**
“Ngưỡng mộ chính là sự thừa nhận lịch thiệp những nét tương đồng của người khác với bản thân ta.”
– AMBROSE BIERCE
C
ó một thực tế về mối quan hệ hợp tác làm cho bạn khó chịu đến nỗi phản ứng đầu tiên là phủ nhận nó: đó là bạn kết thân nhanh chóng và dễ dàng với những người giống mình nhất. Thiên hướng ấy khiến bạn đặt niềm tin vào những người có vẻ ngoài na ná bạn, có cùng suy nghĩ với bạn, hay có nhiều điểm chung với bạn nhất, ví dụ như những người cùng quê, học cùng một trường, hâm mộ cùng một đội bóng, hoặc đồng quan điểm trong những vấn đề gây tranh cãi như sắc tộc, tuổi tác, tôn giáo hoặc giới tính…
Nhiều người thích nghĩ về bản thân như những cộng sự bình đẳng về quyền lợi, tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy họ không được như thế, ít ra là lúc đầu. Vào những năm 20 và 30, các nhà nghiên cứu bắt đầu chứng minh điều mà thậm chí những người quan sát hờ hững cũng nhận ra được là bọn trẻ kết bạn với những bạn có cùng đặc điểm.
Con người là sinh vật sống theo bầy đàn, dần dần vạch ra ranh giới – đôi khi là những ranh giới mang tính định kiến – giữa bạn và thù. Đây là nguồn gốc của vấn đề, không chỉ vì nó giới hạn lĩnh vực hợp tác, mà còn giới hạn khả năng tạo ra mối ràng buộc mật thiết với những người bổ khuyết cho bạn trong mối quan hệ.
Nhiều cộng sự tiềm năng mà bạn cần lại là những người bạn khó chấp nhận bởi sự khác biệt tính cách. Bạn không cần một anh chị em sinh đôi, mà là một người lạ mà bạn quen, đối lập với bạn, gánh vác nhiệm vụ chung và có cùng quan điểm về cuộc chơi công bằng. Thế nhưng điều này không dễ vượt qua.
Những mối quan hệ hợp tác thành công nhất vượt qua được khoảng cách này. Bên cạnh việc tán đồng các câu phát biểu về sức mạnh bổ sung trong chương một, những cặp đôi thành công hầu hết đều đồng ý với những câu dưới đây trong bảng câu hỏi phỏng vấn của Gallup:
• Chúng tôi tập trung vào những điểm mạnh của nhau, không phải điểm yếu.
• Chúng tôi chấp nhận con người vốn có củanhau và không cố thay đổi lẫn nhau.
• Chúng tôi thông cảm cho nhau khi một trong hai mắc lỗi.
83% những người có mối quan hệ hợp tác tốt đẹp đồng ý với câu thứ hai, trong khi tỉ lệ ở các mối quan hệ yếu là 16%. Những cặp đôi hợp tác hiệu quả nhất thì đồng ý với tất cả ba câu.
Sự khác biệt giữa các cộng sự có thể dễ tạo ra mâu thuẫn. Một người chia sẻ nỗi thất vọng của ông ta khi bàn bạc với một giáo dân trẻ tuổi để cùng chuẩn bị phần âm nhạc cho buổi lễ sáng Chủ nhật. Ông ấy kể: “Cả hai đều cảm thấy người này đang công kích người kia trong lúc chỉ ra những điểm cần thay đổi. Cũng do khoảng cách thế hệ cả thôi. Trong mắt cậu ta, tôi già nua và cổ hủ, còn tôi không thể nào chịu được những ý tưởng cách tân kỳ quái của cậu ta. Hễ tôi nói ra bất cứ điều gì cũng đều bị phản đối với thái độ gây hấn hoặc bỡn cợt. Kể từ lúc ấy, tôi không còn hợp tác với người này, và cả sau này cũng không”.
Cho dù khoảng cách xã hội giữa bạn và cộng sự nhỏ đến đâu thì sự kết hợp giữa cách làm việc của người ấy và của bạn cũng sẽ gặp khó khăn. Bạn có xu hướng tin rằng bạn chẳng có vấn đề gì, còn người kia thì có.
Các nhà tâm lý học gọi đó là chủ nghĩa duy kỷ. Chúng ta có khuynh hướng phớt lờ những thông tin nghịch ý, song lại khắc ghi những gì ủng hộ quan điểm của mình. Chúng ta sẵn sàng tin những thông tin tích cực về người chúng ta yêu mến và thông tin tiêu cực về kẻ chúng ta không ưa.
Chủ nghĩa duy kỷ sẽ giết chết mối quan hệ hợp tác. Nếu bạn mù quáng trước những thất bại của bản thân và tiêu tốn quá nhiều sức lực để tìm kiếm lỗi lầm của người cộng sự thì các bạn sẽ khó mà hợp tác cùng nhau. Mối quan hệ hợp tác đòi hỏi hai bên phải thích ứng những nhược điểm của nhau.
Warren Murphy, tác giả của hàng chục cuốn truyện trinh thám và là nhà biên kịch bộ phim Lethal Weapon 2 (Vũ Khí Tối Thượng 2), có lời khuyên cho các tác giả đang nghĩ về việc lập nhóm bằng ba từ: “Đừng. Đừng. Đừng”.
“Bạn nghĩ đó là chuyện cỏn con ư? Vậy hãy đợi đến khi bạn thấy một ai đó đi lòng vòng, giận run người vì bị xóa đi một dấu phẩy”, - ông cảnh báo. - “Một trong những vấn đề thật sự trong việc hợp tác này là tất cả thời gian bạn lãng phí để cố gắng tránh làm tổn thương người cộng sự, nhưng rốt cuộc bạn sẽ chẳng được lợi gì bởi cộng sự của bạn cho rằng bạn là kẻ chỉ biết nghĩ đến mình”.
Nếu bạn không thể chấp nhận tính cách của cộng sự thì người giáo dân và Murphy đã đúng. Chương trình Giáng sinh sẽ là một cuộc tra tấn và việc lập nhóm đồng tác giả một cuốn sách là chuyện chán phèo. Bạn có thể dễ dàng bào chữa việc bạn “bới lông tìm vết” ở người cộng sự là vì điểm mạnh của người ấy có thể hóa thành điểm yếu. Một cộng sự giàu ý tưởng sẽ yếu về thực tiễn; nắm quyền chỉ huy thì bị coi là kẻ chuyên quyền; và dè dặt trước các mối nguy hiểm có thể bị gán là “nhát như thỏ”.
Lúc thất bại thì bất kỳ ưu điểm nào cũng sẽ bị xem là nhược điểm và ai làm không tốt cũng bị chỉ trích cả. Nếu bạn cứ khăng khăng giữ quan điểm tiêu cực về tính cách của người cộng sự, bạn sẽ phá hủy mối quan hệ hợp tác ấy.
Mong ước lớn nhất trong đời Vivien Thomas là trở thành bác sĩ. Nhưng vào năm 1930, niềm khát khao học đại học của chàng trai da đen 19 tuổi đã tan thành mây khói khi ngân hàng nơi anh gửi toàn bộ số tiền dành dụm được trong bảy năm làm nghề mộc đã phá sản.
Lúc ấy, anh chỉ mới làm việc được vài tháng cho Alfred Blalock, một bác sĩ da trắng 31 tuổi làm việc tại Bệnh viện Đại học Vanderbilt. Blalock điều hành phòng thí nghiệm nghiên cứu tại Vanderbilt và ông thuê Thomas làm trợ tá.
Blalock là người làm việc với cường độ cao và không bao giờ chùn bước. Ngay khi còn bé, ông nhất định không đi ngủ khi chưa làm xong bài tập về nhà. Trước đó, một người bạn cảnh báo Thomas về Blalock và bảo anh sẽ khó làm việc cùng ông ấy. Do cần việc nên Thomas cứ xin vào làm. Qua lần gặp đầu tiên, anh nhận thấy Blalock dễ gần, trầm tĩnh và nghiêm túc. “Tôi muốn một người làm việc trong phòng thí nghiệm, người mà tôi có thể hướng dẫn làm mọi việc tôi có thể làm và cả những việc tôi không thể”, - vị bác sĩ nói với người mới được tuyển.
Thomas học việc rất nhanh. Anh tiến hành các thí nghiệm trên cơ thể những chú chó đã được gây mê, cẩn thận ghi chú những phản ứng sinh lý gây tổn thương hệ thần kinh, với hy vọng những khám phá đó có thể cứu được mạng sống con người. Vào thời điểm ấy, số bệnh nhân chết vì bị sốc khi phẫu thuật nhiều hơn bất kỳ nguyên nhân nào khác.
Trong vài tháng đầu, mọi việc tiến triển tốt đẹp. Thomas viết: “Chúng tôi làm việc với nhau khá ăn ý, nhưng đến một sáng nọ, một việc đã xảy ra. Tôi không nhớ chính xác đó là việc gì, chỉ biết mình đã mắc lỗi nào đó. Bác sĩ Blalock hét lên giận dữ. Những lời lẽ xúc phạm mà ông dùng chắc phải khiến cho chuyên gia tục ngữ ngưỡng mộ”. Rồi Blalock lấy lon coca trong tủ lạnh và lao ra ngoài, bỏ Thomas đứng sững sờ trong phòng thí nghiệm. Anh thay bộ đồ phòng thí nghiệm rồi vào văn phòng của Blalock. Vị bác sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên như chưa có gì xảy ra.
Sau khi Thomas nói lên cảm xúc và suy nghĩ của mình về sự việc, Blalock xin lỗi. Ông bảo ông đã mất bình tĩnh và chuyện đó sẽ không bao giờ lặp lại. Ông đề nghị Thomas quay trở lại làm việc và anh đồng ý. Nhưng nếu Blalock nổi đóa một lần nữa, Thomas sẽ kiên quyết nghỉ việc.
“Bác sĩ Blalock đã giữ lời suốt 34 năm sau, dù tôi phạm nhiều lỗi lầm. Chúng tôi thi thoảng có những bất đồng, thậm chí tranh luận nảy lửa nhưng chúng tôi không ngần ngại cho người kia biết điều mình đang nghĩ, theo cách thẳng thắn giữa đàn ông với đàn ông, dù nó liên quan đến cuộc nghiên cứu, hay đến việc điều hành phòng thí nghiệm. Ngẫm lại, tôi nghĩ xung đột nhỏ này đã hình thành nên giai đoạn mà tôi gọi nó là sự tôn trọng lẫn nhau qua năm tháng”, - Thomas viết.
Do sự chênh lệch về trình độ học vấn, chức vị và sự khác biệt màu da trong thời kỳ xã hội còn nạn phân biệt chủng tộc, nên họ đã không nhận được sự đánh giá ngang nhau. Trong mối quan hệ hợp tác của hai người, rõ ràng Blalock là người chịu trách nhiệm chính còn Thomas là người hỗ trợ. Tuy nhiên, bên trong phòng thí nghiệm, họ đối xử với nhau như những người cộng sự.
Tuy có nhiều khác biệt nhưng giữa Blalock và Thomas vẫn có nét tương đồng quan trọng. Cả hai bù đắp cho nhau những mong đợi không được như ý của bản thân mỗi người. Cả hai đều chăm chỉ cống hiến cho ngành y. Cả hai đều có kỹ năng cao, mặc dù khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Khi vị bác sĩ bận rộn công việc bên ngoài phòng thí nghiệm, Thomas đảm nhận nhiều nhiệm vụ hơn. Chẳng mấy chốc, chàng kỹ thuật viên không chỉ giúp chuẩn bị động vật cho cuộc phẫu thuật mà còn thực hiện toàn bộ quá trình.
Vào năm 1940, Blalock được đề nghị làm bác sĩ chính kiêm trưởng khoa phẫu thuật tại bệnh viện John Hopkins. “Nếu tôi đồng ý, và chắc chắn tôi sẽ nhận, thì tôi muốn cậu đi cùng tôi”, - vị bác sĩ bảo Thomas. Và cả hai chuyển đến Baltimore cùng với gia đình của họ.
Khi Thomas chứng tỏ được năng lực bản thân, Blalock đã tìm cách vận động để tăng lương cho Thomas, hỏi và đánh giá cao ý kiến của anh, cùng viết các bài luận với anh, và chỉ đồng ý về làm việc nếu như kỹ thuật viên của ông cũng được nhận vào làm.
Trong các cuộc phẫu thuật động vật, đôi khi họ hoán đổi vai trò cho nhau: Thomas cầm dao mổ, còn Blalock hỗ trợ. “Hai người kết hợp thật ăn ý với nhau”, - một bác sĩ phẫu thuật tại Hopkins cho biết.
Khi tiến sĩ Helen Taussig tiếp cận Blalock để trao đổi về đề tài nghiên cứu của cô liên quan đến hội chứng khuyết tật tim bẩm sinh ở trẻ em, Blalock đề nghị Thomas tham gia cùng ông và Taussig để thảo luận những khả năng có thể xảy ra. Thomas nghiên cứu những quả tim được bảo quản của những em bé đã chết vì chứng bệnh này, và tiến hành thử nghiệm các giải pháp phẫu thuật khả thi trên cơ thể chó. Sau đó, Thomas hướng dẫn cho Blalock phương thức mới mà anh đã tìm ra.
Tháng 11 năm 1944, một nhóm bác sĩ phẫu thuật được huy động để thực hiện ca phẫu thuật đầu tiên ở một bé gái tên Eileen Saxon đang trong tình trạng nguy cấp vì chứng bệnh trên. Blalock mời Thomas đứng cạnh tư vấn cho ông trong suốt cuộc phẫu thuật. Cả hai cộng tác cùng nhau suốt ca mổ kéo dài một tiếng rưỡi. Cuộc phẫu thuật thành công tốt đẹp.
Blalock và Thomas tiếp tục công việc, cải tiến công cụ và phương thức tiến hành các ca phẫu thuật. Blalock gọi Thomas là “anh chàng kỹ thuật viên tuyệt vời của tôi”. Qua quá trình làm việc với bác sĩ Blalock, Thomas trở thành người hướng dẫn các sinh viên y khoa tại John Hopkins. Anh được học viện trao tặng bằng tiến sĩ danh dự.
Khi đến lúc phải quyết định nên treo bức chân dung Thomas ở đâu, nhà trường tuyên bố: “Chúng tôi sẽ treo bức chân dung của anh cạnh giáo sư Blalock. Chúng tôi nghĩ các anh đã gắn kết với nhau và hãy cứ tiếp tục như thế nhé”.
Mối quan hệ hợp tác nào cũng là sự kết hợp của hai người không hoàn hảo. Trong sự hợp tác đó, bạn không cần phải chấp nhận mọi cách cư xử mà nên điều chỉnh tính cách hoặc thói quen nào đó của người cộng sự nếu nó vượt quá ranh giới cho phép, giống như việc Vivien Thomas không chấp nhận để Alfred Blalock la mắng. Người cộng sự không nên có cảm giác mình đang chịu đựng hay bị lạm dụng, không nên lười biếng, không thành thật, ích kỷ, cũng không nên tranh hết công trạng trong thành tích chung.
Đừng để danh sách “những điểm không thể chấp nhận” về người cộng sự của bạn quá dài, tuy nhiên việc đặt ra quá nhiều tiêu chuẩn có thể khiến bạn khó tìm thấy những người cộng sự tiềm năng. Thay vào đó, có lúc bạn cần nỗ lực thích ứng khi hợp tác cùng nhau, như Thomas học cách sống với tính nóng nảy và hay than phiền của Blalock vậy.
Sự chấp nhận chủ động đi đôi với cấp độ hạnh phúc và khả năng kiểm soát cao. Trong một mối quan hệ hợp tác, cần nhớ là nên tập trung vào điểm mạnh của cộng sự, thay vì điểm yếu, chấp nhận con người thật của họ và thông cảm khi họ phạm lỗi lầm. Trong mối quan hệ cộng tác thành công nhất, người cộng sự sẽ từng bước đánh giá cao điều mà trước đây khiến họ bực mình.
Murphy, nhà văn viết truyện trinh thám từng phản đối việc viết sách với người khác, đã phớt lờ lời khuyên của chính ông để hình thành mối quan hệ hợp tác bền chặt.
Ông và đồng tác giả Richard Ben Sapir đã học được cách làm việc với nhau. Một người viết lại phần của người kia mà không cần hỏi ý kiến. Trong cuộc sống thường nhật, họ tranh cãi ầm ĩ, nhưng trong công việc, họ trao đổi bản thảo và thay phiên nhau làm việc một cách ăn ý. “Chúng tôi đã viết và bán nhiều cuốn sách cùng nhau. Quả thật, nhiều lúc cũng gặp khó khăn, song tôi không có điều gì than phiền trong mối quan hệ hợp tác giữa tôi và Richard Ben Sapir”.
Cuối cùng thì Murphy, với những trải nghiệm của chính mình, đã buộc phải thừa nhận rằng mối quan hệ hợp tác có thể tạo ra thành công. Thậm chí ông còn gọi Sapir là “người cộng sự tuyệt vời nhất mà người ta có thể tìm được”.