Đó là phòng ngủ của bà mẹ và cô bé.
Một phòng ngủ kiểu thuộc địa. Ít được chiếu sáng. Không có bàn đầu giường. Trên trần chỉ có một bóng điện duy nhất. Đồ đạc, là một giường đôi lớn bằng sắt, rất cao, và một tủ gương. Giường kiểu thuộc địa, đánh vecni đen, có những khối đồng tròn trang trí ở bốn góc đình màn cũng màu đen. Cứ như thể một cái lồng. Giường bị quây kín đến tận nền nhà trong một chiếc màn rộng mênh mông, trắng như tuyết. Không có gối đầu mà là những gối ngang dài cứng, nhồi sợi lông. Không có tấm trải giường bên trên. Chân giường ngâm trong những chiếc chậu đựng nước và thủy tinh vụn để cách ly khỏi tai ương miền thuộc địa, muỗi của đêm nhiệt đới.
Bà mẹ đang nằm. Bà không ngủ.
Bà đợi con gái.
Cô trở lại.
Cô đây rồi. Cô từ bên ngoài vào. Cô đi ngang qua gian phòng. Có lẽ ta nhận ra hình bóng cô, tấm áo của cô. Phải, đó là cô gái đã đi về phía dòng sông trên con đường thẳng dọc theo khuôn viên.
Cô đi về phía phòng tắm. Ta nghe thấy tiếng nước chảy.
Chính lúc đó ta nhìn thấy cô. Phải. Rõ ràng, hãy còn là một cô bé. Còn gầy gò, hầu như chưa có ngực. Tóc dài, hung nâu, quăn thành búp, cô đi đôi guốc bản xứ bằng gỗ nhẹ có quai da. Cô có cặp mắt màu lục nhạt với những đường vân nâu. Cặp mắt, mọi người bảo, của người cha quá cố. Phải, chính là cô, cô bé trên con đường thẳng, người đã khóc vì bản valse. Đó cũng là người biết rằng thiếu phụ dạo bản valse ấy chính là thiếu phụ mặc áo đỏ đã đi qua con đường nhỏ màu trắng. Và hơn nữa cũng là người biết rằng cô, cô bé, cô là kẻ duy nhất trong toàn khu vực nhiệm sở biết những điều này. Trong toàn khu vực và xa hơn nữa. Cô bé như thế đó. Cô mặc áo ngủ bằng vải bông trắng giống như áo của mẹ cô, có dây đeo ghép ngoài, do chị Đô may.
Cô tách hai vạt màn ra, giắt nhanh màn xuống dưới nệm, chui cũng nhanh vào khe hở, khép màn lại. Bà mẹ không ngủ. Bà ngồi dậy bên cạnh cô và tết tóc cho cô ngủ ban đêm. Bà làm điều đó một cách máy móc, không nhìn.
Xa xa, hơi văng vẳng tiếng xôn xao của ngôi làng bên sông, tiếng xôn xao chỉ tắt khi trời sáng.
Cô bé hỏi, “Mẹ có thấy anh Paulo không?”. “Nó đã về, nó ăn trong bếp với Thanh. Sau đó nó lại đi.”
Cô bé bảo cô đã đến nơi liên hoan để xem anh có ở đấy không, nhưng buổi liên hoan đã kết thúc, chẳng còn ai nữa.
Cô cũng bảo rằng cô sẽ đi tìm anh sau, rằng cô biết anh ắt phải ẩn náu ở chỗ nào đó. Rằng cô yên tâm khi anh ở bên ngoài, xa ngôi nhà. Rằng thì cô biết là anh luôn chờ cô khi anh bỏ trốn, để khỏi phải về nhà một mình - có khi Pierre lại đợi anh ở đấy để đánh anh nữa cũng nên. Bà mẹ bảo chính khi anh ở ngoài bà mới sợ, sợ rắn, sợ những người điên… và cũng sợ anh ra đi… như thế… sợ bỗng nhiên anh không nhận ra điều gì nữa hết, và anh bỏ đi. Bà bảo là chuyện này có thể xảy ra với những đứa trẻ như vậy.
Còn cô bé, thì chính Pierre mới khiến cô sợ. Sợ anh ta giết Paulo. Cô bảo sợ anh ta giết Paulo mà thậm chí có thể chẳng biết rằng mình giết người.
Cô cũng bảo, “Điều mẹ vừa nói không đúng.
Mẹ không sợ cho Paulo. Mẹ chỉ sợ cho Pierre thôi”.
Bà mẹ không chấn chỉnh điều con gái nói. Bà nhìn cô hồi lâu, đột nhiên trìu mến, vượt ra khỏi những lời lẽ vừa trao đổi. Trong khi đó, bà chuyển sang chuyện khác, “Sau này khi con viết sách con sẽ viết về cái gì?”.
Cô bé gào lên, “Về Paulo. Về mẹ. Cả về Pierre nữa, nhưng viết là để làm anh ấy chết đi”.
Cô quay phắt người về phía mẹ, cô nép mình vào bà mà khóc. Thế rồi cô lại gào lên thật khẽ, “Nhưng tại sao mẹ lại yêu anh ấy như thế mà chẳng yêu chúng con, chẳng bao giờ…”.
Bà mẹ nói dối, “Mẹ yêu ba đứa con của mẹ như nhau”.
Cô bé vẫn gào lên. Gào đến làm cho bà mẹ phải im tiếng. Đến như tát vào mặt bà.
“Không đúng đâu, không đúng. Mẹ nói dối… Mẹ hãy trả lời một lần thôi… Tại sao mẹ yêu anh ấy như thế chứ không yêu chúng con?”
Thinh lặng. Và bà mẹ trả lời trong một hơi thở, “Mẹ không biết tại sao”.
Hồi lâu. Bà nói thêm, “Mẹ chưa bao giờ biết…”.
Cô bé nằm lên người bà mẹ và vừa ôm hôn bà vừa khóc. Dùng bàn tay bịt miệng mẹ lại để bà đừng nói về tình yêu ấy nữa.
Bà mẹ để mặc cho mình bị sỉ nhục, bị ngược đãi. Bà vẫn đang ở cái miền khác ấy của cuộc sống, miền của niềm thiên ái mù quáng. Cô lập. Lạc loài. Thoát khỏi mọi giận dữ.
Cô bé năn nỉ: nhưng sẽ chẳng ăn thua gì.
“Nếu anh ấy không đi khỏi nhà, một ngày nào đó, anh ấy sẽ giết Paulo. Và mẹ biết như vậy. Đó là điều khủng khiếp nhất…”
Nghẹn lời, rất khẽ, bà mẹ bảo rằng bà biết như vậy. Vả lại tối qua, bà đã viết thư lên Sài Gòn để xin cho con trai mình hồi hương về Pháp.
Cô bé nhỏm người dậy. Cô thốt lên một tiếng kêu trầm đục, tiếng kêu giải thoát và đau đớn.
“Thật chứ mẹ?” “Ừ.”
“Mẹ chắc chứ?”
Bà mẹ kể, “Lần này thì thật. Ngày hôm kia, nó lại ăn cắp ở tiệm thuốc phiện. Mẹ lại trả tiền một lần cuối cùng. Thế rồi mẹ đã viết thư cho Sở Hồi hương. Và lần này, mẹ đã gửi thư đi ngay đêm đó”.
Cô bé ôm siết lấy mẹ. Bà mẹ không khóc: như người đã chết.
Cô bé khóc thật khẽ, “Khủng khiếp biết mấy khi phải đến nông nỗi này… khủng khiếp biết mấy”.
Bà mẹ bảo ừ, hẳn thế, nhưng là bà, thì bà chẳng biết nữa… Ừ, quả thật điều đó ắt phải khủng khiếp, nhưng bà chẳng còn biết gì về chuyện ấy nữa. Bà mẹ và cô bé, cả hai ôm siết lấy nhau. Bà mẹ, vẫn không hề rơi nước mắt. Như đã chết vì phải sống.
Cô bé hỏi rằng anh ấy, liệu anh ấy có biết là mình sắp ra đi hay không.
Bà mẹ bảo không. Bảo khó nhất là chuyện ấy đấy, là phải báo cho nó biết rằng thế là hết.
Bà mẹ vuốt ve mái tóc của con gái. Bà nói, “Con không nên lo buồn vì nó. Nói ra thì thật khủng khiếp đối với một người mẹ, nhưng dù sao mẹ vẫn nói điều ấy với con: Nó chẳng đáng đâu. Con cần phải biết điều đó: Pierre là một kẻ không đáng để ta đau khổ vì nó”.
Thinh lặng nơi cô bé. Bà mẹ lại nói, “Điều mẹ muốn nói, đó là Pierre không đáng để người ta cứu vớt nó nữa. Bởi vì Pierre thế là hết rồi, quá muộn rồi, đó là một kẻ hỏng mất rồi”.
Cô bé gào lên giữa những tiếng nức nở, “Chính vì thế mà mẹ yêu anh ấy”.
“Mẹ không biết rõ lắm… Hẳn vậy. Phải, cũng vì thế nữa… Còn con, cũng vì thế mà con khóc. Như nhau thôi.”
Bà mẹ ôm cô bé trong vòng tay. Và bà bảo cô, “Nhưng mẹ cũng yêu các con nhiều lắm, Paulo và con…”.
Cô bé nhích ra xa bà mẹ và nhìn bà. Cô thấy rằng bà mẹ vừa nói một cách ngay thật. Cô bé từng muốn hét lên, sỉ nhục bà, giết chết bà. Cô đã chỉ mỉm cười với bà.
Bà mẹ lại nói tiếp với “con bé” này, đứa con út của mình, bà bảo cô rằng bà đã nói dối về những lý do để cho Pierre hồi hương, để lìa khỏi anh ta. Rằng không chỉ vì thuốc phiện.
Bà mẹ kể1, “Cách đây một tháng hoặc hai tháng, mẹ chẳng biết nữa, mẹ đang ở trong phòng của Đô, các con đến ăn bữa tối, Paulo và con. Mẹ đã không ra mặt. Thỉnh thoảng mẹ làm vậy - là các con thì các con không biết đâu - để có thể nhìn thấy cả ba đứa cùng nhau, mẹ nấp ở phòng của Đô. Như thường lệ, Thanh đến, nó đặt thịt kho và cơm lên bàn. Rồi nó ra ngoài”.
1 Trong trường hợp điện ảnh ta có thể chọn. Hoặc ta dừng ở gương mặt bà mẹ, người đang kể mà không thấy. Hoặc ta nhìn thấy chiếc bàn và những người con được kể lại bởi bà mẹ. Tác giả thích đề nghị sau hơn.
“Thế là Paulo lấy thức ăn. Pierre đến sau. Paulo đã lấy miếng to nhất trong đĩa thịt kho và con đã để mặc nó. Chỉ khi Pierre đến, con mới thấy sợ. Pierre không ngồi xuống ngay. Nó nhìn cái đĩa không của nó rồi nó nhìn đĩa của Paulo. Nó cười. Cái cười của nó bất động, đáng sợ. Mẹ tự nhủ khi nào nó chết nó sẽ có nụ cười ấy. Mới đầu Paulo cười, nó bảo, “Đùa ấy mà”.
“Pierre lấy lại miếng thịt trong đĩa của Paulo và để vào đĩa của nó. Và nó đã ăn miếng thịt ấy - cứ như thể một con chó. Rồi nó tru lên: một con chó, phải đúng thế đấy.”
“ Đồ ngu. Mày biết rõ những miếng to là của tao mà.”
“Chính con đã gào lên. Con hỏi, ‘Tại sao lại của anh?’.”
“Và nó đã bảo, ‘Tại vì như vậy đấy’.”
“Và con đã gào lên rất to. Mẹ sợ mọi người ngoài đường nghe thấy con. Con đã gào lên, ‘Em những muốn anh chết đi’.”
“Pierre nắm tay lại sẵn sàng nghiền nát mặt Paulo. Paulo bật khóc. Pierre thét lên, ‘Ra ngoài! Ra ngoài ngay tức khắc!’.”
“Các con đã bỏ chạy, con và Paulo.”
Cô bé xin lỗi mẹ vì đã gào lên với bà. Nằm duỗi thẳng người trên giường, họ cùng khóc với nhau.
Bà mẹ bảo, “Chính lúc đó mẹ bắt đầu hiểu ra rằng mẹ cần cảnh giác với chính mình. Rằng Paulo có cơ nguy đến tính mạng, vì mẹ. Và chỉ hôm qua mẹ mới viết thư lên Sài Gòn để cho nó hồi hương. Pierre… như thể đối với mẹ nó còn nguy hiểm chết người hơn một kẻ khác…”.
Thinh lặng. Bà mẹ quay về phía con gái - lần này bà khóc.
“Nếu không có con ở đấy, có lẽ Paulo đã chết từ lâu rồi. Và mẹ biết như thế. Đó là điều khủng khiếp nhất: Mẹ biết như thế.”
Thinh lặng kéo dài.
Một nỗi điên giận choán lấy cô bé. Cô gào lên, “Mẹ không biết đâu, con yêu Paulo hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Hơn mẹ. Hơn hết thảy. Paulo, anh ấy sống trong niềm sợ hãi đối với mẹ và đối với Pierre từ lâu rồi. Paulo giống như vị hôn phu của con, đứa con của con, đó là báu vật lớn lao nhất với con…”.
“Mẹ biết như thế.”
Cô bé gào lên, “Không. Mẹ không biết. Không biết gì hết”.
Cô bé bình tĩnh lại. Cô ôm lấy mẹ trong vòng tay. Cô nói với mẹ một cách đột nhiên dịu dàng, cô giảng giải cho mẹ, “Mẹ không còn biết gì hết. Điều đó, mẹ cần phải biết. Không gì hết. Mẹ tưởng là mẹ biết song mẹ không biết gì hết. Mẹ chỉ biết về anh ấy, về Pierre thôi. Về Paulo và con thì mẹ không còn biết gì hết. Chẳng phải lỗi ở mẹ. Chuyện nó như thế đấy. Nó chẳng là gì hết. Không gì hết. Mẹ chẳng nên tự làm khổ mình vì điều ấy”.
Thinh lặng.
Gương mặt bà mẹ đăm đăm bất động, hoảng sợ.
Gương mặt cô bé cũng kinh hoàng như vậy. Cả hai cứng đờ người mặt đối mặt. Rồi đột nhiên họ cụp mắt nhìn xuống vì hổ thẹn.
Chính bà mẹ hạ mắt nhìn xuống. Và nín lặng. Cứ như thể bị giết chết. Thế rồi bà nhớ đến đứa con đang ở bên ngoài và bà kêu lên, “Con hãy đi tìm Paulo… đi nhanh lên… bỗng nhiên mẹ thấy sợ cho nó”.
Bà mẹ nói thêm, “Thế là ngày mai con trở lại trường trung học, con cần tập lấy thói quen ngủ sớm hơn, con đã giống mẹ rồi, loại người sống về đêm”.
“Cũng như nhau thôi…”
“Không.”
Cô bé đang ở lối vào nhà, về phía phòng ăn trông ra khoảnh sân lớn của trường học. Tất cả đều mở thông thống.
Cô đứng xoay lưng lại, đối diện với sân hiên và đường phố.
Cô đang tìm anh thứ. Cô nhìn. Tiến lên giữa cây cối. Nhìn dưới các lùm cây.
Đột nhiên cô như tan hòa trong ánh trăng, rồi xuất hiện trở lại.
Ta nhìn thấy cô ở những địa điểm khác nhau trong sân. Cô đi chân trần, lặng lẽ, mặc tấm áo ngủ trẻ thơ.
Cô khuất dạng trong một phòng học trống vắng. Lại xuất hiện trong khoảnh sân lớn rực sáng ánh trăng.
Thế rồi ta trông thấy cô đối diện với cái gì đó mà cô đang nhìn, song ta còn chưa nhìn thấy: Paulo. Ta thấy cô tiến về phía cậu: người anh thứ trong buổi khiêu vũ. Cậu đang ngủ trong hành lang chạy dọc theo các lớp học, đằng sau một bức tường nhỏ, khuất ánh trăng. Cô dừng lại. Cô nằm xuống bên cậu. Cô nhìn cậu như thể cậu rất thiêng liêng.
Cậu ngủ say. Mắt hé mở giống như những đứa trẻ “ấy”. Cậu có gương mặt nhẵn mịn, vẹn nguyên của những đứa trẻ “khác biệt” ấy.
Cô hôn lên mái tóc, gương mặt, những bàn tay đặt trên ngực, cô gọi, cô gọi cậu thật khẽ: Paulo.
Cậu ngủ.
Cô đứng dậy và cô gọi cậu còn khẽ hơn nữa: Paulo. Anh yêu quý của em. Đứa con bé bỏng của em.
Cậu tỉnh giấc. Cậu nhìn cô. Thế rồi cậu nhận ra cô.
Cô bảo, “Lại đây đi ngủ nào”. Cậu đứng dậy. Cậu đi theo cô. Những con chim đêm kêu rúc.
Người anh thứ dừng bước. Cậu lắng nghe lũ chim. Cậu đi tiếp. Cô bảo cậu, “Anh không nên sợ nữa. Không sợ ai hết. Không sợ Pierre. Không sợ gì hết. Không gì hết. Không bao giờ nữa. Anh nghe thấy chứ: không bao giờ nữa. Không bao giờ cả. Anh thề như vậy đi”.
Người anh thứ thề. Và rồi cậu quên mất. Cậu bảo, “Trăng đánh thức lũ chim”.
Họ đi ra xa. Sân trường lại trống vắng. Ta mất hút họ. Họ lại xuất hiện. Họ tiếp tục đi trên những khoảnh sân của trường học. Họ không nói.
Thế rồi cô bé dừng bước và chỉ lên trời. Cô bảo, “Paulo, anh hãy nhìn bầu trời”.
Paulo dừng bước và nhìn lên trời. Cậu lặp lại các từ: bầu trời… chim…
Bầu trời, ta nhìn thấy nó từ bờ bên này đến bờ bên kia trái đất, nó là một tấm sơn mài xanh lam lỗ chỗ những ánh sáng chói lọi.
Ta thấy hai đứa trẻ đang cùng nhau ngắm nhìn cũng bầu trời ấy. Thế rồi ta thấy mỗi đứa riêng rẽ nhìn ngắm bầu trời.
Thế rồi ta thấy Thanh từ ngoài phố vào và đi về phía hai đứa trẻ.
Rồi ta lại thấy bầu trời xanh lam chi chít những ánh sáng chói lọi.
Rồi ta nghe điệu Valse không lời gọi là bản tuyệt vọng do Thanh huýt sáo trên một nền cố định mang sắc thiên thanh.
Thỉnh thoảng khi chúng còn rất nhỏ, bà mẹ dẫn chúng đi ngắm đêm mùa khô. Bà bảo chúng hãy nhìn kỹ bầu trời ấy, xanh lam như giữa ban ngày, sự chiếu sáng ấy nơi trái đất đến mãi ngút tầm nhìn. Hãy lắng nghe cho kỹ cả những âm thanh của đêm, tiếng người gọi nhau, tiếng họ cười, họ hát, cả tiếng chó than van, bị ám ảnh bởi cái chết, tất cả những tiếng gọi này nói lên đồng thời cả địa ngục của cô đơn cả vẻ đẹp của những điệu hát nói lên nỗi cô đơn ấy, cũng cần phải nghe chúng. Rằng những gì người ta thường che giấu lũ trẻ thì trái lại cần phải bảo cho chúng biết, công việc, chiến tranh, chia ly, sự bất công, nỗi cô đơn, cái chết. Phải, cái phương diện này của cuộc sống, vừa dữ dội vừa bất khả vãn hồi, cũng cần phải cho lũ trẻ biết, cũng giống như nhìn ngắm bầu trời, vẻ đẹp của những đêm khuya trên thế gian. Những đứa con của bà mẹ nhiều lần bảo bà giải thích cho chúng xem điều đó có nghĩa như thế nào. Bao giờ bà mẹ cũng trả lời con rằng bà không biết, rằng chẳng ai biết hết. Rằng cần phải biết cả điều ấy nữa. Trước hết, biết điều này: rằng ta không biết gì hết. Rằng ngay cả những bà mẹ thường nói với con cái là mình biết tất cả, họ cũng không biết đâu.
Bà mẹ. Bà cũng nhắc nhở chúng rằng cái xứ sở Đông Dương này là Tổ quốc của chúng, những đứa trẻ ấy, những đứa con của bà. Rằng chúng được sinh ra ở nơi ấy, rằng cũng ở nơi ấy bà đã gặp cha chúng, người đàn ông duy nhất mà bà yêu. Người đàn ông mà chúng không biết vì chúng quá nhỏ khi ông qua đời và vẫn còn rất nhỏ sau sự ra đi ấy, thành thử bà chỉ nói thật ít về chuyện đó để khỏi làm u ám tuổi thơ của chúng. Và cũng nhắc nhở rằng thời gian đã trôi qua, rằng tình yêu dành cho con cái đã choán hết cuộc đời bà. Thế rồi bà mẹ khóc. Thế rồi Thanh hát bằng một ngôn ngữ xa lạ câu chuyện tuổi thơ của anh ở biên giới nước Xiêm khi bà mẹ gặp anh và dẫn anh về ngôi nhà gỗ cùng với những đứa con khác của bà. Để dạy anh tiếng Pháp, bà bảo thế, và được tắm rửa, và ăn uống tử tế, và cứ như vậy mỗi ngày.
Cả cô nữa, cô bé, cô nhớ lại, cô khóc cùng Thanh khi anh hát khúc ca mà anh gọi là khúc ca của “Tuổi thơ xa vời” kể lại tất cả những gì ta vừa nói theo giai điệu của bản Valse Tuyệt vọng.