Đ
ã thành thói quen, mỗi chiều khi mặt trời vừa lặn xuống phía Tây, Ngao từ mặt biển nhao lên bờ, nhìn xung quanh đã chìm vào màn đêm dày đặc. Dọn dẹp, ăn uống xong bữa tối, do mắt bị thương vì thế mà anh không còn tinh tường nữa, với lại anh cũng không thích xem ti-vi. Anh ôm lấy chiếc đài nhỏ bằng nửa bàn tay, nằm nghe tin tức hay nghe ca sĩ ngân nga mấy ca khúc về một thời trận mạc.
Ngao sống vô tư. Anh thường chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Đã từ lâu, cuộc sống của anh như thế. “Ngao không nghĩ gì nhiều; nghĩ cũng chẳng giải quyết, làm đổi thay được gì cuộc đời coi như đã bỏ đi của mình...”
Từ buổi thủ trưởng Nghĩa tìm đến gặp Ngao, thì Ủy ban xã mời Ngao tới Hội trường họp mặt. Sau đấy, “thông tin xã” ghi âm, biên tập, cho phát “lên đài” buổi nói chuyện của ông Nghĩa về cuộc đời chiến đấu oanh liệt với chiến công hiển hách của anh. Rồi, cách đây chưa đầy một tuần, ông Nghĩa lại tìm đến nhà anh và kéo anh ra Ủy ban thông báo. Giọng ông Nghĩa khá vui. Ông bảo: “Chú Ngao chuẩn bị nhé. Việc của chú sẽ được giải quyết nay mai. Cầm chắc trong tay rồi. Không lâu nữa, khoảng mươi hôm hoặc hai tuần nữa là cùng. Sẽ có đoàn quân đội, đoàn của cơ quan Thương binh xã hội huyện, rồi tỉnh nữa về đây. Trường hợp của người lính Vũ Xuân Ngao đã động đến “thiên đình” rồi. Cả Quân khu này đang xôn xao về “cái vụ người thương binh Vũ Xuân Ngao” rồi đấy.”
Ngao vắt tay lên trán, thoáng nghĩ rồi chìm vào giấc ngủ khi nào không biết.
Sáng sớm, theo lệ quen anh bật dậy vào lúc tinh sương.
Từ buổi về làng, trở lại những ngày sống với vợ con, biển là nơi giải sầu làm cho anh quên đi khổ đau, tủi nhục. Càng nghĩ anh càng bám lấy sông, lấy biển.
Rồi, trong thầm lặng anh có chút vui riêng. Biển Nhật Lệ quê anh thật đẹp. Năm nay ơn trời được mùa cua biển nổi.
Vào đêm trời sáng trăng, cua biển ọp ọp chẳng có thịt nhiều. Nước cua luộc lên nhạt thếch không ngọt, muốn ăn cua ngọt nhiều thịt, chắc nạc thì phải chọn cua đêm tối trời. Theo quy luật của mùa cua nổi trên sông, trên biển, nó từ đâu đổ về thì chỉ có Ngao mới hiểu.
Gia đình Ngao đã ba đời bám biển và sông để sống. Ngao chỉ biết lấy lao động làm vui.
Dịp này, đang ào ạt vào mùa nước nổi; cua biển nối đàn đi theo dòng nước, xô đổ vào những luồng sông.
Ngao cặm cụi làm được đồng nào thì đưa cho vợ tích góp. Biển đã nuôi sống vợ chồng Ngao, nuôi cái Hàu, đứa con gái đang theo học ở một trường trên tỉnh.
Đêm nay là đêm ba mươi của tháng. Một đêm thu. Ôi! Một đêm hàng ngàn binh đoàn cua tấm tràn về, diễu hành nhiều quá đỗi. Cua đi điệp điệp trùng trùng, cua chồng lên nhau đen đặc như đám mây dưới nước, cua làm Ngao mê man mụ mị. Ngao đứng nhìn cua đang dồn về phía Ngao vẫy gọi. Cua như trêu ghẹo, thách thức anh...
Ngao ngỡ mình giống như bị “ma làm”. Một dòng thác cua như đang nhằm vào anh mà tấn công, hăm dọa.
Một mình Ngao mê mải buông lưới. Khi cua tấm đã dồn vào lưới túi, đáy đựng đã quá tải, phút không ngờ, nước triều cường dâng lên quá mạnh. Bỗng dòng chảy ở đáy sông cuốn mạnh. Ngao hụt chân hẫng ngã chúi người đi.
Chân Ngao bị bật lên không còn chạm đất nữa. Ngao huơ tay chới với, miệng muốn hét lên tiếng kêu cứu, nhưng cổ họng lại câm chặt. Cái đáy lưới cua tấm như đuôi con trăn khổng lồ gặp nước, xoáy quanh, cuốn chặt người, bó chặt chân tay Ngao chìm xuống. Ngao ngã nhoài như người bị trói. Ngao giống như người chết đứng giữa những vòng lưới, đang cuộn vùi Ngao chìm nghỉm xuống tận đáy sâu… chỉ vài phút khủng khiếp, Ngao đã bị ngạt thở. Ngao chịu chết thê thảm giữa những vòng lưới cua quấn chặt.
Ngao chết, không một tiếng kêu than; không một ai có mặt và biết để cứu anh.
***
Hàu, cô con gái về nhà thăm bố mẹ nhân ngày nghỉ Chủ nhật. Hàu vui vì biết tin bố mình sẽ được “minh oan, được Quân đội và Nhà nước làm trả lại các chế độ chính sách ưu đãi.”
Về thăm quê, Hàu hi vọng sẽ có một ngày một đêm được ở bên bố mẹ, được tâm tình và sẻ chia với người bố đã gần hai chục năm chịu cay đắng khổ đau. Rồi, ngày mai như mọi lần, trước khi trở lại lớp học, Hàu sẽ lại rụt rè, cảm thương, xòe tay xin tiền bố để nộp cho nhà trường với các khoản đóng góp.
Về nhà tìm bố, nhưng bố bận đi thả lưới cua. Một đêm vắng bố. Hàu chỉ mong trời mau sáng, Hàu sẽ gặp bố. Cô sẽ khoe chuyện bác Nghĩa “thủ trưởng cũ” của Ngao vừa báo tin vui mới nhất với Hàu về những đãi ngộ mới sẽ được hưởng của bố. Hàu sẽ khoe, cuộc thi cuối khóa với thành tích xuất sắc mà Hàu vừa giành được!
Hàu đợi bố, Hàu kiên nhẫn ngồi chờ ở nhà đến hai tiếng đồng hồ mà vẫn không thấy bố đâu.
Nóng ruột, chân trần Hàu ôm tay ngang bụng rồi chạy một mạch ra biển. Hàu ngắm nhìn mọi ngả. Nhưng, lạ chưa bãi biển vắng tanh không một bóng người. “Quái nhỉ. Bọ ơi. Bọ ơi...” - Hàu cất tiếng gọi.
Không một tiếng trả lời. Hàu thủi thủi thả từng bước một mình. “Bọ đâu? Bọ đang làm ở quãng nào trên biển?”
Hàu chạy đi chạy lại mấy vòng. Vẫn không thấy gì. “Hay là bọ ở cửa sông?”
Hàu chạy đến căn lều lụp xụp đang trơ ra trước gió. Căn lều lạnh lẽo chẳng có gì ngoài cái chõng tre với cái chăn bộ đội gấp gọn, vứt trên đầu chõng. “Vậy bọ Ngao đi đâu nhỉ?”
Hàu nhìn xuống đầu sông nơi tiếp giáp với cửa biển, chợt nhận thấy, cách đó không xa hai cái càng cộng lưới đang vật vờ mặt sóng. Mái tóc ngắn lấp xấp, lòa xòa trong con nước phập phồng.
- Bọ ơi! Bọ ơi! Bọ... đúng, bọ của Hàu rồi. Bọ ơi...Bọ ... ơi!
Giọng Hàu bỗng nghẹn tắc. Một linh cảm nào đó đã mách bảo cho Hàu biết là đã có việc chẳng lành. Hình như bọ Ngao đã bị sóng cuốn chìm.
- Bọ ơi! Bọ ơi! Ới làng nước ơi! Ới bà con ơi! Cứu... cứu bọ tôi với! Có ai ở đây không? Cứu... cứu bọ tôi với! Trời ơi! Cứu cứu bọ tôi!
Sau tiếng la hét rất nhanh, Hàu láng máng nghe có tiếng người bỗng từ đâu truyền nhau vọng lên cùng kêu to:
- Có người chết đuối! Anh em ơi. Có người chết đuối..!”
Hàu vừa chạy vòng quanh, vừa la hét sợ hãi... chưa đầy ba phút sau, rất đông người làng chài đều đổ ra cửa sóng.
Ai nấy đều lạ lùng, đau xót. Nhiều tiếng thét, kinh hãi vang lên:
- Trời ơi. Vũ Xuân Ngao.
- Anh Ngao bị chết rồi.
- Ngao bị sóng và lưới cuốn chìm.
- Nhiều cua quá.
- Lưới nặng quá.
Thì ra, cua nằm đầy đáy lưới. Nước biển chảy mạnh. Ngao sa chân bị lưới cuốn vùi ngạt thở, chết.
Bờ biển bỗng ồn ào đen đặc. Rất đông người làng biển cùng ùa nhau xuống vùng sóng dữ. Họ kéo lưới vớt Ngao lên. Họ gỡ ra bốn năm vòng lưới của cái đáy dài đang cuốn tròn, bó chặt, mới gỡ anh ra được.
- Đau xót quá! Tang thương quá bà con ơi!
- Phúc họa liền nhau như thế này đây… đau quá… đau quá.
- Anh Ngao vừa được giải quyết chính sách. Vài ngày nữa cấp trên sẽ về trao chế độ cho anh ấy.
- Vậy à?
- Thế mới đau đớn chứ...
- Vậy là mất hết?
- Đúng thế, giữa những tiếng than vãn cho số phận hẩm hiu, chua xót của Ngao, mấy dân chài túm tụm bế anh đặt vào trong căn lều nhỏ che mưa nắng của anh, nơi thường ngày Ngao từ biển trở về làng quê bám biển.
Được tin dữ chẳng hiểu từ lúc nào Hiền, người vợ của Ngao cũng đã tìm đến. Hiền lao đến, ôm chặt lấy Hàu, cô con gái. Rồi, cả hai mẹ con cùng lăn xuống đất, ôm lấy thi thể Ngao khóc như mưa như gió.
- Nào, bình tĩnh nào!
- Nào, chị Hiền...
- Nào hai mẹ con nữa...
- Hãy dịu lòng! Hãy lui ra xa một chút! Hãy để mọi người gỡ lưới, cứu Ngao đã, chị Hiền...
- Nào xê ra chút đi!
Nói mãi không được, người ta liền kéo hai mẹ con Hiền đang mê man, bốn bàn tay cấu cào lên cát. Vừa lúc đó, lại tiếng kêu sửng sốt, hét lên:
- Nguy rồi! Ngất xỉu rồi!
- Hai mẹ con Hiền ngất xỉu rồi!
- Cấp cứu! Nhanh lên, cấp cứu! Cấp cứu!
Nhìn mẹ con Hiền lả đi trên đất, mắt nhắm chặt, mặt tái nhợt, ai nấy cuống lên lo sợ. Họ bế mẹ con Hiền vào căn lều, lấy dầu xoa rồi làm động tác hô hấp. Nhóm người khác mải mê lo phá lưới, gỡ được xác Ngao ra.
Họ đặt Ngao nằm lên tấm chiếu.
Theo lệ làng, người chết đuối phải được đặt chỗ làm đám tang ở ngay nơi xảy ra cái chết.
Phải đến non một giờ trưa hôm ấy, khi mua được chiếc quan tài đóng vội, còn ướt mùi sơn màu vàng, người ta mới làm xong các thủ tục cho người chết theo lệ người vùng biển. Lúc chuẩn bị nhập liệm, đưa xác Ngao vào quan tài, người ta cắt lấy tấm lưới gần đáy để có mắt lưới dày hơn, lót vào quan tài để sau này bốc mộ khỏi sót các mảnh xương. Tấm lưới rộng, trùm lên cả người Ngao. Ở trong quan tài, lưới còn ướt thơm mùi cua biển. Khi Ngao đã nằm gọn trong quan tài rồi một ngư chài lâu năm còn đắp thêm cho anh miếng lưới phủ lên phía mặt ngoài quan tài nữa.
Bởi Ngao là người lính, người “anh hùng” của biển nên họ phủ lên một tấm lưới màu đen trên quan tài, coi như thể hiện sự thiêng liêng đặc biệt đối với Ngao.
Phút chốc, như có ma lực, có sự linh ứng nào đó của thiên địa cao dầy, mọi người thấy lạ. Mặt nước biển bỗng trắng bởm. Bầu trời đen kịt. Cơn giông tháng Tám đùng đùng nổi dậy. Gió xoáy cuốn cát bay tới tấp. Căn lều nghiêng ngả. Cả tấm lưới phủ lên quan tài bỗng bay lên, mất hút trên luồng gió mạnh của tầng không.
Làng biển truyền nhau tin đồn, Ngao, “Người quỷ,” người kì hình, dị tướng ấy thiêng lắm.
Làng biển kéo về dự đám tang của Ngao đông nghịt. Có lẽ, từ xưa đến giờ chưa có đám tang nào lạ lùng vậy. Họ thương Ngao, một người lính ba lần oanh liệt lập công, là “Dũng sĩ diệt Mỹ” đã ba lần bị báo tử. Một người thương binh hạng nặng, lại trắng tay, gần hai mươi năm bị người đời lãng quên, phải sống lấp vùi nơi đảo vắng...
Đám ma Ngao được nhiều người thương cảm rơi khá nhiều nước mắt. Nhiều người không biết Ngao, nhưng họ vẫn không cầm được dòng lệ. Họ khóc cho Ngao vì ngao phải chịu nhiều đau khổ. Họ khóc cho họ, sao nỡ để lạnh tanh nhân nghĩa tình đời. Họ khóc cho một kiếp người.
Ngao chết, được an táng trên đảo vắng cách nhà Ngao, theo đoạn đường mòn vòng vèo, cơ độ non trăm mét.
Vòng hoa, rồi những cánh hoa lẻ phủ đầy mộ Ngao, nom giống một quả đồi.
Mấy ngày liền, làng biển đồn nhau Ngao thiêng lắm.
Những bó hương cắm trên mộ Ngao nhiều vô kể. Chân nhang mấy lần bị hóa. Đêm, khói nhang bốc lửa, một vùng đêm lóe sáng bập bùng.