một buổi tiệc của bạn tôi - anh chồng thợ mộc và người vợ giáo viên. Họ tổ chức lễ kỷ niệm mười năm ngày cưới. Khi dùng xong món tráng miệng, người chồng nhẹ nhàng xòe bàn tay chai sần của mình ra để lộ chiếc hộp màu trắng nhỏ nằm gọn bên trong. Một cách từ tốn, anh trao món quà cho vợ với ánh mắt yêu thương lẫn chờ đợi. Cả căn phòng bỗng chốc lặng im trước hành động của người thợ mộc – hành động mà mọi người cho rằng còn cảm động hơn cả những lời hoa mỹ, sáo rỗng.
Tôi là người khách duy nhất trong bữa tiệc đó biết chính xác trong chiếc hộp ấy có vật gì. Anh đã cho tôi xem và kể với tôi trước đó rằng, trong chuyến đi hưởng tuần trăng mật, hai vợ chồng anh đã tìm thấy nó khi cùng dạo bước gần bờ biển Ai Len. Cả hai nhặt nó lên săm soi và ngạc nhiên trước một vẻ đẹp kiêu sa, đồng thời chắc rằng nó hẳn là được tạo ra từ thời Đế chế La Mã. Họ cũng tin rằng đây chính là tặng vật mà đại dương bao la đã dành cho họ.
Người thợ mộc kín đáo cất mảnh gương hình tam giác vào túi, mang nó về nhà và cất thật sâu trong một ngăn tủ. Anh dự định sẽ dùng nó làm món quà đặc biệt tặng cho vợ nhân kỷ niệm mười năm ngày cưới. Trong suốt mười năm ấy, anh chưa một lần nhắc lại với vợ về mảnh gương nhưng cũng tuyệt nhiên không hề quên. Cuối cùng cái ngày ấy cũng đã đến, và suốt trong bữa tối với bạn bè, anh luôn giữ chặt chiếc hộp trắng trong tay mình.
Người vợ nhìn vào bàn tay có món quà của chồng nhưng cô không lấy nó mà lại chú ý đến cái cổ tay đang bị sưng phù vì bong gân của anh khi đóng chiếc tủ mới cho nhà bếp.
– Quả thật tôi không hiểu tại sao anh ấy luôn làm mình bị thương khi làm việc quẩn quanh ngôi nhà của chúng tôi như vậy. – Cô quay mặt về phía những người khách và nói.
Người vợ vừa dứt lời, anh thợ mộc tuy vẫn giữ được vẻ bình thản trên gương mặt, nhưng đôi mắt lại toát lên vẻ hụt hẫng ghê gớm. Anh nhìn vợ tựa như cô vừa bắn một mũi tên xuyên qua trái tim anh vậy. Một lát sau, anh khẽ đẩy chiếc ghế của mình lùi ra khỏi bàn một chút, đặt chiếc hộp trắng lên bệ cửa sổ phía sau lưng, và nhẹ nhàng yêu cầu vợ xin lỗi. Anh cố mỉm cười và pha trò, nhưng rõ ràng, mọi người đều hiểu anh bị tổn thương như thế nào trước sự nhạo báng của vợ.
– Sao em lại phải xin lỗi anh chứ? – Cô vợ vẫn một mực bướng bỉnh. – Em phải xin lỗi để nhận được món quà ư? Đó là cái giá của nó sao?
Trước thái độ quá đáng của vợ, anh vẫn giữ được sự bình tĩnh, vẫn dịu dàng mỉm cười khi xoay lại bệ cửa sổ cầm chiếc hộp lên và trao cho cô lần nữa. Lần này, người vợ không từ chối nó, nhưng một lần nữa cô lại làm tổn thương anh.
– Nó chẳng có gì đẹp, thậm chí là rất tầm thường nữa, mọi người có thấy vậy không? –Cô đưa cho tất cả mọi người xem với một thái độ mỉa mai, không có vẻ gì là đã từng nhìn thấy nó.
Nhớ lại khoảnh khắc đó, điều ám ảnh tôi là gương mặt đau xót và thất vọng của người thợ mộc, dù lúc nào anh cũng nở nụ cười trên môi. Dường như anh nhận ra rằng khoảng cách giữa anh và vợ quá lớn, một khoảng cách mà cho dù có cố gắng bao nhiêu chăng nữa, anh cũng không thể rút ngắn được. Tôi cho rằng mình có thể hiểu được cảm giác của anh lúc đó, vì chính tôi cũng đã từng ở trong hoàn cảnh tương tự. Đó thực sự là một nỗi đau dai dẳng và rất khó chữa lành.
Tôi nhìn mảnh gương trong tay mình lần nữa, và tự hỏi mình nên giữ lại hay vứt đi. Sau phút đắn đo, tôi quyết định bỏ mảnh gương vào túi, giữ cho chính mình và cho cả anh bạn thợ mộc. Tôi tiếp tục chậm rãi đi lên phía trên, đến một đụn cát và ngả mình xuống. Mặt trời tuy đã lặn từ lâu nhưng cát vẫn còn giữ được sự ấm nóng dễ chịu. Tôi vùi chân mình vào cát, nằm yên nghe sóng vỗ và ngắm sao đêm trong trạng thái hoàn toàn thả lỏng. Gần chân trời, nơi rất thấp ở phía Tây có một ngôi sao treo lơ lửng như một chiếc đèn lồng. Dường như ai đó đã treo nó lên trên cột buồm của một chiếc thuyền đang chầm chậm lướt sóng.
Trong lúc ngắm các vì sao, tôi chợt nghĩ đến những người đã từng miệt mài ngồi trên bãi biển quan sát bầu trời như tôi đêm nay để rồi phác họa những bức tranh vũ trụ bằng trí tưởng tượng phong phú. Họ vẽ Sagittarius - chòm sao Nhân mã, Andromeda - người thiếu nữ, Pegasus - con ngựa có cánh, Capricornus - chòm sao Dương cưu, và Orion - người thợ săn dũng mãnh với một ngôi sao đỏ trên vai và ba ngôi sao sáng chỗ thắt lưng, cặp song sinh Castor và Pollux, biểu tượng của tình yêu tuyệt vời và vĩnh cửu… Tất cả tạo thành một bức tranh lấp lánh tuyệt đẹp giữa nền trời đêm thăm thẳm.
Từ khi đến Miramar, tôi nhận thấy mình ngày càng thuần thục trong việc nhận biết vị trí ngôi sao tương ứng với cung thiên mệnh của mình, cũng như các vì sao khác. Tuy không phải là một nhà thiên văn học, nhưng tôi có thể dễ dàng tìm thấy ngôi sao Gemini – cung Song tử, một trong mười hai cung hoàng đạo. Cũng trong lúc ngắm các vì sao, tôi tự hỏi nguyên nhân nào đã khiến chúng luôn cùng chia sẻ cho nhau cái khoảng không nhỏ bé kia trên bầu trời? Và liệu tôi có tìm được một người phụ nữ nào có thể nhìn thấy thế giới trong mắt tôi như tôi có thể nhìn thấy trong mắt nàng? Tôi hiểu rằng đây không chỉ là câu hỏi và ước mơ của riêng mình, bởi từ rất lâu, nhân loại đã khát khao điều này thông qua những áng thơ văn bất hủ.
Tôi luôn trân trọng mỗi thời khắc hạnh phúc mà mình có được vì tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ có lại những giây phút đó nữa. Dù cuộc hôn nhân của chúng tôi đã tan vỡ sau nhiều năm chung sống và hiện tại tôi đang một mình trên bãi biển Miramar, nhưng tôi không hề có cảm giác cô đơn cũng như hối hận về quyết định của mình. Ngược lại, tôi thấy mình hạnh phúc hơn những người có vợ có chồng mà không thể tìm được điểm tương đồng để hòa hợp cùng nhau. Họ mới chính là những người cô đơn nhất. Mặt trời mọc rồi lặn, với một số người, đó được xem là điều kỳ diệu của tự nhiên; nhưng với một số khác, đó chỉ là một quy luật bình thường.
Tôi vùi chân mình vào sâu hơn trong cát, ngước nhìn bầu trời một lần nữa và thiếp đi sau đó vài giây. Khi tôi thức dậy, trời đã bắt đầu chớm lạnh, và ngôi sao hôm đang nhô lên trên bãi cát dài.