Đó là dòng sông.
Đó là chuyến phà trên sông Mê Kông. Chuyến phà của những cuốn sách.
Của dòng sông.
Trên phà có xe khách dành cho người bản xứ, có những chiếc xe Léon Bollée dài màu đen, những người tình Hoa Bắc đang nhìn.
Phà rời bến.
Sau khi phà khởi hành cô bé ra khỏi xe khách. Cô nhìn dòng sông. Cô cũng nhìn người Hoa phong nhã ngồi trong chiếc xe hơi lớn màu đen.
Cô, cô bé, cô đánh phấn, ăn mặc như cô thiếu nữ trong các cuốn sách: tấm áo váy bằng lụa bản địa màu trắng đã ngả vàng, chiếc mũ đàn ông “trẻ con và thơ ngây”, vành phẳng, bằng dạ-mềm-màu-gỗ-cẩm-lai-có-dải-ruy-băng-đen-rộng, đôi giày khiêu vũ rất cũ, gót mòn vẹt hết, màu-đen-dát-kim-tuyến- kia-đấy, với những họa tiết trang trí lóng lánh giả kim cương.
Từ chiếc xe hòm màu đen, một người đàn ông khác với người đàn ông trong cuốn sách, một người Hoa khác thuộc miền Mãn Châu bước ra. Anh hơi khác với người trong sách: Anh cường tráng hơn người kia một chút, anh ít sợ sệt hơn, táo bạo hơn. Anh tuấn tú hơn, khỏe mạnh hơn. Anh hợp “với điện ảnh” hơn người trong sách. Và đối mặt với cô bé, anh cũng ít rụt rè hơn.
Cô, thì cô vẫn là cô bé trong cuốn sách, thấp nhỏ, gầy gò, khó nắm bắt được chiều hướng, khó nói được đó là ai, không đẹp bằng trong sách, nghèo túng, là con của những người nghèo túng, tổ tiên nghèo túng, tá điền, thợ đóng giày, luôn luôn đứng đầu về môn Pháp văn ở khắp nơi và ghét nước Pháp, không sao nguôi khuây về xứ sở nơi mình ra đời và chốn của tuổi thơ, cự tuyệt chất thịt tái trong món bít tết phương Tây, phải lòng những người đàn ông yếu đuối, nhiều nhục cảm như chưa từng thấy. Mê đọc, mê xem ngắm, ngạo mạn, tự do.
Còn anh, đó là một người Hoa. Một người Hoa cao lớn. Anh có nước da trắng của người Hoa Bắc. Anh rất phong nhã. Anh mặc bộ y phục bằng đũi và đi đôi giày Anh màu nâu gụ của giới chủ ngân hàng trẻ Sài Gòn.
Anh nhìn cô.
Họ nhìn nhau. Mỉm cười với nhau. Anh bước lại gần.
Anh đang hút một điếu 555. Cô còn trẻ măng. Có một chút sợ sệt trong bàn tay anh run run, nhưng chỉ hơi thoảng qua, khi anh mời cô thuốc lá.
“Cô hút thuốc chứ?” Cô bé ra hiệu: không.
“Xin cô thứ lỗi… Gặp cô ở đây thật hết sức bất ngờ… Cô không thấy rõ...”
Cô bé không đáp. Cô không mỉm cười. Cô nhìn anh chằm chằm. Dữ dằn bỡ ngỡ có lẽ là từ để diễn tả cái nhìn này. Xấc xược. Chẳng biết ngại ngùng là từ của bà mẹ: “Ta chớ nhìn mọi người như thế”. Cứ như thể cô không nghe rõ những gì anh nói. Cô nhìn áo quần, xe hơi. Quanh anh có mùi thơm của nước hoa Cologne Âu châu và xa xăm hơn, mùi của nha phiến và của tơ lụa, của đũi, của hổ phách nơi lụa, của hổ phách nơi làn da. Cô nhìn hết thảy. Người tài xế, xe hơi, và lại nhìn anh, người Hoa. Tuổi thơ lộ ra trong những ánh nhìn mang một niềm hiếu kỳ khiếm nhã, vô độ, luôn gây kinh ngạc. Anh nhìn cô đang nhìn tất cả những thứ mới lạ mà con phà chuyên chở ngày hôm ấy.
Niềm hiếu kỳ nơi anh bắt đầu từ đó.
Cô bé nói, “Xe của anh là loại gì thế?...”.
“Xe Morris Léon Bollée.”
Cô bé ra hiệu là mình không biết. Cô cười. Cô bảo, “Chưa từng nghe một cái tên như thế…”.
Anh cười lên cùng cô. Cô hỏi, “Anh là ai?”. “Tôi ở Sa Đéc.”
“Nơi nào ở Sa Đéc?”
“Bên sông, đó là tòa nhà lớn có sân hiên. Ngay sát Sa Đéc.”
Cô bé nghĩ ngợi và nhận ra đó là nhà nào. Cô bảo, “Ngôi nhà lam nhạt màu xanh Tàu…”.
“Đúng rồi. Màu-xanh-Tàu-nhạt.”
Anh mỉm cười. Cô nhìn anh. Anh nói, “Tôi chưa bao giờ gặp cô ở Sa Đéc”.
“Mẹ tôi được bổ nhiệm đến Sa Đéc cách đây hai năm, còn tôi ở trường nội trú tại Sài Gòn. Vì thế đấy.”
Thinh lặng. Người Hoa nói, “Cô đã luyến tiếc Vĩnh Long…”.
“Phải. Chúng tôi thấy đó là nơi đẹp nhất.” Họ mỉm cười với nhau.
Cô hỏi, “Còn anh?”.
“Tôi ư, tôi từ Paris về. Tôi đã học ở Pháp ba năm. Tôi mới về được vài tháng nay.”
“Học gì thế?”
“Chẳng có gì quan trọng, không đáng nói đến. Còn cô?”
“Tôi đang chuẩn bị thi tú tài ở trường trung học Chasseloup-Laubat. Tôi ở nội trú trong ký túc xá Lyautey.”
Cô nói thêm như thể điều này có gì đó đáng lưu tâm, “Tôi sinh ra ở Đông Dương. Cả các anh tôi nữa. Tất cả chúng tôi đều được sinh ra tại đây”.
Cô nhìn dòng sông. Anh băn khoăn tò mò. Nỗi sợ của anh đã tiêu tan. Anh mỉm cười. Anh nói. Anh bảo, “Tôi có thể đưa cô về Sài Gòn nếu cô muốn”.
Cô không do dự. Chiếc xe hơi, và anh với cái vẻ giễu cợt… Cô hài lòng. Điều này lộ ra trong vẻ tươi cười nơi ánh mắt. Cô sẽ kể về chiếc Léon Bollée cho anh thứ Paulo của cô. Chuyện này, thì anh ấy sẽ hiểu.
“Tôi rất muốn.”
Người Hoa bảo - bằng tiếng Tàu - tài xế của anh lấy từ xe khách chiếc va li của cô bé và để vào xe Léon Bollée. Người tài xế làm theo.
Những chiếc xe hơi đã lên khỏi đường dốc của con phà. Chúng đang ở trên bờ sông. Mọi người đi bộ đến chỗ xe đỗ. Họ dừng bước trước những người bán hàng rong. Cô bé nhìn những chiếc bánh ngọt - làm bằng bỏng ngô nấu với nước dừa rồi trộn mật và bọc lá chuối.
Người Hoa mời cô một chiếc bánh. Cô cầm lấy. Cô ăn ngấu nghiến. Cô không nói cảm ơn.
Cô từ đâu ra?
Dáng mảnh dẻ của thân hình có thể khiến ta tưởng cô là người lai, nhưng không, màu mắt quá nhạt.
Anh nhìn cô ngấu nghiến chiếc bánh. Chính vào lúc ấy anh gọi cô bằng em, “Em muốn một chiếc nữa không?”.
Cô thấy anh cười. Cô bảo không, cô không muốn.
Con phà thứ hai đã rời bờ bên kia. Phà đang lại gần.
Đột nhiên cô bé mê mẩn nhìn chuyến phà đang tới. Cô bé quên bẵng người Hoa.
Trên con phà đang đến, cô vừa nhận ra chiếc xe Lancia đen có mui kéo lên hạ xuống được của người thiếu phụ mặc áo đỏ dạo bản Valse trong đêm.
Người Hoa hỏi đấy là ai.
Cô bé ngần ngừ khi trả lời. Cô không trả lời người Hoa. Cô nói lên những cái tên “để mà nói chúng”. Với cái gì như một niềm hân hoan thầm kín, cô bảo, “Đấy là Phu nhân Stretter. Anne-Marie Stret- ter. Vợ ngài Đốc lý. Ở Vĩnh Long mọi người gọi bà là A.M.S…”.
Cô mỉm cười, xin lỗi vì biết nhiều đến thế. Người Hoa tò mò băn khoăn vì những gì cô bé nói. Anh bảo chắc hẳn anh đã nghe nói đến người phụ nữ này ở Sa Đéc. Nhưng anh bảo là anh chẳng biết gì về bà. Và rồi trong khi đó… đột nhiên… anh nhớ lại… cái tên này…
Cô bé bảo, “Bà ấy có rất nhiều người tình, anh nhớ lại điều ấy đấy… “.
“Tôi cho là… phải… Chắc hẳn là điều ấy…” “Có một người tình, rất trẻ, hình như tự sát vì bà… Tôi không rõ lắm.”
“Bà ấy đẹp… trước đây tôi cứ tưởng là bà ấy trẻ hơn… người ta bảo hình như bà ấy hơi điên rồ… có phải không?”
Về chuyện điên rồ, thì cô bé không có ý kiến. Cô bảo, “Tôi chẳng biết về chuyện điên rồ”.
Xe hơi - họ đã đi tiếp. Họ đang trên đường đến Sài Gòn. Anh nhìn cô đăm đăm. Cách gọi bằng em hãy còn không chủ tâm của người Hoa sẽ pha trộn với cách gọi bằng cô, “Trên phà mọi người hay mời em đi cùng xe, có phải không?”.
Cô ra hiệu: phải.
“Thỉnh thoảng em từ chối ư?” Cô ra hiệu: phải, thỉnh thoảng.
“Đó là khi có… những đứa trẻ rất bé… chúng cứ khóc suốt…”
Cả hai người cùng cười, dường như hơi lơ đãng một chút, hơi quá một chút. Cả hai cùng cười giống nhau. Một kiểu cười riêng của họ.
Sau cái cười ấy cô nhìn ra bên ngoài. Còn anh, lúc đó anh nhìn những dấu hiệu bần hàn. Đôi giày xa tanh đen đã sờn, chiếc va li “bản xứ” bằng giấy bồi, chiếc mũ đàn ông. Anh cười. Tiếng cười của anh khiến cô cười.
“Cô đi đến trường bằng đôi giày này ư?”
Cô gái nhìn giày của mình. Cứ như thể cô nhìn thấy chúng lần đầu, có lẽ. Và cô cũng cười lên như anh. Cô bảo: phải…
“Và cả chiếc mũ này nữa?”
Phải. Cả mũ nữa. Cô càng cười nhiều hơn. Đó là một tràng cười ngặt nghẽo không nín nổi vì nó quá ư tự nhiên. Anh cười cùng với cô, giống như cô.
“Cô thấy đấy… Nó rất hợp với cô… Cái mũ, thật tuyệt vời là nó hợp với cô đến thế… Cứ như nó được tạo ra cho cô…”
Cô vừa cười vừa hỏi, “Thế còn giày…?”.
Người Hoa càng cười nhiều hơn. Anh bảo, “Về giày, thì tôi không có ý kiến”.
Họ cười ngặt nghẽo không nín nổi khi nhìn đôi giày đen.
Chính lúc đó, chính vào lúc đó, sau tràng cười ngặt nghẽo ấy thì câu chuyện xoay chiều đảo ngược.
Họ thôi cười. Nhìn ra chỗ khác. Bên ngoài, ngút tầm mắt, là ruộng đồng. Sự trống trải của bầu trời. Cái nóng nhợt nhạt. Vầng dương mây ám.
Và khắp nơi là những nẻo đường nhỏ dành cho xe trâu do bọn trẻ điều khiển.
Họ đang ở cùng nhau bưng bít trong bóng tối mờ của chiếc xe hơi.
Chính tình trạng ngưng nghỉ của cử động, của nói năng, những ánh nhìn giả tạo hướng về cảnh đơn điệu bên ngoài, con đường, ánh sáng, đồng ruộng trải ra đến mãi chân trời, khiến cho câu chuyện này dần dần im tiếng.
Người Hoa không nói với cô bé nữa. Cứ như thể anh để mặc cô. Như thể anh phiêu diêu lơ đãng trong cuộc du hành. Anh nhìn cảnh bên ngoài. Còn cô, cô nhìn bàn tay anh trên chỗ vịn của ghế ngồi. Anh đã quên đi bàn tay ấy. Thời gian trôi qua. Và rồi, bỗng nhiên cô nắm lấy bàn tay mà không nhận biết được hoàn toàn việc đó. Cô ngắm nhìn nó. Cô cầm nó như một đồ vật chưa từng nhìn thấy sát gần đến thế: một bàn tay Trung Hoa, của đàn ông Trung Hoa. Nó gầy mảnh, nó uốn cong về phía các móng tay, từa tựa như bị gãy, bị một dị tật dễ thương, nó có cái duyên của cánh một con chim đã chết.
Ngón áp út đeo một chiếc nhẫn vàng to dày có viên kim cương nạm vào giữa mặt nhẫn.
Chiếc nhẫn này, nó quá lớn, quá nặng đối với ngón áp út của bàn tay ấy. Bàn tay ấy hẳn phải đẹp, cô không chắc chắn về điều này, nó sạm màu hơn cổ tay. Chiếc đồng hồ ở gần bàn tay, cô bé không nhìn nó. Cũng không nhìn chiếc nhẫn. Cô ngỡ ngàng thán phục vì bàn tay. Cô chạm vào nó “để xem”. Bàn tay ngủ yên. Nó không nhúc nhích.
Thế rồi cô từ từ nghiêng mình xuống bàn tay.
Cô hít thở nó. Cô nhìn nó. Nhìn bàn tay trần.
Rồi đột ngột thôi. Không nhìn nó nữa.
Cô chẳng biết liệu anh có đang ngủ hay không. Cô buông bàn tay. Không, hình như anh không ngủ. Cô chẳng biết. Cô lật bàn tay lại, rất gượng nhẹ, cô nhìn mặt trái của bàn tay ấy, phía bên trong, trần trụi, cô chạm vào làn da lụa dấp dính lớp mồ hôi ẩm mát lạnh. Rồi cô đặt lại nó úp xuống như trước trên tay vịn. Cô xếp nó lại. Bàn tay, ngoan ngoãn, cứ để mặc.
Ta không nhìn thấy gì hết ở người Hoa, không gì hết, không một dấu hiệu tỉnh thức. Có lẽ anh đang ngủ.
Cô bé ngoảnh mặt ra phía ngoài, phía ruộng đồng, người Hoa. Không khí rung rinh vì sức nóng.
Cứ từa tựa như cô đã mang theo bàn tay vào giấc ngủ và cô đã giữ lấy nó.
Cô để bàn tay xa mình. Cô không nhìn nó. Cô thiếp ngủ.
Cứ như thể cô đã ngủ thiếp đi.
Cô, thì cô biết là không phải, cô cho là thế, là không phải. Ta chẳng biết được.
Người Hoa có ngủ hay không? Cô sẽ không bao giờ biết được. Cô đã không bao giờ biết được. Khi cô tỉnh giấc, anh đang nhìn cô. Anh đã nhìn thấy cô thiếp ngủ và chính lúc đó cô tỉnh giấc.
Họ không nói về bàn tay. Cứ như chưa hề có chuyện gì hết. Anh bảo, “Em học lớp mấy?”.
“Lớp Mười.”
“Em bao nhiêu tuổi?”
Một thoáng do dự nơi cô bé. “Mười sáu tuổi.”
Người Hoa ngờ vực.
“Em rất nhỏ bé so với tuổi mười sáu.”
“Tôi đã luôn nhỏ bé, tôi sẽ suốt đời nhỏ bé.” Anh nhìn cô đăm đăm. Cô không nhìn anh.
Anh hỏi, “Thỉnh thoảng em nói dối ư…”.
“Không.”
“Không thể được. Em làm thế nào để không nói dối?”
“Tôi chẳng nói gì hết.”
Anh cười. Cô bảo, “Lời nói dối cũng làm tôi sợ.
Tôi không ngăn nổi mình sợ nó, cũng như cái chết, hơi giống nhau”.
Cô nói thêm, cô khẳng định, “Anh, thì anh không nói dối”.
Anh nhìn cô. Anh ngẫm nghĩ. Anh nói, ngạc nhiên, “Đúng thế… thật lạ…”.
“Trước đây anh không biết như thế ư?” “Không… tôi đã quên mất hoặc có lẽ… tôi chưa từng biết.”
Cô nhìn anh. Cô tin anh. Cô nói, “Anh làm thế nào để không nói dối…”.
“Không gì cả. Chắc hẳn là trong đời tôi, tôi chẳng có gì phải nói dối… Tôi không biết…”
Cô muốn ôm hôn anh. Anh thấy điều đó, anh mỉm cười với cô.
Cô bảo, “Có lẽ anh sẽ kể điều ấy với mẹ anh”. “Điều gì?”
Cô do dự, cô nói, “Điều đã xảy ra với chúng ta”.
Họ nhìn nhau. Anh định nói là anh không hiểu… Anh bảo, “Phải. Ngay tức khắc. Có lẽ chúng tôi sẽ nói chuyện suốt đêm. Bà thích những chuyện như vậy… bất ngờ, mọi người thường nói thế, phải không?”.
“Phải. Người ta cũng nói theo cách khác nữa.” Anh nhìn cô. Anh bảo, “Còn em… với mẹ em… em sẽ nói chứ?”.
“Không gì hết”, cô cười, “chỉ mới nghĩ đến đã…”.
Người Hoa mỉm cười với cô bé. Anh bảo, “Không gì hết ư? Không bao giờ ư?”.
“Không gì hết. Không bao giờ. Không gì hết.”
Cô cầm lấy bàn tay anh, hôn bàn tay. Anh nhắm mắt lại mà nhìn cô.
Cô bảo, “Anh nhầm rồi đấy, có lẽ anh sẽ không kể gì hết với mẹ anh”.
Cô mỉm cười, dễ thương, dịu dàng. Cô nhìn anh.
Anh bảo, “Ngoài ra, tôi hai mươi bảy tuổi. Không nghề nghiệp…”.
“Và hơn nữa còn là người Hoa…”
“Hơn nữa, phải rồi…”, anh nhìn kỹ cô, “nhưng sao mà em có duyên đến thế… Mọi người đã bảo em điều ấy rồi chứ?”.
Cô mỉm cười.
“Không.”
“Thế còn đẹp? Mọi người đã bảo em là em đẹp chứ?”
Không, mọi người đã không bảo cô điều đó. Bảo rằng cô bé nhỏ thì có đấy, còn đẹp thì không. Cô bảo, “Không”, cô mỉm cười, “mọi người chưa bảo tôi điều ấy”.
Anh nhìn cô. Anh nói, “Em có thích khi người ta bảo em điều đó…”.
“Có.”
Người Hoa cười theo cách khác. Cô cười cùng anh.
“Thế là mọi người chưa từng nói gì với em hết…”
“Không gì hết.”
“Thế việc người ta ham muốn em… người ta đã nói với em rồi chứ?... Không thể khác được, người ta đã nói với em.”
Cô bé không cười giống trước.
“Có đấy… những thằng nhóc du côn… nhưng chẳng hề hấn gì, chúng bỡn cợt thôi… Chủ yếu là những đứa con lai. Người Pháp thì không bao giờ.”
Người Hoa không cười. Anh hỏi, “Còn người Hoa?...”.
Cô bé mỉm cười. Cô nói, ngạc nhiên, “Người Hoa cũng không bao giờ, đúng thế…”.
Thinh lặng.
Người Hoa đột nhiên nở một nụ cười trẻ thơ. “Thế em có thích việc học hành không?”
Cô nghĩ ngợi, cô bảo rằng cô không biết rõ mình có thích việc đó hay không, nhưng có thể là có đấy, cô thích. Anh bảo rằng, là anh thì lẽ ra anh muốn học Đại học Văn khoa ở Bắc Kinh. Rằng mẹ anh đồng ý. Rằng chính cha anh là người không muốn thế. Với những thế hệ người Hoa này thì tiếng Pháp và tiếng Anh - Mỹ là điều cần phải học. Anh quên mất, anh cũng đã sang châu Mỹ chỉ vì việc đó trong một năm.
“Để làm gì sau này…”
“Chủ ngân hàng”, anh mỉm cười, “như mọi người đàn ông trong gia đình anh từ một trăm năm nay”.
Cô bảo rằng tòa nhà màu lam là tòa nhà đẹp nhất của cả Vĩnh Long và Sa Đéc gộp chung lại, rằng cha anh hẳn phải là một triệu phú.
Anh cười, anh bảo rằng ở Trung Hoa, con cái không bao giờ biết tổng số tài sản của người cha.
Anh quên mất: Năm nào anh cũng thực tập tại những ngân hàng lớn của Bắc Kinh. Anh bảo cô điều đó.
Cô nói, “Không ở Mãn Châu ư?”.
Không. Ở Bắc Kinh. Anh bảo rằng đối với cha anh, thì miền Mãn Châu không đủ giàu, xét theo mức độ tài sản hiện thời của gia đình.
Họ băng qua những ngôi làng của lúa gạo, của trẻ em và bầy chó. Trẻ em chơi đùa trên đường cái giữa các dãy nhà tranh. Chúng được bầy chó trông nom, những con chó vàng gầy guộc miền quê. Khi xe hơi qua rồi, người ta nhìn thấy các ông bố bà mẹ nhổm lên từ bờ ruộng để xem liệu tất cả bọn chúng còn ở đấy hay không, lũ trẻ và bầy chó.
Sau khi qua khỏi ngôi làng thì cô lại thiếp ngủ. Mọi người luôn ngủ trên những con đường của Cà Mau giữa đồng ruộng và bầu trời khi họ có tài xế lái xe cho mình.
Cô mở mắt ra. Cô lại nhắm mắt. Họ ngừng nói chuyện. Cô để mặc anh. Anh bảo, “Em hãy nhắm mắt lại”.
Cô nhắm mắt như anh muốn.
Bàn tay anh ve vuốt gương mặt cô bé, đôi môi, cặp mắt nhắm. Giấc ngủ hoàn hảo - anh biết là cô không ngủ, anh thích thế hơn.
Anh nói khe khẽ, rất chậm rãi, một câu dài bằng tiếng Hoa.
Vẫn nhắm mắt cô hỏi điều anh đã nói - anh bảo rằng đó là về thân thể của cô… rằng không thể nói lên được… đó là cái gì… đây là lần đầu tiên điều đó xảy ra với anh…
Bàn tay dừng lại đột ngột. Cô mở mắt ra rồi lại nhắm mắt. Bàn tay lại tiếp tục. Bàn tay thật dịu dàng, nó không bao giờ thô bạo, nó có một sự kín đáo không thay đổi, có một sự dịu dàng từ xa xưa lắm, của làn da, của tâm hồn.
Cả anh cũng đã lại nhắm mắt khi anh ve vuốt mắt cô, môi cô. Bàn tay rời gương mặt, lần xuống dọc thân hình. Đôi khi nó dừng lại, hoảng sợ. Rồi nó rụt lại.
Anh nhìn cô.
Anh ngoảnh ra bên ngoài.
Anh hỏi với thái độ cũng dịu dàng như thái độ dịu dàng của bàn tay anh rằng thực sự cô bao nhiêu tuổi.
Cô do dự. Cô nói và xin lỗi, “Em hãy còn nhỏ”.
“Bao nhiêu tuổi thế?”
Cô trả lời theo kiểu của những người Hoa, “Mười sáu tuổi”.
“Không”, anh mỉm cười, “không đúng”. “Mười lăm tuổi… mười lăm tuổi rưỡi… được chưa?”
Anh cười. “Được.” Thinh lặng.
“Em muốn gì nào?”
Cô bé không trả lời. Có thể cô không hiểu. Người Hoa không đặt câu hỏi, anh nói, “Làm tình, em chưa từng trải qua”.
Cô bé không trả lời. Cô nghĩ ngợi để trả lời. Cô không biết trả lời điều ấy. Anh nhích người về phía cô. Trước sự thinh lặng nơi cô, anh thấy có lẽ cô muốn nói cái gì đó. Cái gì đó mà cô còn chưa biết diễn tả và chắc hẳn cô chỉ mới biết nó là điều cấm kỵ. Anh bảo, “Anh xin em tha lỗi…”.
Họ nhìn ra bên ngoài.
Họ nhìn đồng ruộng bát ngát của Nam Kỳ. Bình nguyên lai láng nước có những con đường nhỏ thẳng tắp màu trắng chạy xuyên qua, với những cỗ xe trâu của lũ trẻ. Địa ngục, hoành tráng, của cái nóng im lìm. Trải ra ngút tầm mắt là sự bằng phẳng phi thường và óng mượt của vùng Châu thổ. Cô bé, sau này cô sẽ kể về một xứ sở mơ hồ bất định, của tuổi thơ, về miền Flandres nhiệt đới chỉ vừa mới được giải thoát khỏi biển cả.
Họ xuyên qua chốn mênh mang mà không nói chuyện cùng nhau.
Thế rồi chính cô kể chuyện: Cái xứ sở phía nam của miền Nam Đông Dương này có cùng chất đất với biển và cứ thế hàng triệu năm trước khi có sự sống trên trái đất, còn nông dân, thì họ tiếp tục làm giống như những con người nguyên thủy, tiếp tục lấy chất đất của biển rồi quây lại trong những bờ dốc bằng đất rắn và cứ để đó nhiều năm trời ròng rã nhờ nước mưa rửa sạch chất muối và biến nó thành đồng ruộng bị con người giam cầm mãi mãi về sau. Cô bảo, “Em sinh ra tại đây, ở miền Nam, cả các anh của em nữa. Thế là mẹ kể cho chúng em nghe lịch sử của địa phương”.
Cô bé thiu thiu ngủ. Khi cô tỉnh giấc người Hoa bảo cô rằng A.M.S đã vượt lên trước họ. Rằng chính bà lái xe, rằng người tài xế ở bên bà. Cô bé bảo bà hay tự lái xe. Cô ngần ngừ rồi nói, “Bà sẽ làm tình với các tài xế của bà cũng như với các ông hoàng khi họ đến thăm Nam Kỳ, những ông hoàng của Lào, của Cao Miên”.
“Và em tin chuyện ấy.”
Cô vẫn ngần ngừ rồi cô kể, “Phải. Một lần bà đã đi cùng anh thứ của em. Bà gặp anh ở Câu lạc bộ, vào một buổi tối, bà đã mời anh đến chơi quần vợt. Anh đã đến. Sau đó họ tới bể bơi trong khuôn viên. Ở đấy có một ngôi nhà gỗ với các vòi tắm hoa sen, các phòng tập, hầu như luôn vắng vẻ không người”.
Người Hoa nói, “Có thể anh thứ của em cũng là một bậc đế vương”.
Cô bé mỉm cười. Cô không đáp. Cô phát hiện ra rằng đúng vậy, rằng người anh thứ ấy đúng thật là một ông hoàng. Bị giam cầm trong sự khác biệt giữa anh với những người khác, đơn độc một mình trong cung điện của nỗi cô quạnh, thật xa vời, thật đơn độc đến mức với anh, sống, dường như là một sự sinh thành mỗi ngày.
Người Hoa nhìn cô. “Em khóc ư.”
“Đó là vì điều anh vừa nói về Paulo… nó đúng hết sức…”
Anh lại hỏi, thật khẽ, “Anh ấy đã bảo em như thế à?”.
“Không. Anh ấy, thì anh ấy chẳng bảo gì hết, gần như chẳng gì hết, nhưng em biết tất cả những điều anh ấy sẽ bảo nếu như anh ấy nói.”
Cô nhớ lại, cô cười mà vẫn khóc, “Về sau anh ấy không muốn đến sân quần vợt chơi cùng A.M.S nữa. Anh ấy sợ…”.
“Sợ gì…?”
“Em không biết…”, cô phát hiện ra sự việc, “úng đấy… chẳng bao giờ biết được anh thứ của em sợ cái gì. Không thể biết trước được điều đó”.
“Điều gì ở người phụ nữ ấy khiến em thích đến thế…”
Cô nghĩ ngợi. Cô chưa từng đặt ra cho mình câu hỏi này. Cô bảo, “Em cho là, câu chuyện”.
Họ băng qua một miền đất khác của hành trình. Làng mạc đông đảo hơn, đường sá tốt hơn. Xe lăn bánh từ từ hơn.
Anh bảo, “Ta sắp đến Chợ Lớn. Em thích Sài Gòn hay Chợ Lớn?”.
Cô mỉm cười, “… em chỉ biết các nhiệm sở nơi hẻo lánh thôi… còn anh, anh thích chứ…?”.
“Phải. Anh yêu Chợ Lớn. Anh yêu Trung Hoa. Chợ Lớn đó cũng là Trung Hoa. Ở New York và ở San Francisco, thì không.”
Họ im tiếng. Anh nói tiếp với người tài xế.
Anh bảo cô bé là người tài xế biết ký túc xá Lyautey ở chỗ nào.
Họ nhìn cảnh bên ngoài, nhìn thành phố đang tới gần.
Họ sắp chia tay nhau. Giờ đây cô nhớ lại việc nói năng khi ấy sao mà khó khăn, mà ác nghiệt đến thế. Không thể tìm ra từ ngữ bởi ham muốn quá mãnh liệt. Họ không nhìn nhau nữa. Họ tránh bàn tay nhau, đôi mắt nhau. Chính anh áp đặt sự thinh lặng này. Cô đã bảo rằng chỉ riêng sự thinh lặng ấy, những từ ngữ mà sự thinh lặng ấy tránh né, ngay cả cách ngắt, nhấn, sự lơ đãng của nó, cả trò chơi ấy nữa, tính trẻ thơ nơi trò chơi và những dòng nước mắt của nó, tất cả những cái đó đã có thể khiến người ta nói rằng đây là một mối tình.
Họ còn ngồi trên xe đi khá nhiều thời gian nữa. Mà không nói với nhau gì cả. Cô bé biết rằng anh sẽ không nói gì nữa hết. Cùng theo cách ấy anh biết là cô cũng vậy.
Câu chuyện đã ở đó rồi, đã không sao tránh khỏi rồi.