Anh ngồi ở phía sau chiếc xe hơi lớn màu đen đậu dọc theo tường một kho hàng của bến cảng. Ăn vận như xưa nay. Trong bộ y phục bằng đũi. Ở tư thế thiếp ngủ.
Họ không nhìn nhau. Trông thấy nhau.
Vẫn đám người đông đúc ấy trên bến khi các tàu thủy đường dài khởi hành.
Một mệnh lệnh được loa phóng thanh ở các tàu kéo hét lên.
Các cánh quạt bắt đầu quay. Chúng nghiền nát, khuấy đảo nước sông.
Tiếng ồn thật kinh khủng.
Ta thấy sợ. Vào khoảnh khắc ấy bao giờ người ta cũng thấy sợ. Sợ hết thảy. Sợ không bao giờ còn thấy lại miền đất cằn cỗi này. Và bầu trời gió mùa này, sợ quên mất nó.
Chắc hẳn anh đã xê dịch trên ghế sau, về bên trái. Để được thêm vài giây và nhìn thấy cô một lần nữa cho quãng đời còn lại của mình.
Cô không nhìn anh. Không gì hết.
Thế rồi này đây điệu nhạc hợp thời thượng, bản Valse Tuyệt vọng ấy của con phố. Bao giờ cũng là những nhạc khúc khởi hành, nhớ nhung và chậm rãi để ru nỗi đau ly biệt.
Lúc bấy giờ, ngay cả những kẻ chỉ có một mình, chẳng tiễn đưa ai, cũng chia sẻ bi kịch lạ lùng là “rời bỏ”, là “bỏ lại” mãi mãi, là đã phản bội số mệnh mà họ phát hiện ra là số mệnh của họ vào khoảnh khắc mất nó, mà họ đã phản bội cũng giống như vậy, riêng mình họ.
Trên boong hạng nhất, đó chính là nơi anh phải hướng mắt nhìn. Nhưng cô không ở đấy, cô ở xa hơn cũng trên boong ấy, cô hướng về Paulo người đã hạnh phúc rồi, đã đi vào cuộc lữ hành rồi. Tự do anh thứ yêu quý của em, người thương mến của em, lần đầu tiên trong đời ra khỏi nỗi kinh hoàng.
Tiếng ầm ào bất động của máy móc lớn dần, trở thành đinh tai nhức óc.
Cô vẫn không nhìn anh. Không gì hết.
Khi cô mở mắt để thấy anh thêm nữa, anh không còn ở đó. Anh không ở đâu hết. Anh đã ra đi.
Cô nhắm mắt lại.
Cô sẽ không thấy anh đi qua.
Trong bóng tối của đôi mắt nhắm, cô thấy lại mùi hương của lụa, của tơ đũi, của làn da, của trà, của nha phiến.
Mường tượng về mùi hương. Mường tượng về gian phòng. Mường tượng về đôi mắt bị giam cầm của anh đang chớp chớp dưới những nụ hôn của cô, cô bé.
Trên bến tàu, lặp lại, vẫn là những tiếng la, những cái tên, bi kịch của cuộc ra đi trên biển.
Hẳn anh đã bỏ đi rất nhanh sau khi con tàu vượt qua đường vạch của bến. Khi cô đang tìm anh thứ trên boong.
Cầu tàu được nhấc bỏ.
Neo kéo lên trong tiếng ầm ầm như ngày tận thế. Con tàu đã sẵn sàng, đã trưởng thành. Nó trôi trên dòng sông.
Ta ngỡ là không thể, là không được.
Thế mà việc đã thành. Con tàu đã rời đất liền.
Mọi người hò reo.
Con tàu trôi trên mặt nước của vũng đậu.
Vẫn còn phải giúp nó, hướng nó tiến thẳng trên con lạch, vào đúng góc của biển và dòng sông.
Rất thong thả, rất đáng yêu, con tàu tuân theo các mệnh lệnh. Nó hướng thẳng theo một phía nào đó, thầm kín và không hiểu nổi, phía biển cả.
Bầu trời với những tiếng rống của còi tàu hãy còn tràn ngập khói đen, có thể ngỡ như để chơi đùa, nhưng không phải.
Thế rồi, cho đến hết cuộc đời cô bé, vào giờ khắc ấy trong ngày, hướng của mặt trời đã đảo ngược.
Cô nhớ lại.
Đằng trước cô, tì khuỷu tay lên bao lơn tàu, có cô gái tóc nâu cũng đang nhìn mặt biển và, giống như cô, đang khóc vì mọi sự, vì không gì hết.
Cô nhớ lại chuyện này mà trước đây cô đã quên.
Từ phía sau con tàu một chàng trai đi tới, mặc tấm áo vét sẫm màu như ở Pháp. Anh đeo trên vai một chiếc máy ảnh. Anh chụp ảnh các boong tàu.
Anh cúi mình ra ngoài bao lơn và chụp cả phần mũi tàu. Rồi anh chỉ chụp biển mà thôi. Rồi không chụp gì nữa. Anh nhìn cô gái cao lớn tóc nâu đã thôi khóc. Cô nằm duỗi mình trên một ghế dài và cô nhìn anh, họ mỉm cười với nhau. Cô gái cao lớn chờ đợi. Cô nhắm mắt lại, cô làm như người đang ngủ. Chàng trai không đến với cô. Anh tiếp tục đi dạo trên boong. Thế là cô gái cao lớn rời ghế dài đứng dậy và lại gần anh, chàng trai. Họ nói chuyện với nhau. Sau đó cả hai ngắm nhìn biển. Thế rồi họ bắt đầu bước đi cùng nhau trên boong dạo chơi của khách hạng nhất.
Cô bé không trông thấy họ nữa.
Cô nằm duỗi mình trên một ghế dài. Có thể ngỡ cô đã thiếp ngủ. Không. Cô đang nhìn.
Trên sàn boong, trên các thành tàu, trên mặt biển, cùng với hành trình của vầng dương trên bầu trời và hành trình của con tàu, hiện lên, hiện lên và tan đi cùng chậm rãi như nhau, một thứ văn tự không sao đọc nổi và não nùng của những bóng tối, những cạnh sắc, những vạch ánh sáng gãy được lặp lại trong các góc, những tam giác của một hình học thoáng qua và sụp đổ theo bóng của những làn sóng biển. Để sau đó, không mệt mỏi, lại vẫn tồn tại.
Cô bé tỉnh giấc cùng lúc tới biển khơi, khi con tàu sắp chuyển sang hướng tây, hướng vịnh Xiêm.
Khi trời quang ta trông thấy con tàu mất đi thật từ từ chiều cao của nó và cũng thật từ từ chìm khuất nơi đường cong của trái đất.
Cô bé đã thiếp ngủ trên ghế dài. Cô chỉ tỉnh giấc trước biển cả khoáng đạt. Cô đã khóc.
Bên cạnh cô có hai hành khách trở lại đang ngắm biển. Và họ, giống như cô, cũng khóc.
Trời vẫn còn rất nóng. Chưa tới được vùng của gió lạnh, của làn gió mặn và hắc của biển khơi. Sẽ tới được đó sau những đợt sóng đầu tiên, sau khi đã đi vòng quanh mỏm đất cuối vùng Châu thổ, đã vượt qua những thửa ruộng cuối cùng của cánh đồng Cói, rồi mũi Cà Mau, đầu mút tận cùng của lục địa châu Á. Của cái từ này, Á châu.
Các boong tàu đã tắt đèn. Trên boong vẫn đầy những người đang thức hay còn ngủ trên các ghế dài. Trừ quầy rượu của khách hạng nhất nơi ban ngày ban đêm và cho đến rất khuya, phần lớn thời gian là cho đến sáng, bao giờ cũng có những người còn thức đang chơi bài và chơi xúc xắc và họ nói lớn tiếng, họ cười, họ cáu giận cũng lớn tiếng như thế, và họ, tất cả, đều uống rượu whisky-soda và rượu Martel Perrier và cả rượu Pernod nữa, dù tính chất chuyến đi của họ như thế nào, vì công việc hay để du ngọan, dù các hành khách này mang quốc tịch gì, chơi trò gì.
Quầy rượu của khách hạng nhất này là chốn làm an tâm trong cuộc du hành. Chốn thượng lưu của niềm lãng quên thơ ngây.
Cô bé đi xem phía quầy rượu, dĩ nhiên cô không vào, cô lên boong bên kia. Ở đó không có ai hết. Hành khách sang mạn trái để rình đợi gió biển khơi thổi tới. Phía bên này tàu chỉ có một chàng trai trẻ măng. Anh đứng một mình. Anh tì khuỷu tay vào bao lơn. Cô đi qua đằng sau anh. Anh không ngoảnh lại phía cô. Chắc hẳn anh không thấy cô. Thật kỳ cục là anh không thấy cô đến mức độ ấy.
Cả cô cũng không thể thấy mặt anh, nhưng cô nhớ lại sự khiếm khuyết không thấy được mặt anh như nhớ về một khiếm khuyết của chuyến du hành.
Phải, đúng thế, anh mặc một loại áo vét nhẹ. Màu lam. Có sọc trắng. Quần anh mặc cũng cùng màu lam ấy, nhưng là hàng trơn.
Cô bé đi đến bên bao lơn. Vì ở mạn này cả hai đơn độc quá trên boong tàu vắng ngắt, cô muốn biết mấy giá họ nói chuyện với nhau. Nhưng không. Cô đã chờ mấy phút. Anh không ngoảnh lại. Anh khao khát ở một mình, hơn mọi thứ trên đời anh khao khát điều đó, ở một mình. Cô bé lại bỏ đi.
Cô bé chẳng bao giờ quên người không quen ấy, chắc hẳn vì lẽ ra cô có thể kể cho anh chuyện mối tình của cô với một người Hoa Chợ Lớn.
Đến cuối boong tàu, khi cô ngoảnh lại, anh không còn ở đó nữa.
Cô xuống các lối đi dọc con tàu. Cô vẫn tìm căn buồng đôi ở đó có giường nằm của bà mẹ và cô.
Thế rồi bỗng nhiên cô thôi tìm kiếm. Cô biết là chẳng ích gì, sẽ vẫn khó tìm ra bà mẹ.
Cô lại lên boong dành để dạo chơi.
Trên boong bên kia cô bé cũng không tìm ra bà mẹ.
Thế rồi cô trông thấy bà, lần này bà ở xa hơn, bà vẫn đang ngủ, trong một chiếc ghế dài khác, hơi xoay về phía trước. Cô bé không đánh thức mẹ. Cô lại quay xuống các lối đi. Cô đợi thêm nữa. Rồi cô lại đi nữa. Cô tìm anh thứ Paulo. Thế rồi cô thôi tìm anh. Thế rồi cô lại bước về phía các lối đi. Và cô nằm xuống đó, trước căn buồng đôi mà bà mẹ đã quên đưa cho cô chiếc chìa khóa thứ hai và cô nhớ lại. Và cô khóc.
Ngủ thiếp đi.
Loa phóng thanh thông báo rằng mặt đất đã khuất dạng. Rằng đã ra tới biển khơi. Cô bé do dự rồi cô lên lại boong tàu. Một cơn sóng lừng rất nhẹ đến cùng làn gió biển.
Trên tàu đêm đã xuống. Khắp nơi đều sáng đèn, các boong, các phòng khách, các lối đi. Nhưng biển thì không, biển chìm trong đêm. Bầu trời xanh trong đêm tối, nhưng sắc xanh của bầu trời không phản chiếu nơi biển dù cho biển lặng đến thế và tối đến thế.
Hành khách lại tì khuỷu tay lên bao lơn. Họ nhìn về phía những gì không thấy nữa. Họ không muốn bị lỡ khi những đợt sóng đầu tiên của biển khơi ào tới và cùng với sóng là khí mát của làn gió ập thẳng xuống biển.
Cô bé vẫn đang tìm mẹ. Lần này cô thấy lại bà vẫn còn thiêm thiếp trong giấc ngủ của kẻ di cư đi tìm miền đất nương thân. Cô để cho bà ngủ.
Cuối cùng đêm đã tới. Chỉ trong vài phút là đêm đã ở đó.
Loa phóng thanh thông báo mười phút nữa phòng ăn bắt đầu phục vụ.
Trời xanh biết mấy, gió mát biết mấy, mọi người do dự một lát rồi cuối cùng miễn cưỡng đi về phía phòng ăn.
Bà mẹ ở đó, ngồi bên một bàn ăn. Đến sớm, như xưa nay. Bà đợi các con. Hẳn bà đã về phòng, bà vừa từ đó trở lại. Bà đã thay y phục. Bà mặc bộ áo váy do chị Đô may, bằng lụa đỏ sẫm xếp nếp nhỏ, những cái nếp quá rộng khiến áo hơi thõng xuống ở mọi phía. Bà đã chải tóc, bà đã thoa chút phấn lên mặt và tô chút son lên môi. Để khỏi bị nhìn thấy, bà mẹ đã chọn một bàn trong góc có ba chỗ ngồi.
Xưa nay bà mẹ luôn bị tác động bởi những chuyến du hành trên tàu thủy đường dài. Bà bảo chính tại đó bà hiểu ra rằng chưa bao giờ bà bù đắp lại được nền giáo dục khiếm khuyết nơi cô gái nông thôn miền Bắc là bà xưa kia trước khi lang thang trên biển để xem ở chốn khác cuộc đời là như thế nào.
Cô bé không bao giờ quên buổi tối đầu tiên ấy trên tàu.
Bà mẹ bắt đầu phàn nàn thật khẽ và bà bảo rằng nếu Paulo không đến để ăn tối thì anh sẽ làm lộn xộn toàn bộ việc phục vụ. Rồi bà mẹ yêu cầu bồi bàn đừng mang thức ăn cho họ ngay. Người bồi bảo đến chín giờ là ngừng phục vụ nhưng anh ta sẽ đợi thêm một chút. Bà mẹ cảm ơn anh ta như thể anh ta đã cứu mạng bà.
Hai mẹ con đợi hơn mười lăm phút nữa, lặng lẽ.
Phòng ăn đã đầy người. Và dù vậy, một lần, đằng sau bà mẹ một cánh cửa mở ra, và đó là Paulo, cậu anh thứ. Cậu đến cùng cô gái cao lớn từng đi với anh chàng chụp ảnh trên boong khi tàu khởi hành. Paulo trông thấy em gái mà không nhìn cô. Bà mẹ làm như đang quan tâm đến tất cả những người trong phòng ăn và chỉ quan tâm đến họ mà thôi.
Paulo đưa ánh mắt khẩn khoản nhìn em. Cô hiểu là mình không nên nhận ra anh. Cô gái cũng nhìn cô, nhận ra thiếu nữ trẻ măng hết sức đơn độc đã khóc trên boong, cô mỉm cười với cô bé. Bà mẹ vẫn nhìn về phía phòng ăn đầy người. Bà vẫn như thường lệ, chẳng hiểu rõ lắm, ngơ ngác, tức cười, bao giờ cũng vậy.
Cô bé nhìn bà mẹ trong lúc Paulo đi qua và cô mỉm cười với anh.
Hai mẹ con nín lặng trong lúc bữa ăn của họ được dọn lên.
Chính vào khoảnh khắc đó của buổi tối, với tính đột nhiên của tai họa, điều kinh sợ xuất hiện. Có người rú lên. Không một lời nào, mà là những tiếng rú kinh sợ, những tiếng nức nở, những tiếng gào vỡ ra trong tiếng khóc. Tai họa lớn đến nỗi không ai có thể phát ngôn nó, nói ra nó.
Điều đó lớn dần. Người ta gào lên ở khắp mọi nơi. Điều đó đến từ các boong, từ buồng máy, cũng như từ biển, từ đêm tối, từ toàn bộ con tàu, từ khắp mọi nơi. Thoạt đầu riêng rẽ, những tiếng gào tập hợp lại, trở thành một tiếng thét duy nhất, dữ tợn, chói tai, gây hãi hùng.
Có những người chạy, đòi được biết. Thế rồi người ta khóc.
Thế rồi tàu giảm tốc độ. Lấy hết sức lực con tàu giảm tốc độ thêm nữa.
Người ta gào lên là hãy im đi.
Thinh lặng lan ra khắp con tàu. Rồi thinh lặng. Chính trong thinh lặng này người ta nghe được những lời lẽ đầu tiên, lại những tiếng gào, gần như khẽ, trầm đục. Vì kinh hoàng. Vì ghê sợ.
Không ai dám hỏi điều gì đã xảy ra.
Người ta nghe thấy rõ ràng, trong thinh lặng, “Tàu đã dừng… nghe này… không thấy tiếng máy chạy nữa…”.
Thế rồi lại thinh lặng. Thuyền trưởng đến. Ông nói vào loa phóng thanh. Ông bảo, “Một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra tại quầy rượu… Một thanh niên đã lao mình xuống biển”.
Một cặp bước vào phòng ăn. Nam mặc đồ trắng, nữ mặc váy áo đen buổi tối. Người phụ nữ khóc. Cô bảo tất cả mọi người, “Có ai đó đã lao mình xuống biển… Cậu ta đã chạy qua trước quầy rượu và lao xuống từ bao lơn… Cậu ta mười bảy tuổi”.
Họ lại lên boong. Phòng ăn vắng dần. Tất cả hành khách đều ở trên boong. Tiếng gào nhường chỗ cho những tiếng khóc rất khẽ. Nỗi kinh sợ đã ngập tràn hết thảy, sâu xa hơn, khủng khiếp hơn những tiếng gào.
Bà mẹ và cô bé khóc, họ thôi không ăn nữa.
Tất cả ra khỏi phòng ăn. Mọi người đi vơ vẩn không chủ định. Phụ nữ khóc.
Cả một số thanh niên nữa. Tất cả trẻ nhỏ đều được đưa lên từ các phòng. Những người đàn bà giữ chúng bên mình, sát vào thân thể mình.
Trong phòng ăn chỉ còn lại vài người, bao giờ cũng là những người ấy, ở khắp nơi trên toàn thế giới: Đó là những người dù sao vẫn thấy đói, họ muốn ăn, họ gọi bồi bàn một cách thô tục, họ bảo rằng họ có quyền ăn tối, quyền được phục vụ, rằng họ đã trả tiền. Đó là những người mà ngày nay chẳng ai đáp lại nữa.
Các bồi bàn đã rời phòng ăn.
Xa xa, một giọng đàn ông bảo rằng người ta đang thả xuồng cứu hộ, rằng hãy đứng dịch ra xa các bao lơn.
Mọi người vẫn cứ muốn xem1.
1 Các giọng nói hòa lẫn nhau như trong những phòng khách trống vắng ở India Song. (India Song: Khúc hát Ấn Độ, văn bản-kịch-phim của M. Duras, NXB Gallimard, 1973. ND).
“Mười bảy tuổi… con ông đốc lý Biên Hòa… Có một bà bạn của gia đình ở hạng hai đã nói chuyện với thuyền trưởng: Chẳng tìm thấy gì trong phòng của cậu bé… Chẳng có bức thư nào cho bố mẹ, chẳng có gì hết… Cậu ấy trở về Pháp. Học hành xuất sắc. Một cậu bé dễ thương…”
Thinh lặng. Rồi lại bắt đầu xôn xao, “Họ sẽ không tìm thấy cậu ấy nữa…”.
“Giờ đây cậu ấy ở quá xa rồi…”
“Một con tàu phải mất nhiều cây số mới dừng lại được…”
Cô bé che lấy mặt, cô nói thật khẽ với mẹ, “May là trước đó Paulo đã đến. Nếu không ta sẽ sợ… ghê gớm biết mấy…”.
Bà mẹ cũng che lấy mặt, bà nói thật khẽ, bà làm dấu thánh giá, “Phải tạ ơn Chúa và xin lỗi vì một ý nghĩ như vậy”.
Lại những tiếng nói hòa lẫn nhau, “… Ta sẽ đi tiếp vào lúc rạng đông… kinh khủng nhất là điều đó… cái lúc ấy… từ bỏ hy vọng…”.
“… Các con tàu phải đợi mười hai giờ đồng hồ trước khi đi tiếp, hoặc là khi mặt trời mọc… Tôi không biết nữa…”
“… Mặt biển trống không… buổi sáng… sao mà kinh khủng thế…”
“… Thật tệ hại… một đứa trẻ cự tuyệt không chịu sống. Chẳng có điều gì tệ hơn.”
“Chẳng điều gì hết, đúng thế.”
Bao trùm lên con tàu ngừng chạy là một sự thinh lặng gần như hoàn toàn.
Mọi người hãy còn hy vọng ở các xuồng cứu hộ. Họ dõi mắt theo những luồng đèn chiếu đang rà quét mặt biển.
Hy vọng vẫn còn đó, chưa nản chí hẳn, chỉ là thì thầm, nhưng cái từ đã được phát biểu ra, “… Vẫn cần phải hy vọng. Cần phải thế. Tại những vùng này nước biển ấm… Còn cậu ấy, cậu ấy có thể bơi được lâu… cậu ấy còn trẻ đến thế…”.
“Các vị cho là… biển sẽ vẫn ấm suốt đêm…” “… Phải. Và gió không mạnh, điều này đáng kể đấy…”
“… Và Chúa ở đó… chớ nên quên…”
“Đúng thế…”
Lại những tiếng khóc. Chúng ngừng lại.
“Điều tệ nhất có lẽ là cậu ấy trông thấy chúng ta thế mà cậu ấy chẳng thiết gì nữa hết.”
“Chẳng thiết sống. Chẳng thiết chết…” “Phải, chính thế.”
“Mong sao cậu ấy còn đợi để biết xem điều gì có thể khiến cậu ấy quay trở lại phía có hình thù con tàu.”
Thình lình, cũng với tính đột nhiên như vụ tai nạn, nhạc tràn ngập các boong tàu, các phòng khách, mặt biển. Điều ấy đến từ phòng nhạc. Mọi người bảo, “Có ai đó không biết chuyện”.
Có ai đó bảo đã nghe thấy tiếng dương cầm này trước vụ tai nạn nhưng xa lắm, như từ một con tàu khác.
Một giọng nói la lên rằng có ai đó không biết… ai đó đã không nghe thấy những tiếng kêu. Rằng phải báo cho người ấy biết…
Nhạc ở khắp nơi, nhạc tràn ngập các căn buồng, các máy móc, các phòng khách. Cường độ lớn.
“Phải đi báo cho người ấy biết.:
Một giọng trong hơn, trẻ trung, bảo đừng, “Tại sao lại báo chứ?”.
Một giọng khác. Giọng này, thì khóc, “Ngược lại, yêu cầu ngược lại người ấy cốt nhất đừng có ngừng chơi… cốt nhất là đừng… đây là cho một cậu bé… cần phải bảo người ấy thế… nhất là điệu nhạc này… mà cậu ấy hẳn phải nhận ra… mà đâu đâu ta cũng nghe thấy…”
Cái điệu nhạc của phố phường, được thanh niên ưa chuộng đúng vào thời điểm này, điệu nhạc nói lên hạnh phúc điên rồ của mối tình đầu và nỗi khổ vô chừng vô độ, không thể nguôi khuây vì đã mất đi tình yêu ấy.
Tin truyền đi là để cho điệu nhạc vẳng đến từ phòng khách cứ tiếp tục.
Toàn bộ người trên tàu lắng nghe và khóc cho chàng trai không quen.
Cô bé rời bà mẹ. Cô tìm phòng chơi nhạc. Cả con tàu tắt đèn.
Phòng nhạc ở hẳn phía trước tàu. Phòng được rọi sáng do ánh phản quang của các luồng đèn chiếu trên mặt biển. Cửa mở. Cô bé đột nhiên như có một hy vọng trong lòng. Có khi người ta nhầm. Có khi đúng là không bao giờ người ta biết được, không bao giờ người ta có thể biết hẳn được, không bao giờ, ai cũng bảo vậy.
Cô bước về phía cửa. Cô nhìn.
Người này có mái tóc đen. Anh ta mặc bộ đồ bằng hàng thủ công màu trắng. Chắc hẳn anh ta lớn tuổi hơn.
Cô đợi thêm nữa. Nhìn thêm nữa. Không phải.
Không phải cái đó. Sẽ không bao giờ là cái đó nữa, cái người muốn chết trong vòng mấy giây đi trước động tác hướng tới bao lơn của người ấy.
Thế là hết.
Cô bé nằm dài xuống đất bên dưới một chiếc bàn sát tường. Người dạo dương cầm đã không nghe thấy cô, cũng không nhìn thấy. Anh chơi thuộc lòng, không có bản nhạc, trong phòng khách tắt đèn, điệu Valse phổ cập và tuyệt vọng ấy của đường phố.
Ánh sáng rọi vào phòng khách vẫn là ánh sáng, được phản quang, của các luồng đèn chiếu.
Nhạc tràn ngập con tàu ngừng chạy, biển cả, đứa trẻ, cả đứa trẻ sống đang dạo dương cầm cũng như đứa mắt nhắm, bất động, lơ lửng trong làn nước nặng nề ở những miền thẳm sâu của biển.