N
hững người lính vẫn trên đường tiến sâu hơn vào mặt trận.
Vào đúng ngày hai mươi hai tháng mười hai, sau chặng dài hành quân mệt nhọc ông Nghĩa cho đơn vị dừng chân trên đinh Bô-le-ven vì trúng vào ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Lệnh từ trung đoàn, đơn vị được nghỉ chân một ngày.
Trưa hôm đó, trong cuộc trò chuyện với bộ đội đồng chí chính ủy Đoàn 6 Diễn Châu, Nghệ An đã đưa ra những chi tiết cụ thể, hấp dẫn, lạ mà mãi sau này khó người lính nào có thể quên được.
Chính ủy nói.
- Nếu nhiệm vụ của các đồng chí chỉ là vượt Trường Sơn không thôi thì đến đây đã đủ điều kiện để phong tặng “danh hiệu anh hùng” cho tất cả mọi người rồi. Nhưng, đích đến của chúng ta là chiến trường, nơi đối mặt với kẻ thù và buộc ta phải chiến thắng. Bởi vậy, nhiệm vụ trước mắt hãy còn hết sức nặng nề, các đồng chí phải nỗ lực cố gắng hơn nữa...
Buổi ấy, Chính ủy đứng lên trong ánh nắng chiều của làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, dang hai cánh tay rộng mà nói rằng, nếu ta đứng trên dốc cao nguyên Bô-le-ven nhìn xuống thì sẽ thấy cả một quả núi, toàn gậy tre và áo bờ-lu-dông thu đông, trang bị cho bộ đội chống rét trên đường Trường Sơn. Bởi vì khi đến đây và đi qua đây người lính nào cũng đều quẳng những đồ đó xuống chân dốc vì không còn dùng tới nữa.
Vào đất miền Đông Nam Bộ trời hết rét, hết gió mùa đông bắc. Tôi chợt nghĩ, nếu bọn mật thám báo thì biệt kích có thể đếm được số gậy này thì đó sẽ là số liệu khá xác thực và chúng biết được quân ta đã vào chiến trường bao nhiêu? Bao nhiêu quân đã vào Nam, đã đang sống và chiến đấu trên khắp mặt trận phía Nam?
Chiếc gậy đã đi vào thơ ca nhạc họa, diễn tả được nỗi gian truân vất vả của bộ đội Trường Sơn đi cứu nước diệt thù.
Gậy trên đường ra trận đã trở thành hình ảnh bình dị thân thuộc và hết sức cao đẹp. Nhạc sĩ Phạm Tuyên hoàn toàn có lí khi viết ca khúc “Chiếc gậy Trường Sơn” với lời ca: “Luyện cho đôi chân vượt đường xa không mỏi, luyện cho tinh thần chỉ tiến không lui, gậy trong tay mồ hôi đã bóng, màu gỗ quê hương mang cả mối tình dân” và “sức trẻ đi cứu nước vững vàng hơn dãy Trường Sơn...”
Sau ngày nghỉ, nhân kỉ niệm Ngày thành lập Quân đội hai mươi hai tháng mười hai. Đơn vị Trương Văn Nghĩa lại đối mặt với thử thách mới.
Phía bên kia quả đồi là địch. Ngao nhận lệnh dẫn đầu một mũi, sẵn sàng chi viện cho đơn vị bạn lúc cần thiết. Quả bộc phá đầu tiên nổ từ lúc còn sáng. Nhưng, người này lên, người khác lên, đột phá khẩu vẫn chưa mở được. Xung kích vẫn nằm yên dưới các giao thông hào. Đại đội phá mìn nhìn đồng hồ bảy giờ hai mươi phút. Súng cối 82 của đơn vị bạn đang bắt đầu xả tiếp vào mấy lô cốt tiền duyên. Đại bác nổ vỡ từng mảng trời trước mặt.
“Bắn thật mạnh vào! Đơn vị bạn đã chiếm được đồi bên kia rồi. Chúng ta sẽ hợp lực đánh thắng...”.
Tiếng Nghĩa gào lên khản cả giọng. Mới được đề bạt Trung đội phó sau đợt chỉnh quân, Ngao trở thành một đồng chí chỉ huy vô cùng linh hoạt và dữ dội. Mấy câu hát động viên của nữ văn công hỏa tuyến lúc chiều khiến Ngao còn xúc động, gai người. “Làm thế nào để thắng giặc thật nhanh lại ít thương tổn hơn? Trong đầu Ngao chỉ nghĩ có vậy. Nhưng tình thế lúc này đã đến phút quyết liệt. Tổ đặc công tiến lên, vừa trinh sát, gài mìn, vừa đánh bộc phá. Ngao xung phong mang bộc phá cùng với đại đội bạn. Khẩu đại liên đã phải dội nước vào nòng bao nhiêu lần rồi. Trung liên thì có khẩu bị đại bác của giặc bắn tung đất vào đầy miệng nòng nên không còn bắn được nữa. Chữa xong lại bắn rồi lại chữa. Mấy hỏa điểm của giặc vẫn ào ạt bắn ra như mưa.
Vũ Xuân Ngao thấy nóng ruột; anh bảo trung đội phó bên cạnh:
- Anh ở lại đây, chỉ huy chiến đấu đến cùng nhé!
Trung đội phó lo ngại.
- Nhưng, còn ai nữa đâu mà chỉ huy!
Ngao nghiêm nét mặt:
- Sao lại không còn! Cán bộ lúc này không thể rút xuống dưới được!
Trời vào khuya.
Trong tích tắc, khói đen tàn đỏ từ những nòng súng trong đồn bắn ra ngùn ngụt bốc lên. Những lưỡi khói đen đặc dần dần liếm kín trời. Hơi lửa bốn bề hun nung làm biến ảnh, dị dạng vạn vật. Không gian tơi bời nát vụn trong những đống tro tàn. Chùa chiền làng mạc vỡ như loang nhòa, tan chảy. Ngao nghiến răng, tay súng rung lên bần bật, anh chỉ ước được trút hết căm giận lên đầu kẻ thù… những bàn tay, cánh tay, khuôn mặt căng tức máu, đỏ bầm, mống mắt mọng như “trăm năm lệ đọng”. Đạn nổ, bom rung xé toạc cả bầu trời. Đạn súng cối, đạn pháo, bom từ B52 rải xuống đinh tai nhức óc. Bầu trời keo đặc không ánh sáng.
Chính ủy Nghĩa đã đến tự lúc nào, ngồi xuống sát Vũ Xuân Ngao, ông nhìn khuôn mặt sạm khói súng, hai mắt đỏ như hai giọt hồng lạp của Ngao mà lòng đầy tin tưởng.
Hỏa pháo của địch bắn lên có lúc từng gốc cây bị chặt cụt lởm chởm. Trên đồi, đạn bắn đan chéo nhau xạt xạt chiu chiu như dao chém. Sau đó những tiếng nổ dậy đất của mìn định hướng (ĐH 10). Đặc công, đội trinh sát đã bò vào cài dưới các chân hàng rào bùng nhùng… mìn nổ thổi bay tất cả các loại hàng rào, khai thông một lối lớn vào căn cứ để cùng bộ binh tiêu diệt các lô cốt đầu cầu cùng những ổ đề kháng và hỏa lực mạnh của địch.
Lần đầu tiên đánh trận mở chiến dịch, Ngao chưa từng thấy, trận đánh hỏa lực mạnh như bão táp. “Bây giờ là phút quyết định.”- Ngao tự bảo mình vậy. Anh bỗng thấy mình thật bình tĩnh, nhớ rất rõ khi trận đánh kết thúc, bộ đội ta rút về an toàn. Ngay tối hôm đó, máy bay giặc thả quân xuống thu dọn chiến trường; thằng chết, thằng bị thương nặng đều cho máy ủi ủi dồn lại đào hố rồi tưới xăng thiêu rụi. Một đêm một ngày súng nổ bom gầm mà chỉ còn lại một đống tro tàn khét lẹt.
Chính ủy Nghĩa tâm sự với Ngao rằng sau những trận quyết chiến, ông đều dõi mắt về quê nhà, nơi có người vợ hiền đếm từng ngày được ở bên chồng mà số ngày còn ít hơn số năm làm vợ, đành chấp nhận lấy nghiệp binh lửa của chồng bù cho nghĩa tao khang…
***
Một quả đại bác nổ tung trời hất đất lên người Ngao. Rồi, tiếng bộc phá nổ, đất chuyển rùng rùng dưới ngực. Ngao hồi hộp nhìn lên. Một bóng người như gốc cây đổ sập xuống.
- Ai đấy?
- Báo cáo anh Ngao. “Xê Một” nó bắn dữ quá. Hàng rào còn khoảng sáu thước nữa. Anh em thương vong còn nằm lại trên đó.
Ngao thấy nhói đau lồng ngực, biết bao nhiêu đồng chí đã hi sinh rồi mà vẫn còn sáu thước hàng rào vẫn chưa phá xong, bộ binh của ta làm thế nào để xung phong được đây. Lúc này, Ngao muốn lao lên xem xét. Nhưng ở góc độ chỉ huy, bỏ anh em đi sao được. Có lẽ tình hình trận địa trở nên gay go ác liệt chăng?
Ngao báo cáo thủ trưởng Nghĩa: “Hai khẩu cối 82 đã bị dập, bay mất cả bàn đế.” Rất nhanh, ông Nghĩa liền ra lệnh:
- Mất... thì làm ra bàn đế mà bắn!
Ngao liền gọi liên lạc, đề nghị Tiểu đoàn bổ sung ngay cho một tổ bộc phá. Thấy ta ngưng tiếng súng, địch bắn ra càng mạnh. Đại bác nổ sau chân, nổ trước mặt, nổ bên trái, nổ bên phải.
Mười phút sau, Ngao thấy một tiểu đội phó bò lên, theo sau là bốn chiến sĩ nữa.
Ngao có vẻ yên tâm. Bỗng anh nhớ chuyện kể của người bố Vũ Xuân Sao trong trận đánh giáp lá cà tại Bến Hải, Do Linh. Buổi ấy, cả một lữ đoàn bộ binh thiết giáp của địch, đánh trận đó vào năm 1959, bọn Ngô Đình Diệm đưa luật Mười năm chín, (10/59), ai bị tình nghi là bắn. “Thà giết nhầm chứ không bỏ sót”. Lúc ấy bị lộ, tất cả đơn vị của ông Sao đành liều mạng đồng loạt đứng lên chống cự với giặc. Từ ba giờ sáng đến mười hai giờ trưa, bộ đội ta đa số hi sinh anh dũng, cản đường để đồng bào Vĩnh Linh vượt tuyến ra Quảng Bình. Nếu không, dân Vĩnh Linh, Do Linh có thể bị nó tàn sát không còn một bóng.
Ông Trương Văn Nghĩa sống sót sau trận tàn sát, vì khi thấy giặc ông nhắm mắt giả vờ chết. Giặc đi qua nhờ cơn mưa bất chợt đổ ào xuống, gió cuốn bụi trời, bọn lính gọi nhau chạy trốn. Trời cũng sầm sập tối nên ông Nghĩa thừa cơ bò lết ra khỏi trận địa. Ông Nghĩa gặp ông Sao bố Ngao từ đấy. Câu chuyện được kể lại. Và, ông Nghĩa nhận ra Ngao là con trai của người lính, bạn chiến đấu của mình. Ông Nghĩa và Ngao có thêm mối buộc tình cảm sâu nặng hơn ở những ngày cùng nhau đứng chung trên một chiến hào. Hai người tuy thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng cùng sinh ra, lớn lên trên một miền biển quê nghèo, cùng biết quý bát cơm, bát cháo khoai xéo với bột sắn, quý cái tinh thần yêu nước. Nói đến chống giặc ngoại xâm, dân Quảng Ninh đâu đâu cũng son sắt một lòng.
Phút bình yên giữa hai trận đánh, Ngao nghĩ mung lung.
Ngao đang nhận lệnh chốt ở một mũi chính. Được bổ sung thêm bốn chiến sĩ, anh vững tin quay lại phổ biến nhiệm vụ cho toàn tổ rồi ra lệnh:
- Đồng chí Bê lên bộc phá trước!
- Tuân lệnh!
- Rõ...
Nhìn bóng người lính lao mình qua cây gỗ chắn ngang, chạy xốc lên sóng đồi Ngao thét to:
- Nằm xuống... Bê, nằm xuống!
Sau tiếng hô, Ngao bật dậy nhào theo.
Ngao băng băng chạy, một mình lập chiến công đầu tiên bằng hai quả bộc phá nổ giòn, xé tan cả ba thước hàng rào địch.
Có tiếng thủ trưởng Nghĩa: “Ngao hi sinh rồi. Nhất định Ngao không thể thoát khỏi cái chết...”
Ngớt tiếng súng. Nghĩa thét lên: “Kìa, Ngao!”
Nghĩa nhìn bóng Ngao giữa khói lửa mịt mù. Ngao đang né mình, khom lưng chạy được mươi mét thì một viên đạn trúng xoẹt. Ngao lảo đảo cố chạy đến sát hàng rào, anh mở nụ xòe luồn qua ba vòng kẽm thép gai. Anh nhào lui về phía sau, mặt tái nhợt, khuôn mặt không còn giọt máu.
Quả mìn định hướng của Ngao nổ chát chúa vô cùng. Những quả mìn định hướng do đặc công tối qua mò mẫm cài sẵn dưới các chân hàng rào bùng nhùng, cùi lợn, mái nhà… bỗng bị thổi phăng đi tất cả các loại hàng rào khai thông lối mở lớn vào căn cứ. Bộ binh nhất loạt vọt vào trung tâm tiêu diệt các lô cốt đầu cầu, cùng những ổ đề kháng và hỏa lực mạnh của địch.
Sau trận đánh Ngao bị thương. Khi thương binh vừa kịp đưa về tuyến sau thì quân địch ập đến, phá đốt bệnh viện. Toàn thể y sĩ, y tá đều cầm súng chiến đấu, cả đơn vị bị xóa sổ, không biết ai chết, ai còn.
Mọi người kể câu chuyện về Ngao trong trận đánh giáp lá cà ở Khe Vang - Quảng Trị. Ngao đã bị “ngờ” rằng đã chết đến lần thứ hai, thứ ba... hay lần thứ bao nhiêu gì đấy không biết”.
Ông Nghĩa mất liên lạc với Ngao từ đó. Ông được điều chuyển bổ sung sang một đơn vị khác. “Giấy báo tử” Vũ Xuân Ngao cũng chính thức được đơn vị gửi về địa phương.
Chính Ngao cũng không hề biết, trận đánh ấy người cứu sống anh lại là hai y tá nữ.
Các cô đã khiêng anh, đặt anh nằm ở bên vực chỗ gốc cây cổ thụ. Ở đó, Ngao lại bị tiếp sức ép của loạt bom B52; chúng rơi gần quá, hơi bom quật hất Ngao rơi lọt xuống cái lỗ boong mối. Ngao tụt xuống một vực thẳm nhưng cũng may mùa khô không có nước. Rồi, không biết thế nào Ngao thất lạc đơn vị hàng tuần không có gì để nhét vào bụng. Sau trận đánh, đơn vị cho người đi tìm lại chiến trường. Giữa tan nát, người ta chỉ thấy còn lại vài chiếc băng ca.
Duyên cớ nào mà Ngao vẫn còn sống sót? Đó là điều kì diệu của Đấng Tối cao đã ban cho Ngao chăng? Mãi sau này, khi tỉnh dậy thì Ngao mới biết. Có một đoàn tản cư mang họ Hồ (Vân Kiều) của làng Ho. Một phụ nữ Vân Kiều chạy giặc mang theo con trai mới ba tháng tuổi. Nhờ ân đức từ hai bầu vú mà chị đã cứu sống Ngao. Chị đưa Ngao về nhà. Hằng ngày, mỗi sáng chị vắt sữa cho anh uống. Chiều tối, chị lại vắt cho anh thêm lần nữa. Còn bà con trong bản thì cho Ngao nào khoai, nào sắn, nào lá rau tàu bay. Ngao được sống trong tình cảm của nhóm người dân tộc Vân Kiều của làng Ho…
Chị Vân Kiều còn đi theo khỉ vào rừng lấy mật ong. Ngao lại được uống những túi mật ong non và ăn những con ong non chưa có cánh. Dần dần anh khỏe lại. Vết thương nhanh khô không còn rỉ nước vàng. Đúng như bài hát: “Người Vân Kiều có tấm lòng trong trắng, như cánh hoa đẹp tuyệt vời của núi rừng Tây Nguyên, Trường Sơn.”
Ngao được đại gia đình họ Hồ Vân Kiều chăm sóc; du kích làng Ho đưa anh nhập viện với thông tin thật sơ lược và ít ỏi về một người lính trận.
“Họ tên: Vũ Xuân Ngao. Quê quán Quảng Ninh, Quảng Bình. Bị thương ngày mồng bảy tháng tư Năm... đơn vị: Không rõ.”
Với đôi dòng vắn tắt ấy, Ngao nằm ở một bệnh viện mặt trận. Bệnh viện có một trung đội pháo cao xạ bảo vệ. Một buổi, địch ngửi thấy mùi “Việt Cộng”. Chúng rà soát, xung quanh khu bệnh viện, bắn phá rất ác liệt. Trong một trận càn, giặc cho máy bay đổ bộ; lính dù ồ ạt tấn công hòng bắt sống, nuốt tươi người ở khu căn cứ của ta.
Thời khắc quá nguy hiểm. Là bệnh nhân đang nằm điều trị, không còn cách nào khác, Vũ Xuân Ngao lại lần nữa bật dậy chiến đấu, tất cả bệnh viện làm lễ truy điệu sống cho anh.
Ngao một mình ôm bộc phá, xung phong tiến lên cản đường tấn công của giặc. Nhằm vào lúc pháo của ta đang sôi lên như sấm sét đổ xuống đầu giặc, anh lao bộc phá, chặn đứng bước tiến của chúng. Giữa phút giây mong manh của cái sống, cái chết, Ngao bò quanh những gốc cây cụt, giành giật lấy chiến thắng. Một tiếng nổ rung trời chuyển đất ở phía đột phá khẩu. Ngao nhìn thấy quanh mình mũi tiếp viện của đơn vị nào đã ứng cứu ùa đến. Ngao lồm ngồm bò sát mặt đất. Cả người anh đen ngòm nhìn chỉ thấy hai con mắt trắng dã. Ngao đưa cánh tay vuốt ngang mặt. Thì ra, anh đã theo sát bước của một mũi tiến công trong trận chiến hiệp đồng. Anh đã đến gần một lô cốt giặc đang lừng lững phía trước.
- Báo cáo, sống đồi toàn dây thép gai rải rác…
Có một tiếng ai đó.
- Xin đánh luôn ống bộc phá…
- Nhưng, đột phá khẩu thế nào mới được chứ?
- Đã gần lô cốt. Nhưng, báo cáo; hàng rào lại còn nhiều...
- Vậy làm thế nào xung phong lên được?
Ngao vẫn thở hổn hển, anh mệt dốc. Anh nghĩ, tình hình thế này mà kéo dài mãi thì nguy hiểm quá. Không thể để đại bác của nó cứ dội vào lưng mình được. Phải đột phá khẩu.
Nghĩ vậy, nhanh như chớp Ngao làm “đột phá khẩu” cho nổ tung hàng rào dây thép gai vòng trong vòng ngoài, mở đường cho bộ binh lớp lớp xông lên.
Ngao không hề biết, anh đã bị thương và ai đó đã dìu Ngao lết ra khỏi trận địa thoát khỏi cửa tử thần.
***
Toàn bộ câu chuyện về cuộc đời lính trận của Vũ Xuân Ngao được ông Trương Văn Nghĩa, người thủ trưởng cũ kể lại bằng hiện thực của cuộc chiến vô cùng cam go mà sinh động do chính ông và Ngao từng cùng nhau trải nghiệm.
Buổi ấy, trong Hội trường của Ủy ban nhân dân xã miền biển quê Ngao, người nghe nhiều lần lặng đi, rồi có lúc cả hội trường lại ồ lên cảm thán. Họ bảo nhau:
- Vũ Xuân Ngao, người lính quê ta, thật xứng đáng là gương mặt anh hùng đấy chứ.
- Nhưng, Ngao là kẻ xấu số.
- Ngao sa cơ lỡ bước ư?
- Đâu phải vậy. Tội ở chiến tranh mà.
- Chiến tranh! Bao nhiêu cái bất thường, đột biến!
- Ngao đã bị thương ở nhiều trận sau nhiều cuộc chuyển dịch giống như thất lạc, mất tích, sao tránh khỏi được “oan khiên.”
- Đau cho Ngao là bao năm rồi công tích nhiều đấy mà người lính chiến lại mang tay trắng trở về.
- Đề nghị phải làm các chế độ, chính sách cho Ngao. Một người lính, niềm tự hào của miền quê biển...
- Đúng! Phải đề nghị! Phải minh oan! Trả lại những gì tốt đẹp cho Ngao.
Ông Nghĩa đã nhiều lần dừng lại, trả lời rồi giải thích nhiều câu hỏi đặt ra của bà con dân làng về Ngao ngay giữa hội trường. Ông vẻ phân trần, chậm rãi như đọc từng câu từng chữ.
- Thưa bà con, thưa các anh, các chị của làng biển quê mình. Kể từ buổi phát hiện, mò được tung tích và biết Ngao còn sống, với tư cách là “Thủ trưởng cũ,” với trách nhiệm và tình thương yêu đồng đội, đã gần bốn tháng qua, tôi đã đi các “cửa” để “gõ,” để đề nghị quân đội, đề nghị các cơ quan phải minh oan, phải trả lại cho Ngao, một lính trận đã hai lần là “Dũng sĩ diệt Mỹ,” tiêu chuẩn được hưởng. Chỉ riêng với thương tật mất hết chức năng của người đàn ông thì Ngao đã được xếp là thương binh nặng rồi. Ngao đã được nằm ở trại nuôi dưỡng, được có người chăm sóc suốt đời rồi…
Vui vẻ, tự tin vào công việc mình làm ông Nghĩa quả quyết lần nữa: “Xin anh Ngao, một người lính, hãy yên tâm. Xin tất cả chúng ta” - Ông Nghĩa dừng lại nhìn Ngao, nhìn gương mặt từng người đang ngồi ở hội trường. Giọng ông nghe đanh chắc: “Xin tất cả mọi người chúng ta hãy chờ đợi. Tôi cam đoan, không lâu nữa, thời gian, sự thật và đạo lí con người sẽ trả lại cho anh Ngao niềm vui và hạnh phúc anh được quyền hưởng”.
Ông Nghĩa vừa dứt lời cả hội trường đứng lên vỗ tay không ngớt.
Đang ngồi trên hàng ghế đầu, Ngao bỗng dè dặt đứng lên khi ông Nghĩa chạy đến ôm chặt lấy mình. Ngao nghẹn ngào ấp chặt hai bàn tay thô cứng, nhưng nóng ấm của mình lên đôi tay ông Nghĩa vẻ biết ơn.
Có tiếng khóc sụt sịt và đôi bàn tay khác cũng ôm lấy ngang lưng. Ông Nghĩa thấy lạ lùng, rồi chợt nhận ra đó là Hiền vợ Ngao. Ông hỏi vẻ lạ lẫm:
- Ồ. Hiền cũng có mặt ở đây ư?
- Vâng. Em... cháu…
Hiền, vợ Ngao lúng túng:
- Vâng... em cảm ơn bác. Cảm ơn bác nhiều lắm. Bác là cứu tinh của vợ chồng em. Bác đã “cải tử hoàn sinh” cho anh Ngao, thật tội nghiệp và khổ đau cho anh ấy nhà cháu.
Nghe Hiền nói mãi lời ân huệ, ông Nghĩa vội gạt đi.
- Là anh em không phải nói những lời như thế. Ông Nghĩa tỏ ra thân mật hơn: “Hai đứa chúng bay tin tưởng đi. Anh hứa sẽ giành lại những gì đã mất mát cho Ngao.”
***
Biển trưa.
Có tới hơn chục người còn đang rồng rắn, đứng vây quanh vợ chồng Ngao.
Buổi ấy, đại diện lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã vùng biển mời Đại tá Trương Văn Nghĩa cùng vợ chồng Ngao ở lại làm khách, cùng nâng cốc, ăn với nhau bữa cơm thân mật.
Trong gian quán nhìn ra biển cả trước mặt, cuộc gặp gỡ hàn huyên thật say sưa ấm áp.
Ngao chẳng biết vui hay buồn. Dường như, suốt buổi anh chỉ ngồi lặng im thi thoảng mới trả lời đôi câu, mắt dõi nhìn con sóng đang đu đưa bên bờ vắng.