T
ự hào cưỡi trên lưng ngựa dẫn trước đoàn lữ hành của mình là Sharru Nada, hoàng tử thương nhân của xứ Babylon. Ông yêu những thước vải tốt và khoác lên mình những bộ cánh đắt tiền, sang trọng bậc nhất. Sharru Nada còn yêu những con vật khỏe mạnh và luôn cảm thấy yên vị trên chú tuấn mã Ả Rập tinh khôi của mình. Ai nhìn vào đều khó có thể tin được tuổi thật của ông. Và chắc họ cũng chẳng thể ngờ trong thâm tâm hiện giờ của ông đang vô cùng rối bời.
Cuộc hành trình từ Damascus trên sa mạc còn dài và đầy rẫy khó khăn nhưng ông không bận tâm về điều đó. Các bộ lạc Ả Rập man rợ luôn rình rập cơ hội để cướp bóc các đoàn lữ hành giàu có, ông cũng không sợ vì đoàn tùy tùng hùng hậu đảm bảo được an toàn tuyệt đối.
Bên cạnh ông là một chàng trai trẻ được đón về từ Damascus đang rất bồn chồn. Anh ta tên là Hadan Gula, cháu trai người bạn chí cốt của ông, Arad Gula, người mà ông cảm thấy mình mắc món nợ ân tình không bao giờ có thể trả được. Ông muốn làm gì đó cho cậu, nhưng càng nghĩ ông lại càng cảm thấy cậu trai trẻ này thật bế tắc.
Nhìn vào nhẫn và hoa tai của chàng trai, ông nghĩ thầm: “Cậu ta nghĩ đồ trang sức là dành cho đàn ông chắc, may mà cậu ta vẫn còn có khuôn mặt mạnh mẽ của ông nội mình, nhưng ông cậu ta không bao giờ mặc kiểu áo choàng màu mè như vậy cả. Tuy nhiên, ta đã quyết tâm rồi, ta sẽ giúp chàng trai trẻ này gây dựng sự nghiệp và tránh khỏi những rắc rối mà cha cậu đã làm với số tài sản thừa kế của nhà họ.”
Hadan Gula bỗng lên tiếng, cắt đứt dòng suy tư của Sharru Nada, “Tại sao ông luôn làm việc vất vả như vậy? Tại sao luôn phải đi cùng đoàn lữ hành trong những chuyến đi dài ngày thế này? Ông không dành thời gian để tận hưởng cuộc sống sao?”
Sharru Nada mỉm cười. “Tận hưởng cuộc sống ư?” Ông nhắc lại, “Cháu sẽ làm gì để tận hưởng cuộc sống nếu cháu là Sharru Nada?”
“Nếu cháu giàu có như ông, cháu sẽ sống như một hoàng tử. Cháu sẽ không bao giờ tự mình băng qua sa mạc nóng bức. Cháu sẽ tiêu sạch bất cứ đồng shekel nào bản thân có được. Cháu sẽ mặc những chiếc áo sang trọng và đeo những bộ trang sức hiếm có. Đó là một cuộc sống theo đúng những gì cháu mong muốn, một cuộc sống đáng để sống.” Cả hai cùng cười.
“Ông nội của cháu không đeo trang sức.” Sharru Nada nói trước khi nghĩ, sau đó ông tiếp tục đùa. “Cháu có để dành thời gian cho công việc không?”
“Việc đó là dành cho nô lệ.” Hadan Gula trả lời.
Sharru Nada cắn môi nhưng không nói thêm gì, họ đi trong im lặng đến khi con đường mòn dẫn họ đến một con dốc. Sharru Nada chỉ về phía thung lũng xanh ở đằng xa rồi nói với chàng trai trẻ. “Xem kìa, đằng trước có thung lũng. Nhìn từ xa xuống dưới kia, cháu có thể thấy được những bức tường Babylon lờ mờ hiện ra. Tháp cao đó chính là Đền thờ Bel. Nếu mắt tinh thì cháu thậm chí còn có thể nhìn thấy khói từ ngọn lửa vĩnh cửu trên đỉnh đền thờ.”
“Vậy đó là Babylon ư? Cháu vẫn luôn mong mỏi được tận mắt nhìn thấy thành phố giàu có nhất thế giới đó.” Hadan Gula bình luận. “Babylon, nơi ông cháu bắt đầu sự nghiệp của mình. Giá như ông còn sống, chúng cháu đã không phải khổ thế này.”
“Tại sao cháu lại muốn linh hồn ông ấy phải vương vấn nơi này lâu hơn thời hạn mà ông ấy có? Cha và cháu có thể tự mình tiếp tục sự nghiệp của ông cơ mà.”
“Than ôi, cả cháu và cha đều không có tài năng của ông, đều không biết bí mật để thu hút những đồng shekel.”
Sharru Nada không trả lời, ông thúc ngựa chạy dọc xuống con đường mòn đi về phía thung lũng và suy nghĩ. Đằng sau họ là đoàn lữ hành cũng đang chạy theo trong đám mây bụi đỏ. Một lúc sau, họ đã tới con đường cái của các vị vua và hướng về phía nam qua các trang trại tưới tiêu.
Sharru Nada để ý tới ba ông già đang cày ruộng ở gần đó. Họ trông quen mắt đến lạ lùng. Thật kỳ cục làm sao! Không ai có thể ngờ được rằng bốn mươi năm kể từ lần cuối đi qua đây, Sharru Nada vẫn có thể thấy ba người đàn ông đó cày cấy ở đúng thửa ruộng cũ. Có điều gì nhắc nhớ với ông rằng họ chính là những người đàn ông từ thời ấy. Một người đang giữ cái cày một cách uể oải. Hai người còn lại thì miệt mài đi theo bên cạnh con bò, cứ chốc chốc lại quất một roi để chúng tiếp tục kéo cày.
Bốn mươi năm trước, Sharru Nada đã ghen tị biết bao với những người đàn ông này! Ông từng mong ước được đổi chỗ với họ! Nhưng mọi thứ hiện giờ thật khác biệt. Ông tự hào quay lại chiêm ngưỡng đoàn lữ hành của mình, nơi có những con lạc đà và lừa được lựa chọn kỹ lưỡng, trên lưng chúng lúc này chất đầy hàng hóa đắt đỏ từ Damascus. Đó chỉ là một phần trong số tài sản của ông mà thôi.
Sharru Nada chỉ vào những người cày thuê, rồi nói : “Họ vẫn cùng nhau cày đúng một thửa ruộng trên một cánh đồng nơi họ đã từng cày bốn mươi năm về trước.”
“Sao ông có thể chắc chắn về điều đó?”
“Ta từng thấy họ ở đó.” Sharru Nada trả lời. Bỗng nhiên ký ức thay nhau ùa về trong tâm trí ông.
Tại sao Sharru Nada không thể chôn vùi quá khứ và sống cho hiện tại? Rồi ông chợt thấy khuôn mặt tươi cười của Arad Gula như trong hình hài của chàng trai trẻ. Rào cản giữa ông và cậu thanh niên bên cạnh chợt tan biến.
Làm thế nào để có thể giúp một thanh niên trẻ măng với những ham muốn phung phí cùng đôi bàn tay đầy trang sức thế này cơ chứ? Ông có thể đưa cậu ta đi làm ở nhiều nơi, nhưng tất cả sẽ vô ích nếu cậu ta tự coi mình là trung tâm trong mọi việc. Nhưng, ông nợ ân nghĩa của Arad Gula, và ông không trả ơn ông ta một cách nửa vời thế được. Ông và Arad Gula chưa bao giờ làm mọi thứ theo cách đó. Họ không phải là loại đàn ông như vậy.
Một ý tưởng chợt lóe lên. Trong đầu Sharru Nada vẫn còn sự hoài nghi. Có lẽ, ông sẽ phải xem xét lại gia đình và vị trí của mình. Việc này thật tàn nhẫn, nó sẽ gây ra tổn thương cho người khác. Nhưng là một người đàn ông quyết đoán, ông gạt bỏ mọi hoài nghi sang một bên và quyết định hành động.
“Cháu có muốn nghe chuyện ông nội đáng kính của cháu và ta trở thành đối tác đầu tư vào một phi vụ thành công như thế nào không?” Ông hỏi.
“Tại sao ông không chỉ cho cháu biết cách làm thế nào để kiếm tiền nhanh luôn? Cháu chỉ muốn biết có thế thôi.” Chàng trai đáp.
Sharru Nada phớt lờ câu trả lời của cậu và tiếp tục. “Ta bắt đầu sự nghiệp của mình như những người đàn ông đang cày thuê kia. Hồi đó ta cũng trạc tuổi cậu bây giờ. Khi ta đang xếp hàng tới trang trại, Megiddo, một nông dân tốt bụng đã chế giễu những người đang cày cấy một cách vụng về. Megiddo bị xích ngay bên cạnh ta.
‘Hãy nhìn những kẻ lười biếng kìa’, anh ta phản đối, ‘họ không cố gắng cày sâu, cũng không cố gắng để con bò cày cho đều. Cày không sâu thì sao mà tốt lúa được?’”
“Ông nói Megiddo bị xích cạnh ông?” Hadan Gula ngạc nhiên hỏi.
“Đúng vậy, bọn ta bị đeo xiềng xích bằng đồng trên cổ. Bên cạnh anh ta là Zabado, một tên trộm cừu. Ta biết anh ta ở Harroun. Cuối cùng, là một người đàn ông mà bọn ta gọi với biệt danh Cướp Biển vì anh ta không chịu nói ra tên của mình. Bọn ta nghĩ anh ta là một thủy thủ vì khắp mình anh ta là hình xăm con rắn cuồn cuộn theo kiểu thủy thủ. Bọn ta bị xích thành bốn hàng.”
“Ông từng là một nô lệ ư?” Hadan Gula hỏi với giọng đầy hoài nghi.
“Ông của cậu chưa kể chuyện ta đã từng là nô lệ sao?”
“Ông thường kể về ông nhưng không bao giờ nói gì về điều này.”
“Ông ấy đúng là kiểu người mà ta có thể tin tưởng, chia sẻ những bí mật thầm kín nhất của mình. Cháu cũng vậy, ta có thể tin tưởng vào cháu chứ?” Sharru Nada nhìn thẳng vào mắt cậu.
“Ông có thể hoàn toàn tin tưởng cháu, nhưng cháu thực sự rất bất ngờ. Ông đã trở thành nô lệ như thế nào vậy?”
Sharru Nada nhún vai. “Bất cứ người nào cũng có thể dễ dàng trở thành một nô lệ. Với ta thì là do bàn cược và một cốc bia lúa mạch. Ta từng là nạn nhân trong những trò ngớ ngẩn của ông anh trai ta. Trong một vụ ẩu đả, anh ta vô tình giết người bạn của mình. Cha đã giao ta cho người góa phụ đó, hy vọng rằng anh trai ta không bị xét xử và ngồi tù. Khi cha ta không thể trả tiền để giải thoát cho ta, bà ấy đã tức giận bán ta cho người buôn nô lệ.”
“Thật là một sự sỉ nhục và bất công!” Hadan Gula phản đối. “Nhưng nói cho cháu biết, làm thế nào ông lấy lại được sự tự do?”
“Chúng ta sẽ nói tới chuyện đó sớm thôi. Hãy tiếp tục câu chuyện dở dang trước nhé. Khi bọn ta đi qua ruộng, những người cày thuê đã chế nhạo bọn ta. Một người đội chiếc mũ rách cúi đầu và kêu lên ‘Chào mừng đến với Babylon, các vị khách của nhà vua. Ngài đang chờ đợi các ngươi trên các bức tường của thành phố. Bữa tiệc tối nay có mầm đá và súp hành.’ Nói xong, họ cười ầm lên.
Cướp Biển nổi cơn thịnh nộ và nguyền rủa họ. ‘Họ nói nhà vua đang đợi chúng ta trên các bức tường là sao?’ Ta hỏi anh ta.
‘Khi bị dẫn đến các bức tường, chúng ta sẽ bị bắt khiêng những phản gạch khổng lồ cho tới khi gãy lưng thì thôi. Hoặc bọn chủ nô sẽ đánh chúng ta tới chết trước khi gãy lưng. Nhưng chúng sẽ không đánh được ta. Ta sẽ giết chúng trước.’
Sau đó, Megiddo cũng lên tiếng, ‘Tôi thấy chả có chủ nô nào lại đi đánh chết những tên nô lệ chăm chỉ và ngoan ngoãn cả. Các chủ nô phải đối xử tốt với những tên nô lệ ngoan chứ.’
‘Ai mà lại muốn làm việc chăm chỉ chứ?’ Zabado nhận xét. ‘Những người cày thuê kia thật khôn ngoan. Họ không cố gắng làm việc tới gãy cả lưng. Họ chỉ làm đúng sức của mình thôi.’
‘Anh không thể tiến lên trong cuộc sống bằng cách trốn việc được.’ Megiddo phản đối. Nếu anh có thể cày được một héc ta, chủ nhân sẽ công nhận công sức của anh. Nhưng khi anh chỉ cày được một nửa, thì đó gọi là trốn việc. Tôi sẽ không trốn việc. Tôi thích làm việc và hoàn thành công việc thật tròn trịa, vì lao động là bạn thân nhất của tôi. Nó mang lại cho tôi tất cả những điều tốt đẹp tôi có, trang trại, bò, mùa màng và tất cả mọi thứ.’
‘Hẳn là như vậy rồi, và những thứ đó giờ đang ở đâu?’ Zabado chế giễu. Ta nghĩ những người thông minh và biết trốn việc sẽ gặp lợi hơn. Hãy nhìn Zabado này, nếu chúng ta bị bắt đi làm việc trên các bức tường kia, thì tôi sẽ chọn việc bê nước hay những việc nhẹ nhàng, trong khi anh là người thích lao động, anh sẽ phải còng lưng ra bê gạch.’
Ta đã bị khủng hoảng tinh thần đêm đó. Ta không thể ngủ được. Ta lại gần chỗ người canh gác trong khi mọi người đang ngủ và gọi Godoso, người lính canh ca đầu tiên của đêm đó.
Hắn là kiểu người Ả Rập vô lại, nếu hắn cướp được ví của ai thì chắc hắn cũng sẽ cắt đứt luôn cổ họng của người đó.
‘Nói cho ta biết với, Godoso’, ta thì thầm, ‘khi chúng ta đến Babylon, bọn ta sẽ bị bán đi làm việc ở các bức tường ư?’
‘Ngươi muốn biết điều đó để làm gì?’ Hắn thận trọng hỏi.
‘Ngươi không hiểu sao?’ Ta nài nỉ. ‘Ta còn trẻ. Ta muốn sống. Ta không muốn làm việc hay bị đánh đến chết trên các bức tường. Có cách nào để ta có thể kiếm được một chủ nhân tốt không?’
Hắn ta thì thầm, ‘Vậy ta mách ngươi cái này. Ngươi là người tốt, ngươi không gây rắc rối cho Godoso. Thông thường chúng ta sẽ đến chợ nô lệ trước. Nghe này. Khi có người tới hỏi mua, ngươi phải nói rằng ngươi là một tên nô lệ ngoan, chăm chỉ và sẵn sàng làm việc cho chủ nhân. Hãy khiến họ muốn mua ngươi về. Còn nếu không có ai mua ngươi thì hôm sau ngươi sẽ đi bốc gạch. Như thế là vất vả đấy.’
Sau khi hắn quay đi, ta nằm xuống cát ấm, nhìn lên các vì sao và suy nghĩ. Megiddo nói rằng lao động là người bạn thân nhất của anh ấy, khiến ta tự hỏi liệu lao động có phải là người bạn thân nhất của ta hay không? Nếu lao động giúp ta thoát khỏi nạn này thì đúng nó là bạn thân của ta.
Khi Megiddo thức dậy, ta thì thầm tin mừng với anh ta. Điều này trở thành một tia hy vọng của bọn ta trên đường đi về phía Babylon. Vào cuối buổi chiều, chúng ta đã đến gần những bức tường và có thể thấy được dòng người như những con kiến đen đang trèo lên, trèo xuống những con đường chéo đứng dốc. Khi đến gần hơn, bọn ta ngạc nhiên trước viễn cảnh hàng ngàn người đàn ông đang làm việc, một số đang đào trong hào nước, những người khác trộn lẫn đất cát vào gạch bùn. Một lượng lớn khác thì đang bốc vác những viên gạch trong chiếc giỏ lớn lên con đường dốc đem đến cho thợ xây1.
1 Nhiều công trình nổi tiếng của Babylon cổ đại, từ các bức tường hùng vĩ, đền thờ, vườn treo và kênh đào vĩ đại, đều được xây dựng bởi lao động nô lệ, chủ yếu là tù nhân chiến tranh, điều này giải thích cho lối đối xử vô nhân đạo mà họ phải chịu. Lực lượng công nhân này cũng bao gồm nhiều công dân của Babylon và các làng xung quanh bị bán làm nô lệ vì mắc tội hay rắc rối tài chính. Phong tục phổ biến thời đó là đàn ông đặt bản thân, vợ hoặc con cái của họ như một tài sản thế chấp để đảm bảo thanh toán các khoản vay, phán quyết pháp lý hoặc các nghĩa vụ xã hội khác. Trong trường hợp bình thường, họ sẽ bị bán làm nô lệ.
Người giám sát quất đòn roi trời giáng lên lưng người không giữ được hàng lối. Những con người xấu số kia khổ cực, loạng choạng ngã xuống dưới rổ gạch của họ và không thể đứng dậy được. Nếu những trận đòn không khiến họ đứng lên, họ sẽ bị đá sang một bên để mặc nằm đó trong đau đớn. Chẳng mấy chốc, họ sẽ bị kéo xuống vứt cùng với mấy xác chết khác bên đường và cùng những ngôi mộ không danh tính. Ta run lẩy bẩy khi thấy cảnh tượng kinh hoàng đó. Vậy chẳng lẽ đây là điều chờ đợi ta nếu ta thất bại ở chợ nô lệ hay sao.
Godoso đã nói đúng. Chúng ta được đưa qua cổng thành đến nhà tù nô lệ và sáng hôm sau được dẫn tới những chiếc lồng sắt trong chợ. Ở đây, những người khác đều co rúm trong sợ hãi, chỉ có đòn roi mới thúc họ động đậy để các chủ nô xem xét. Megiddo và ta thì háo hức nói chuyện với bất kỳ ai cho phép chúng ta lên tiếng.
Người buôn nô lệ đã đưa những người lính từ Đội cận vệ của nhà vua tới xích Cướp Biển lại và đánh đập tàn nhẫn khi anh ta phản kháng. Lúc họ dẫn anh ta đi, ta cảm thấy thương hại cho anh ta.
Megiddo linh cảm rằng chúng ta sẽ sớm phải chia tay. Khi không có người mua nô lệ nào ở gần, anh ấy nói chuyện với ta một cách nghiêm túc về giá trị của lao động trong tương lai của ta: ‘Một số người ghét lao động. Họ biến nó thành kẻ thù. Nhưng, giống như một con người, anh hãy tự khiến bản thân mình thích nó. Đừng bận tâm đến khó khăn. Nếu anh mong muốn có một ngôi nhà đẹp, thì cây rầm nặng trĩu hay đường xách nước xa xôi có là gì. Hãy hứa với tôi, chàng trai, nếu anh kiếm được cho mình một chủ nhân, hãy làm việc cho ông ta hết sức có thể. Đừng bận tâm nếu ông ta không đánh giá cao những gì anh làm. Hãy nhớ rằng, công việc hoàn thành tốt sẽ đem lại lợi ích cho chính người đã hoàn thành nó. Nó sẽ khiến anh trở thành một con người tốt hơn.’ Anh ta dừng lại khi một người nông dân vạm vỡ đến bên chiếc lồng sắt và nhìn ngắm bọn ta một cách nghiêm túc.
Megiddo hỏi về trang trại và mùa màng của người nông dân và sớm thuyết phục được người đó rằng anh ấy sẽ là một nô lệ có giá trị. Sau khi mặc cả dữ dội với người bán nô lệ, anh nông dân rút ra một túi tiền nặng trĩu, và Megiddo nhanh chóng theo chủ nhân mới của mình đi khuất khỏi tầm nhìn của ta.
Một vài người khác đã bị bán đi vào buổi sáng. Đến trưa, Godoso đã nói với ta rằng người bán nô lệ đang cảm thấy mệt mỏi và sẽ không ở lại một đêm nữa mà đưa tất cả những người còn lại cho nhà vua khi chiều xuống. Ta đã rất tuyệt vọng, cho tới khi một ông già béo chân chất bước tới và hỏi ở đây có ai là thợ làm bánh không.
Ta đến gần ông ta nói, ‘Tại sao một người làm bánh giỏi như ông lại phải tìm kiếm một tên thợ bánh kém cỏi chứ? Chẳng phải sẽ dễ dàng hơn nếu ông dạy một người sẵn sàng học tập như tôi ư? Hãy nhìn tôi này, trẻ, khỏe và yêu thích lao động. Hãy cho tôi một cơ hội và tôi sẽ làm hết sức mình để kiếm vàng bạc về cho ví của ông.’
Ông ấy đã rất ấn tượng với sự sẵn sàng dấn thân của ta và bắt đầu thương lượng với người bán nô lệ, hắn chưa từng để ý kể từ khi ta được mua về, nhưng giờ lại đang khoe khoang về sức khỏe tốt, trí óc và khả năng của bản thân. Ta cảm thấy mình như một con bò béo được bán cho một nhà xẻ thịt. Cuối cùng, ta vui mừng khi cuộc buôn bán được chốt. Ta đi theo chủ mới về, tự nghĩ rằng ta hẳn phải là người may mắn nhất ở Babylon.
Ngôi nhà mới rất gần với sở thích của ta. Nananaid, chủ nhân của ta, đã dạy ta cách xay lúa mạch trong bát đá đứng trong sân, cách đốt lửa trong lò và sau đó là cách xay bột mè thật mịn để làm những chiếc bánh mật ong. Ta sở hữu một chiếc ghế dài trong nhà kho chứa hạt. Người quản gia, cựu nô lệ, Swasti, đã cho ta ăn ngon và rất vui vì ta giúp bà làm những công việc nặng nhọc.
Đây là cơ hội để chứng tỏ giá trị của bản thân cho chủ nhân mà ta đã chờ đợi từ lâu, và ta cũng hy vọng đây là con đường để ta tìm lại sự tự do.
Ta đã hỏi Nananaid chỉ cho ta cách nhào bánh mì và nướng bánh. Nhận thấy sự hiếu học của ta, ông ấy rất vui vẻ dạy ta mọi thứ. Sau khi ta có thể làm tốt hai việc đó, ta đã yêu cầu ông ấy dạy cách làm bánh mật ong, và sau đó là tất cả các món bánh nướng khác. Chủ nhân của ta đã rất vui khi được thảnh thơi, nhàn rỗi, nhưng Swasti thì lắc đầu không tán thành. ‘Nhàn cư vi bất thiện’, bà nói.
Ta cảm thấy đã đến lúc ta nên nghĩ cách bắt đầu kiếm tiền để mua lại sự tự do của mình. Khi công việc nướng bánh kết thúc vào buổi trưa, ta đoán Nananaid sẽ chấp thuận ý tưởng của mình nếu ta tìm được việc làm sinh lời cho buổi chiều và ông ấy cũng có thể được chia sẻ thu nhập mà ta kiếm. Rồi một ý tưởng chợt đến, tại sao ta không nướng thêm nhiều bánh mật ong khác và bán cho những người đàn ông đói khát ngoài đường phố?
Ta đã trình bày kế hoạch của mình cho Nananaid: ‘Nếu tôi có thể tận dụng buổi chiều sau khi công việc kết thúc, ông chủ cũng sẽ được chia một phần thu nhập tôi kiếm được, còn tôi sẽ giữ phần còn lại để mua cho mình những thứ mà bất kỳ ai cũng mong muốn, vậy không phải lợi cả đôi đường sao?’
‘Hay đấy, hay đấy’, ông chủ thừa nhận. Khi ta chia sẻ về kế hoạch bán bánh mật ong, ông cảm thấy rất hài lòng. ‘Vậy chúng ta hãy làm thế này’, ông đề nghị. ‘Hãy bán bánh với giá hai đồng xu, một nửa số xu sẽ là của ta để trả tiền bột, mật ong và củi dùng nướng bánh. Số còn lại, ta một nửa và ngươi được một nửa.’
Ta rất vui mừng vì lời đề nghị hào phóng của ông khi cho phép ta được giữ một phần tư của tất cả số tiền kiếm được. Đêm đó ta đã làm việc tới khuya để làm thêm một khay trưng bày bánh. Nananaid cho ta chiếc áo cũ để trông ta có vẻ đứng đắn hơn, còn Swasti giúp ta vá và giặt sạch chiếc áo đó.
Ngày hôm sau ta nướng thêm nhiều bánh mật ong. Ta đi xuống phố rao bánh với khay bánh nâu giòn nóng hổi trên tay. Ban đầu, không ai để ý, và ta đã nản lòng. Nhưng vào giờ chiều, mọi người bắt đầu cảm thấy đói và khay bánh của ta nhanh chóng được bán hết.
Nananaid đã rất hài lòng với thành công của ta và sẵn sàng trả công theo đúng như đã thỏa thuận. Ta rất vui khi được sở hữu những đồng xu đầu tiên của chính mình. Megiddo đã đúng khi nói mọi chủ nô sẽ luôn công nhận thành quả làm việc tốt của nô lệ. Đêm đó, ta đã quá vui vì thành công tới mức mất ngủ, vậy nên ta đã thức luôn để cố gắng tính xem ta có thể kiếm được bao nhiêu trong một năm và cần bao nhiêu đồng nữa để mua lại sự tự do của mình.
Mỗi ngày, ta đều ra đường rao bán bánh và không lâu sau bắt đầu có được cho mình những khách hàng thường xuyên. Một trong số đó không ai khác chính là ông nội của cháu, Arad Gula. Ông là một người buôn bán thảm, chuyên bán cho các bà nội trợ, ông ấy thường đi rao từ đầu này tới đầu kia của thành phố, kéo theo con lừa chất đầy thảm và một nô lệ da đen để chăm sóc cho nó. Ông ấy luôn mua hai chiếc bánh cho mình và hai chiếc cho nô lệ, và trò chuyện với ta trong lúc họ ăn bánh.
Một ngày nọ, ông của cháu đã nói với ta một điều mà về sau ta luôn ghi nhớ. ‘Tôi thích bánh của anh, chàng trai ạ, nhưng tôi còn thích cách anh bán những chiếc bánh này hơn. Với một tinh thần sảng khoái như vậy, anh sẽ còn đi xa hơn trên con đường dẫn tới thành công.’
Nhưng làm sao cháu có thể hiểu được, Hadan Gula ơi, ý nghĩa mà những lời khích lệ như vậy đem lại cho một cậu bé nô lệ, cô độc trong một thành phố lớn, đấu tranh với tất cả những gì mình có để tìm cách thoát khỏi sự sỉ nhục?
Thời gian dần trôi qua, ta tiếp tục bỏ vào túi của mình từng đồng xu một. Ta bắt đầu cảm thấy chúng đang nặng dần một cách đầy khoan khoái trên thắt lưng của ta. Lao động thực sự đã trở thành người bạn thân nhất của ta như Megiddo đã nói. Ta rất vui nhưng Swasti thì rất lo lắng.
‘Chủ nhân của tôi, tôi sợ ngài đang dành quá nhiều thời gian ở các xới bạc đấy.’ Bà phản đối như vậy.
Một ngày nọ, ta vui mừng khi gặp lại người bạn Megiddo của mình trên đường. Anh ấy đang dẫn ba con lừa chở rau đến chợ. ‘Cuộc sống của tôi đang rất ổn’, anh nói. ‘Chủ nhân đánh giá cao công việc của tôi, và giờ tôi đã là quản đốc. Ông ấy còn tin tưởng giao nhiệm vụ tiếp thị cho tôi, và ông ấy cũng đang cho gọi gia đình tôi về đây. Lao động đã giúp tôi phục hồi trở lại sau những biến cố lớn. Một ngày nào đó nó sẽ giúp tôi mua lại sự tự do của mình và lần nữa được sở hữu trang trại của riêng tôi.’
Thời gian trôi đi và chủ nhân của ta ngày càng mong ngóng ta bán bánh về. Ông ấy chờ khi ta trở lại để háo hức đếm và chia tiền. Ông ấy cũng thúc giục ta tìm kiếm nhiều nơi để bán và kiếm được nhiều tiền hơn.
Ta thường ra ngoài cổng thành để thu hút thêm những người giám sát nô lệ đang xây tường. Ta ghét phải quay lại để chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng kia, nhưng mấy người giám sát ở đó luôn sẵn sàng mua rất nhiều bánh. Một ngày nọ, ta ngạc nhiên khi thấy Zabado đang xếp hàng chờ để gạch được bỏ vào giỏ của anh ta. Trông anh ta gầy guộc, hốc hác, và lưng anh ta thì kín những vết sẹo, lở loét từ những trận đòn roi của người giám sát. Ta rất tiếc cho anh ấy và đưa cho anh một chiếc bánh. Anh ta nhanh chóng ăn ngấu nghiến như một con thú đói. Nhìn thấy ánh tham lam trong mắt anh ta, ta sợ hãi chạy đi trước khi anh ta có thể cướp lấy khay bánh.
‘Tại sao anh phải làm việc chăm chỉ như vậy?’ Một ngày nọ, Arad Gula hỏi ta. Giống như việc cháu đã hỏi ta ngày trước, cháu còn nhớ chứ? Ta liền kể lại cho Arad Gula những gì Megiddo nói về lao động và cách ta đã biến lao động trở thành người bạn thân của mình. Ta tự hào khoe với ông túi tiền nặng trĩu những đồng lẻ của mình, và kể cho ông về kế hoạch mua lại sự tự do của bản thân.
‘Khi có được tự do, anh sẽ làm gì?’ Ông hỏi.
‘Khi đó’, ta trả lời, ‘Cháu sẽ trở thành một thương gia.’
Hồi sau, Arad Gula trải lòng với ta. Ông thú nhận một điều ta không thể ngờ tới. ‘Anh có biết tôi cũng là một nô lệ không. Bây giờ, tôi đang hợp tác kinh doanh với chủ nhân của mình’.”
“Dừng lại”, Hadan Gula yêu cầu. “Cháu không muốn nghe bất cứ lời bôi nhọ nào về ông nội cháu. Ông không phải là nô lệ.” Đôi mắt chàng trai trẻ hừng hực lửa giận.
Sharru Nada bình tĩnh nói: “Ta tôn trọng cách ông ấy đã vượt lên sự bất hạnh của mình để trở thành một công dân gương mẫu của Damascus. Cháu có thực sự là cháu trai của ông ấy không? Cháu có đủ can đảm để đối mặt với sự thật không? Hay cháu thích sống dưới những ảo tưởng sai lầm hơn?”
Hadan Gula ngồi thẳng dậy trên lưng ngựa. Với giọng nói nén lại những xúc cảm sâu sắc, cậu ta trả lời: “Ông cháu là một người được mọi người yêu quý. Ông đã làm vô số việc tốt. Khi nạn đói đến, chính ông đã bỏ tiền túi của mình ra để mua lương thực từ Ai Cập và đoàn xe của ông đã mang lương thực đến Damascus, phân phát cho mọi người dân? Vậy mà giờ đây ông lại nói ông cháu chỉ là một nô lệ bị coi thường ở Babylon.”
“Nếu ông ấy vẫn là một nô lệ ở Babylon thì ông ấy hẳn đã bị coi thường, nhưng bằng sự nỗ lực của chính mình, ông ấy đã trở thành một người đàn ông được tôn kính ở Damascus, các vị thần thực sự đã bỏ qua những bất hạnh và tôn trọng ông ấy.” Sharru Nada trả lời.
“Sau khi thú nhận với ta rằng ông cũng là một nô lệ”, Sharru Nada tiếp tục, “ông ấy đã kể với ta, ông ấy từng lo lắng tới mức nào về chuyện có lại được sự tự do. Khi ông ấy đã có đủ tiền để tự do, ông lại băn khoăn không biết mình nên làm gì. Ông ấy không bán được tốt như trước nữa, và sợ phải từ bỏ sự hỗ trợ của chủ nhân mình”1.
1 Phong tục nô lệ ở Babylon cổ đại cũng được pháp luật quy định chặt chẽ, mặc dù nghe có vẻ không phù hợp với thời hiện đại. Ví dụ, một nô lệ có thể sở hữu bất kỳ loại tài sản nào, kể cả nô lệ khác, và chủ của anh ta không có quyền gì với tài sản ấy. Nô lệ kết hôn tự do với những người không phải nô lệ. Con của những bà mẹ tự do sẽ được tự do. Hầu hết các thương nhân thành phố đều là nô lệ. Nhiều người trong số này đã hợp tác với chủ của họ và trở nên giàu có theo cách riêng của họ.
“Ta đã phản đối sự thiếu quyết đoán của ông ấy: ‘Không được bám lấy chủ nhân nữa. Hãy một lần nữa lấy lại cảm giác được là người tự do. Hãy hành động như một người tự do và thành công như một người tự do! Hãy quyết định mục tiêu của mình và sau đó công việc sẽ giúp ta đạt được mục đích đó!’ Arad Gula nói rằng ông ấy rất vui vì được ta chỉ trích cho thức tỉnh để bước ra khỏi sự hèn nhát của bản thân mình.”
“Một ngày nọ, ta đi ra ngoài phía cổng thành một lần nữa và ngạc nhiên khi thấy đám đông lớn tụ tập ở đó. Khi ta hỏi người đàn ông chuyện gì đang xảy ra, anh ta trả lời: ‘Anh chưa biết sao? Một tên nô lệ bỏ trốn đã giết lính của nhà vua và bị đưa ra công lý, hôm nay hắn sẽ bị kết án tử hình. Ngay cả chính nhà vua cũng tới xem’.”
“Đám đông lớn tụ họp quanh khu vực đó khiến ta sợ khay bánh của mình sẽ bị dập nát nếu cố chen vào xem. Vậy là ta trèo lên bức tường chưa được xây xong để nhìn qua đám đông. Ta thật may mắn khi thấy Nebuchadnezzar vĩ đại đang cưỡi trên chiếc xe ngựa vàng của mình. Chưa bao giờ trong đời ta được chiêm ngưỡng một nhân vật tầm cỡ như vậy, ông ấy khoác trên mình áo choàng với tấm vải dát vàng và nhung.”
“Ta không nhìn được tên nô lệ nhưng có thể nghe thấy tiếng thét của hắn. Ta tự hỏi làm thế nào mà một người cao quý như vị vua vĩ đại của chúng ta lại có thể chứng kiến những đau đớn như vậy. Nhưng khi ta thấy ông ấy cười và đùa giỡn với các vị quý tộc khác, ta nhận ra ông ấy là một người tàn nhẫn và hiểu tại sao hành động vô nhân tính trên bức tường đang xây dựng lại có thể diễn ra.”
“Sau khi tên nô lệ chết, xác hắn bị treo trên cột bằng một sợi dây buộc vào chân để mọi người có thể nhìn thấy. Vào lúc đám đông bắt đầu tan rã, ta tiến lại gần xem. Trên bộ ngực đầy lông là hình xăm hai con rắn quấn vào nhau. Hắn chính là Cướp Biển.”
“Lần tiếp theo ta gặp Arad Gula, ông ấy đã trở thành một con người khác. Ông ấy nhiệt tình chào đón ta: ‘Kìa, nô lệ mà anh biết giờ đã là một người tự do. Những lời anh nói với tôi thật kỳ diệu. Doanh số và lợi nhuận của tôi tăng lên nhiều. Vợ tôi bây giờ vui mừng khôn xiết. Cô ấy là một người phụ nữ tự do, là cháu gái của chủ nhân. Cô ấy mong muốn chúng tôi được chuyển đến một thành phố mới, nơi không có người nào biết tôi từng là nô lệ. Như vậy, con của chúng tôi sẽ không bị ảnh hưởng bởi quá khứ dơ bẩn của cha chúng. Công việc đã trở thành người trợ giúp tốt nhất của tôi. Công việc đã cho phép tôi lấy lại sự tự tin và kỹ năng bán hàng của mình’.”
“Ta rất vui vì giúp được ông ấy, bất kể đó chỉ là một chuyện nhỏ bé, và ta đã được trả ơn bằng những lời khích lệ ông ấy dành cho ta.”
“Một buổi tối nọ, Swasti đến gặp ta, buồn rầu vô cùng: ‘Chủ nhân của chúng ta đang gặp rắc rối lớn. Tôi rất lo lắng cho ông ấy. Vài tháng trước, ông ấy đã mất một số tiền lớn ở bàn cược. Ông ấy vẫn chưa trả được tiền cho người nông dân. Ông ấy cũng không trả được tiền người cho vay. Họ đang giận dữ và đang đe dọa ông ấy.’
‘Tại sao chúng ta phải lo lắng cho sự điên rồ của ông ấy. Chúng ta không phải người chăm sóc ông ta.’ Ta đã trả lời một cách thiếu suy nghĩ.
‘Chàng trai ngốc nghếch này, anh không hiểu. Ông ấy đã thế tên của anh với người cho vay để có một khoản. Hắn ta có thể bắt giữ và bán anh theo đúng luật pháp. Tôi không biết phải làm gì bây giờ. Ông ấy là một chủ nhân tốt. Tại sao chứ? Ôi tại sao những rắc rối như vậy lại đến với ông ấy chứ?’”
“Nỗi sợ của Swasti không phải là vô căn cứ. Vào sáng hôm sau, khi ta đang làm bánh, người cho vay tiền đã quay lại với một người mà anh ta gọi là Sasi. Người đàn ông này nhìn ta và nói trông ta được việc đấy.”
“Người cho vay tiền không đợi chủ nhân của ta quay trở lại mà bảo Swasti nói với ông ấy rằng ta đã được đem đi. Chỉ với chiếc áo choàng và ví tiền được treo an toàn ở thắt lưng, ta đã phải vội vã rời khỏi lò nướng bánh mì đang làm dở.”
“Ta bị cuốn vào vòng xoáy đau khổ khi phải chứng kiến mọi hy vọng của mình bị cắt đứt và ném xuống biển. Một lần nữa, ván đánh cược và men rượu đã gây thảm họa cho ta.”
“Sasi là một người đàn ông cộc cằn. Khi anh ta dẫn ta đi khắp thành phố, ta đã cố gắng nói với anh ta về những thành tích công việc tốt ở chỗ của Nananaid, và ta nói rằng ta hy vọng được tiếp tục làm những việc tốt ấy cho anh ta. Lời đáp lại của anh ta không hề khuyến khích ta thêm một chút nào:
‘Tôi không thích công việc này. Chủ nhân của tôi cũng không thích nó. Nhà vua đã ra lệnh cho ông ta cử tôi đi xây dựng một phần của Kênh đào lớn. Chủ nhân dặn Sasi mua thêm nô lệ làm việc chăm chỉ và hoàn thành công việc càng nhanh càng tốt. Ha, làm gì có người nào hoàn thành một công việc lớn tới chừng ấy nhanh chóng được cơ chứ?’”
“Hãy hình dung một sa mạc không bóng cây mà chỉ toàn những những cây bụi thấp, mặt trời thì nắng cháy trên đầu, và nước trong thùng thì cũng bị hâm nóng đến mức chúng ta hiếm khi có thể uống được. Rồi hãy hình dung ra những hàng dài người xếp hàng, đi xuống vực sâu khai phá và chất đất lên giỏ, đi lên đi xuống trên những con đường mòn đất mềm và lở từ sáng sớm tới tối muộn. Hãy hình dung thức ăn thì được đổ ra trên các máng mở như những máng lợn. Bọn ta không có lều, không có giường rơm.
Ta đã bị mắc kẹt vào tình huống tệ hại này đấy. Ta chôn túi tiền của mình ở một vị trí bí mật, nhưng bây giờ chẳng biết mình có khi nào có thể đào nó lên được nữa hay không.”
“Lúc đầu, ta làm việc rất chăm chỉ, nhưng tháng ngày trôi qua, tinh thần của ta đã cạn mòn. Sau đó, cơn say nắng trói lấy cơ thể mệt mỏi của ta. Ta mất cảm giác ngon miệng và hiếm khi có thể được ăn thịt cừu và rau nữa. Vào buổi đêm, ta lại trở mình trong cơn mất ngủ khôn nguôi.”
“Trong lúc khốn khổ, ta tự hỏi liệu Zabado có phải là người đã có kế hoạch tốt nhất, trốn làm việc và giữ cho tấm lưng mình không bị hỏng. Tuy nhiên, ngay sau đó, ta nhớ lại lần cuối nhìn thấy anh ta và biết kế hoạch của anh ta đã không thành công.”
“Ta lại nghĩ về Cướp Biển với sự giận dữ của anh ta, và tự hỏi liệu chém giết có phải là câu trả lời. Nhưng ta nhớ lại cơ thể rỉ máu của anh trên cột hành hình và biết kế hoạch đó của anh ta cũng vô dụng.”
“Sau đó, ta nhớ lại hình ảnh cuối cùng về Megiddo. Bàn tay anh ta chai sạn vì làm việc chăm chỉ nhưng trái tim anh ta rất nhẹ nhàng. Anh ta đã có kế hoạch tốt nhất.”
“Nhưng ta cũng sẵn sàng chăm chỉ làm việc như Megiddo; anh ta chắc chắn không thể làm việc chăm chỉ hơn ta được. Vậy tại sao công sức lao động của ta không mang lại hạnh phúc và thành công? Là lao động đã mang lại hạnh phúc cho Megiddo, hay chỉ các vị thần mới có thể đem lại hạnh phúc và thành công? Chẳng lẽ ta sẽ phải lao động cật lực cho tới hết cuộc đời và không bao giờ đạt được ước muốn, không thể có được hạnh phúc và thành công? Tất cả những câu hỏi này khuấy đảo tâm trí ta, mà không có câu trả lời. Thật sự ta đã vô cùng bối rối.”
“Vài ngày sau, ta dường như đã hết sức chịu đựng và những câu hỏi của ta thì vẫn chưa được trả lời, Sasi cho gọi ta. Một người đưa tin nói rằng chủ nhân của ta sẽ đưa ta trở lại Babylon. Ta đào túi tiền quý giá lên, bọc vào trong chiếc áo choàng rách nát của mình và lên đường trở về.”
“Khi bọn ta quay về Babylon, những suy nghĩ như một cơn bão cuốn ta đi và cứ chạy mòng mòng trong cái đầu đang lên cơn sốt của ta. Ta dường như đang nhẩm lại những lời cầu nguyện kỳ lạ của thị trấn Harroun quê hương ta:
Đến với ta như một cơn lốc,
Cuốn ta đi như một cơn bão,
Con đường ta chẳng thể nào chạy theo,
Số phận ta chẳng thể nào báo trước.
Có phải ta đang bị trừng phạt vì ta không biết số phận của mình không? Những nỗi khổ và thất vọng mới đang chờ đợi ta phía trước là gì đây chứ?”
“Khi về tới sân trước của chủ nhân ta, cháu không thể hình dung được ta đã ngạc nhiên thế nào khi thấy Arad Gula đang đợi ta ở đó. Ông ấy giúp ta xuống ngựa và ôm lấy ta như một người anh em đã thất lạc từ lâu.”
“Bọn ta lại tiếp tục lên đường, ta đáng ra phải đi theo ông ấy dưới danh phận của một nô lệ, nhưng ông nhất quyết không để ta làm thế. Ông ấy khoác tay lên vai ta nói: ‘Tôi đã lùng sục đi tìm anh khắp nơi. Khi gần như đã hết hy vọng, tôi đã gặp được Swasti. Bà ấy kể về người cho vay tiền, và chính ông ta đã chỉ tôi đến tìm chủ nhân của anh. Ông ta bắt chẹt tôi phải trả một khoản tiền lớn, nhưng con người anh đáng với số tiền ấy, những triết lý và tinh thần làm giàu của anh là nguồn cảm hứng cho thành công mới của tôi.’
‘Triết lý của Megiddo, không phải của tôi’, ta đã ngắt lời.
‘Megiddo và anh. Nhờ cả hai, chúng ta sẽ đến Damascus và tôi cần anh làm đối tác của mình. Nghe này’, ông ấy thốt lên, ‘Anh sẽ là một người tự do kể từ giây phút này!’ Nói rồi, ông rút ra từ bên dưới chiếc áo choàng phiến đất sét mang tên ta. Ông giơ lên cao và ném phiến đất sét tan thành từng mảnh nhỏ xuống dưới sàn. Ông vùi chân giẫm lên những mảnh vỡ cho đến khi chúng chỉ còn là những hạt bụi.”
“Những giọt nước mắt biết ơn tràn ngập trong mắt ta. Ta biết mình là người đàn ông may mắn nhất ở Babylon.”
“Cháu thấy đấy, lao động trở thành bạn thân của ta vào những thời điểm ta khó khăn nhất. Chính tinh thần lao động đã giúp ta thoát khỏi cảnh lao động khổ sai trên công trình xây dựng ở các bức tường Babylon. Chính tinh thần lao động của ta cũng đã gây ấn tượng với ông cháu, khiến ông ấy quyết định chọn ta làm đối tác kinh doanh.”
Hadan Gula hỏi: “Có phải lao động là chìa khóa thành công bí mật của ông nội không?”
“Đó là chìa khóa duy nhất ông ấy biết tới, kể từ khi ta quen ông”, Sharru Nada trả lời. “Ông cháu rất yêu công việc. Các vị thần đánh giá cao những nỗ lực của ông và đã ban thưởng cho ông một cách hào phóng.”
“Cháu bắt đầu hiểu rồi”, Hadan Gula nói trầm tư. “Chính lao động đã thu hút những người bạn ngưỡng mộ sự chăm chỉ và thành công của ông. Chính lao động đã mang lại cho ông những vinh dự mà ông trao ở Damascus. Chính lao động đã mang lại cho ông tất cả những điều mà cháu được hưởng. Vậy mà cháu lại nghĩ lao động chỉ dành cho nô lệ.”
“Cuộc sống rất phong phú với nhiều thú vui để con người tận hưởng”, Sharru Nada bình luận. “Mỗi thú vui đều có vị trí của nó, ta rất vui vì lao động không phải là thú vui chỉ dành riêng cho nô lệ. Nếu đó là thật, có lẽ ta sẽ bị tước đi niềm vui lớn nhất của mình. Ta yêu thích nhiều thứ, nhưng không gì có thể thay thế được công việc.”
Sharru Nada và Hadan Gula cưỡi ngựa trong bóng của những bức tường cao chót vót dẫn đến cánh cổng đồng đồ sộ của thành Babylon. Khi họ gần tới nơi, những người gác cổng giật mình và kính cẩn chào họ như một công dân đáng kính. Sharru Nada ngẩng cao đầu, dẫn đoàn lữ hành dài qua cổng và đi dọc lên các con đường trong thành phố.
“Cháu đã luôn mong ước được trở thành một người đàn ông như ông cháu”, Hadan Gula tâm sự, “Cháu chưa bao giờ biết ông cháu từng là người như thế nào. Nhưng giờ ông đã cho cháu thấy. Bây giờ cháu đã hiểu, và cháu càng ngưỡng mộ ông cháu, và có thêm quyết tâm để được như ông. Cháu sợ rằng mình sẽ không bao giờ trả hết ân nghĩa ông đã chỉ cho cháu chìa khóa thành công. Kể từ hôm nay, cháu sẽ tận dụng chiếc chìa khóa ấy. Cháu sẽ bắt đầu ở một xuất phát khiêm tốn như ông cháu đã từng, vì điều ấy phản ánh chính xác vị trí hiện tại của cháu hơn là những bộ trang sức và áo choàng đẹp.”
Nói rồi, Hadan Gula tháo hết đồ trang sức bằng đá quý và những chiếc nhẫn sang trọng. Anh hí ngựa lùi lại, đi đằng sau Sharru Nada như để thể hiện sự kính trọng người dẫn đầu đoàn lữ hành.