Linh hồn ở cõi khác
Người ta thường hỏi Vanga những câu hỏi như: linh hồn là gì, điều gì sẽ xảy ra sau khi chết, liệu linh hồn có tái sinh không, và nhiều câu tương tự. Những ý kiến của Vanga về bản chất của linh hồn rất đáng để tìm hiểu chi tiết hơn.
Vanga khẳng định:
Những linh hồn sống ở thế giới bên kia thường ở độ tuổi 30, độ tuổi của Chúa Giêsu. Họ có thị giác, thính giác, vị giác. Một số linh hồn sẽ giúp đỡ người sống. Và những linh hồn tốt nhất sẽ trở lại Trái Đất.
Trong Agni Yoga, phần có khả năng bất tử của con người được gọi là linh hồn. Nói “có khả năng bất tử” là bởi vì dù hiếm nhưng cũng có những trường hợp linh hồn chết. Học thuyết của Roerich nói rằng, linh hồn có bản chất phức tạp: một tinh thần siêu linh bất tử, một yếu tố năng lượng vũ trụ, chung cho mọi hình thức sống trong vũ trụ; một linh hồn đặc thù lưu giữ tất cả các đặc trưng tính cách của con người. Linh hồn lưu giữ ký ức về tất cả các kiếp sống của mỗi người, cũng là nơi lưu trữ những tích lũy của đời người về: tâm, đức, nghiệp quả.
Khi Vanga nói rằng những linh hồn ở thế giới bên kia ở độ tuổi 30, ý bà không phải đang nói về bản thân linh hồn của con người ở cõi Trung giới. Không thể nhìn và đoán độ tuổi linh hồn, bởi về mặt hình thức nó có dạng “quả cầu lửa” - được coi là hiện thân của Thượng đế, chỉ có điều là ở dạng thu nhỏ. Linh hồn là một khối vật chất và năng lượng tâm linh phát sáng. Còn cái mang dáng vẻ của độ tuổi 30 ở thế giới bên kia là lớp vỏ bọc hay nơi chứa đựng thần thức - thể vía của những người di chuyển từ cõi Trần tới đây. Thể vía của con người có các đặc điểm giống như cơ thể vật lý. Nhưng khác với cơ thể vật lý, bề ngoài của thể vía không già đi, mà “trẻ” mãi. Rời bỏ thể xác vật lý sau khi chết, thể vía đơn thuần vẫn giữ như vậy mãi. Những người thân của người vừa mới qua đời trong mơ thường thấy họ trẻ và đẹp – thực chất họ đúng là như vậy khi chuyển tới cõi Trung giới.
Tuy nhiên, không phải tất cả học thuyết của Roerich đều trùng khớp với quan điểm của Vanga về độ tuổi của người chết. Trong Agni Yoga và các giáo lý bí truyền khác, người ta nói rằng khi một đứa trẻ qua đời, thì thể vía của nó nơi cõi Trung giới vẫn sẽ ở độ tuổi thơ ấu, với hình thái của đứa trẻ và ý thức tương ứng. Thể vía của những trẻ sớm phải từ bỏ thân thể vật lý sẽ ở lại thế giới bên kia một thời gian cho đến khi tâm trí của chúng thu nhận xong những trải nghiệm ít ỏi về cuộc sống trần thế mà chúng nhận được. Rồi sau đó, chúng lại đầu thai về cõi Trần mà không phải chờ đến lúc “lớn” để đạt mức phát triển của người trưởng thành ở cõi Trung giới.
Thường những đứa trẻ chết yểu sau một, hai năm sẽ đầu thai vào chính gia đình trước của chúng, đúng bố mẹ trước, bởi vì chúng có sự gắn kết nghiệp chướng với họ và nhất định phải sống trong gia đình này. Có những trường hợp các bà mẹ bất hạnh bị mất đi đứa con bé bỏng, phải chịu đựng một cú sốc quá lớn khiến họ không còn muốn tiếp tục có con. Đây thực sự là một sai lầm quá lớn! Một người mẹ mất con có thể tìm lại đứa con ấy, nghĩa là linh hồn gắn kết về nghiệp với mình, trong lần sinh khác. Trong trường hợp này, bằng cách sinh ra một đứa trẻ, người mẹ ấy đơn giản là tạo ra một cơ thể mới, hoàn hảo hơn cho đúng linh hồn đó. Tuy điều này không phải lúc nào cũng đúng, nhưng nếu một người mẹ mất đi đứa con nhỏ mà thực sự muốn tìm lại nó, và nghiệp lực của đứa trẻ ấy cho phép - thì với sức mạnh của tình yêu thương, người mẹ ấy có thể “kéo” linh hồn đứa trẻ ra khỏi cõi Trung giới, đẩy nhanh quá trình tái sinh mới.
Độ tuổi của linh hồn
Vậy linh hồn có tuổi không? Có! Nhưng không giống như thể xác, tuổi của linh hồn có thể được ước tính từ hàng trăm ngàn đến hàng triệu năm. Tóm lại, linh hồn là đặc trưng cá nhân bất tử của một người, là duy nhất trong mọi kiếp sống của người đó.
Nhà tiên tri nổi tiếng người Mỹ Edgar Cayce trong những lần xuất thần của mình đã khám phá ra nhiều bí ẩn về những kiếp sống trước của những người đến gặp ông, và trong số họ có rất nhiều người từng là dân Atlantis. Atlantis đã tồn tại cách đây hàng triệu năm, phần lớn lục địa này đã bị phá hủy hơn một triệu năm trước, và thành trì cuối cùng của Atlantis - hòn đảo Poseidonis - cũng đã chìm xuống đáy biển khoảng 12.000 năm trước.
Trong Agni Yoga có khái niệm về “linh hồn già” và “linh hồn trẻ”. Linh hồn già là những linh hồn từ lâu đã rời khỏi trạng thái súc sinh và đã trải qua nhiều kiếp luân hồi; còn linh hồn trẻ là linh hồn vừa chuyển từ cõi súc sinh sang trạng thái con người, và mới trải qua một vài kiếp luân hồi. Linh hồn càng già, sự tích lũy tri thức, luân lý đạo đức và tâm linh càng lớn, và theo nguyên tắc, khả năng sáng tạo càng cao.
Trong lá thư ngày 31 tháng 8 năm 1936, E.I. Roerich đã viết:
Chính độ mềm yếu trong tính cách sẽ cho thấy mức độ non trẻ tương đối của linh hồn. Linh hồn già biết mình muốn gì, và thường rất kiên định trong các quyết định và mục tiêu của mình.
Trải qua nhiều lần luân hồi chuyển kiếp, những linh hồn già có được nhiều kinh nghiệm sống và tích lũy sáng tạo. Nếu hướng Thiện thì sớm hay muộn họ cũng sẽ đạt đến sự hoàn thiện tâm hồn và trở thành những bậc tu hành vĩ đại, sau đó thành các bậc thánh nhân (hoặc, nói như người phương Đông, là những vị La Hán). Còn nếu một người chọn con đường Ác và trải qua các kiếp sống trong sự tàn bạo, người đó sẽ trở thành tay sai của các thế lực xấu xa, những phù thủy hắc ám, đại diện cho các thế lực độc ác đối nghịch với các vị La Hán. Con đường dẫn tới vực thẳm này có thể kéo dài hàng trăm ngàn năm song những người lựa chọn con đường đó sớm hay muộn cũng đi tới kết cục gọi là chết phần hồn.
Linh hồn có chết không?
Vanga nói rằng:
Linh hồn không chết. Chỉ có linh hồn của những kẻ xấu xa thì trở nên hung dữ, và không được gọi lên thiên đường. Họ không tái sinh.
Rõ ràng nhà tiên tri cho rằng, trong trường hợp bị suy đồi đạo đức đặc biệt mạnh, linh hồn con người sẽ ngừng tái sinh trên Trái Đất và ở lại cõi Trung giới, trong các tầng thấp hơn mà các tôn giáo gọi là địa ngục.
Nhưng Agni Yoga và các giáo lý bí truyền khác lại cho rằng dù rất hiếm nhưng vẫn có trường hợp linh hồn có thể chết, đơn giản nghĩa là tiêu vong. Khi đó, đặc trưng cá nhân, nhận thức của con người, và đi kèm theo đó là toàn bộ trải nghiệm qua các kiếp sống trên trần thế của linh hồn đó đều bị phá hủy. Tinh thần của con người hoàn toàn bất tử - nó thực sự không bao giờ chết. Nếu linh hồn của một người bị chết, thì tinh thần của người đó vẫn tồn tại. Nhưng tinh thần có tính chất siêu nhiên, nó không chứa đựng thông tin về tất cả những tích lũy cá nhân của thần thức. Tinh thần của cá nhân đó sẽ tách ra khỏi linh hồn và đơn giản là “bay” vào khoảng không vũ trụ như một yếu tố siêu nhiên mà không có ý thức cá nhân.
Có trường hợp linh hồn chết không phải do con người cố tình muốn đi theo đường Ác và gây hại cho mọi thứ xung quanh, mà do sự suy thoái đạo đức cá nhân khiến người đó không có khả năng chống lại những dục vọng thấp hèn. Đó có thể là những cám dỗ trụy lạc, những cuộc say bí tỉ, sự lười biếng, mong muốn được sống bằng sự chu cấp của người khác và những thói xấu tương tự. Nếu những thói xấu này được lặp đi lặp lại từ kiếp này sang kiếp khác, thì điều này sẽ nhanh chóng dẫn con người tới sự suy đồi đạo đức, và đến một lúc nào đó, ý thức và linh hồn sẽ bị hủy hoại.
Sự tiến hoá của linh hồn
Linh hồn đến cõi Trần thế của chúng ta để làm gì? Để trở nên hoàn hảo hơn. Một hành tinh vật chất với nhiều năng lượng và điều kiện tồn tại được bộc lộ rõ sẽ là nơi phù hợp nhất cho sự tiến hóa của linh hồn và sự phát triển mọi phẩm chất đạo đức, tinh thần và trí tuệ của con người.
Với mỗi kiếp sống mới, thần thức càng thu thập được nhiều kiến thức và kinh nghiệm hơn, càng trở nên hoàn hảo hơn. Đó chính là quá trình tiến hóa. Vanga nói:
Khi con người chết đi thì chỉ là thân xác chết mà không phải linh hồn. Linh hồn vẫn tiếp tục phát triển và đạt được trạng thái cao hơn. Quá trình này diễn ra kiểu như thế này: đầu tiên bạn chết - giống như kẻ mù chữ, sau đó là người có học, tiếp đó là người có trình độ học vấn cao, rồi tiếp sau nữa là nhà khoa học, v.v.. Đây là chính là đường đi của linh hồn...
Linh hồn đến từ đâu và đến như thế nào
Một câu hỏi thú vị nữa là linh hồn tái sinh vào cơ thể đứa trẻ bằng cách nào? Khi nào quá trình đó diễn ra? Vanga trả lời câu hỏi này như sau:
Linh hồn từ đâu đến? Linh hồn đến từ bầu trời, từ không gian vũ trụ, theo tia sáng mặt trời và nhập vào đứa trẻ trong bụng mẹ. Đứa trẻ bắt đầu sống một cuộc sống độc lập, mặc dù dây rốn chưa cắt.
Điều đó xảy ra vào lúc nào, khi nào tia sáng này xuất hiện? 21 ngày trước khi đứa trẻ chào đời. Chúng ta không thể biết chính xác linh hồn đến bằng cách nào, nhập vào cơ thể người ra sao, nhưng nếu điều này không xảy ra, đứa trẻ sinh ra sẽ chết.
Elena Ivanovna Roerich lại đưa ra ý kiến khác về vấn đề này. Trả lời câu hỏi của một người cộng sự về việc phá thai, bà đã viết về việc tái sinh của linh hồn như sau:
Bạn đã đề cập đúng tới vấn đề nạo phá thai. Vấn đề này rất thức thời vì hiện nay nó được đề cập trong rất nhiều ấn phẩm rẻ tiền và thậm chí là với sự khuyến khích của các mục sư, một số người trong số đó công khai ủng hộ việc phá thai.
Tôi sẽ trích dẫn vài dòng từ Học thuyết: “Linh hồn nhận được sự kết nối với bào thai vào thời điểm bào thai bắt đầu hình thành. Linh hồn bắt đầu đi vào bào thai từ tháng thứ tư của thai kì, khi các dây thần kinh và tế bào não bộ đầu tiên được hình thành. Cột sống định hình giúp linh hồn tiến thêm một bước trong quá trình trưởng thành. Thời điểm đứa trẻ chào đời rất đáng chú ý, khi đó thần thức bùng lên mạnh mẽ rồi hòa vào cơ thể. Thậm chí có trường hợp phát thành tiếng. Việc làm chủ toàn bộ cơ thể đạt được vào năm thứ 7 trong cuộc đời của đứa trẻ.” Người ta cũng nói rằng “đói cần ăn, khát cần uống, linh hồn cần tái sinh cũng vì thế, bởi chỉ có vật chất mới đem đến những xung lực mới.” Do đó, không khó để có thể tưởng tượng linh hồn phải chịu bao nhiêu đau khổ khi đã sẵn sàng cho việc tái sinh lại bị buộc phải chấm dứt cuộc sống vừa mới bắt đầu, hay thậm chí là ngăn chặn sự ra đời của linh hồn được hấp dẫn tới bởi nghiệp lực. Những bậc cha mẹ thiếu hiểu biết và vô đạo đức đã tự tạo ra cho mình một nghiệp quả vô cùng nặng nề khi phá thai.
E. I. ROERICH
Trích lá thư ngày 19/06/1933
Tái sinh
Trên cơ sở khả năng thấu thị của mình, Vanga khẳng định rằng tái sinh là hoàn toàn có thực. Bà thường nói về tái sinh và về thế giới bên kia với người bạn lâu năm của mình, Giáo sư D. Filipov. Theo hồi ký của ông, Vanga thậm chí có lần còn nói với ông rằng, kiếp sống trước, bà đã là con gái của Pha-ra-ông và có một em gái. Trong kiếp sống mới, mẹ của bà - vợ của Pha-ra-ông, đã sống nhiều năm ở Nhà thờ Đức Bà Paris. Có một lần, linh hồn của người mẹ đó đã gọi Vanga đến Paris để gặp mặt...
Rõ ràng là Vanga chưa bao giờ rời Bungari để đi tới bất cứ nơi nào. Trên thực tế, bà cũng không mong muốn điều này. Chỉ duy nhất một lần trong đời, nhà tiên tri có mong muốn đến Paris để thăm Nhà thờ Đức Bà. Lý do tại sao bà mơ ước đến thăm Nhà thờ Đức Bà Paris đã được tiết lộ rõ sau cuộc nói chuyện của bà với nhà văn L. Georgiev (điều này cũng được ghi chép lại trong hồi ký của giáo sư Filipov). Vanga nói với nhà văn về một giấc mơ của mình:
Tôi mơ thấy Đức Mẹ Đồng Trinh và Người nói: “Hãy đến Paris vào ngày 2 tháng Năm. Hãy tìm Nhà thờ Đức Bà, và ở đó, cạnh bức tượng bên phải, một nữ hoàng của Pha-ra-ông sẽ nói chuyện với linh hồn của con.” Người đó sẽ nói gì với tôi thì Đức Mẹ không thông báo. Nhưng tôi biết rằng tôi phải đến Paris.
Rồi Vanga mô tả thủ đô nước Pháp - một nơi hoàn toàn xa lạ với bà, gọi tên những con phố, những quảng trường cùng các điểm tham quan chính trên đất Pháp. Nhưng tiếc là ước mơ của bà không trở thành hiện thực. Lúc đó, chính quyền Bungari đã không cho phép Vanga ra khỏi nước này. Tuy rằng sau này không còn ai cản trở bà ra nước ngoài nữa, nhưng Vanga nói rằng mẹ của bà lúc này đã chuyển đi chỗ khác, nơi nào đó ở miền Nam nước Pháp.
Tuy nhiên, Vanga có lẽ không chỉ nhớ kiếp sống khi bà là con gái của Pha-ra-ông. Người thân của Vanga còn nhớ một trong những câu nói khó hiểu nhất của bà:
Tôi có ba cái tên. Một là Vanga, hai là Petka, còn cái tên thứ ba thì chưa ai biết cả.
Petka là tên người ta gọi một vị thánh sống vào thế kỷ XI của Bungari - được biết đến ở Nga là Thánh Paraskeva. Người ta biết rằng Vanga rất yêu quý, tôn thờ Thánh Petka và nhà thờ mà bà tự bỏ tiền túi ra xây ở Rupite, nơi bà sống, cũng được đặt theo tên Thánh Petka.
Ai sẽ tái sinh và tái sinh như thế nào
Nhà tiên tri Bungari cho rằng - hay ít ra những lời của bà được những người xung quanh hiểu như vậy - chỉ có linh hồn của những người có đạo đức-tinh thần tốt nhất mới được tái sinh ở trần thế để hoàn thành sứ mệnh của mình từ kiếp trước.
Những lời của Vanga về tái sinh như sau:
Sự tái sinh là có thật, nhưng nó không xảy ra với tất cả các linh hồn. Chỉ những linh hồn tốt nhất và thiện lành nhất mới được trở lại Trái Đất.
Phần lớn con người cõi Trần đều tái sinh; nhưng tiếc rằng không phải tất cả trong đó đều là những người tốt nhất như lời Vanga nói. Linh hồn của những người chậm tiến, thô lỗ, ích kỷ cũng quay trở lại trần thế để trong những kiếp sống tiếp theo phải gánh chịu những nghiệp báo do tội lỗi của bản thân đã gây ra. Họ thường đầu thai thành những trẻ tàn tật, trẻ mồ côi ngay từ thời thơ ấu, là tầng lớp nghèo nhất trong xã hội, sinh tồn khó khăn. Những kẻ trở nên giàu có trong kiếp trước bằng cách không trung thực, những quan chức tham nhũng và những tên trộm cắp chuyển sang kiếp này sẽ trở thành người nghèo khổ, bất hạnh, không những phải làm việc lao động khổ sai kiếm lấy những đồng tiền rẻ mạt, mà còn phải gánh chịu sự sỉ nhục và áp bức bóc lột thường xuyên của tầng lớp những người giàu có, quyền lực giống như họ trong kiếp trước.
Rất nhiều bất hạnh đổ dồn lên đầu “những người phải trả nghiệp”, nhưng tại sao thì họ không hiểu được, bởi vì họ không biết về luật luân hồi và nhân quả nghiệp báo. Trong một cuốn sách triết học xuất bản vào thế kỷ XIX, người ta nói rằng nếu các thành viên của Quốc hội Anh mà biết rằng vì họ đã áp dụng những điều luật bất công, gây tổn hại tới người nghèo, và theo luật nhân quả, kiếp sau họ sẽ sinh ra ở những khu phố nghèo nhất Luân Đôn, thì kiếp này họ đã cố gắng để làm cho cuộc sống của những người dân nghèo khổ nhất ở đất nước của họ bớt khó khăn.
KIẾP TRƯỚC
Vanga nói về tái sinh
Mặc dù Vanga biết về tái sinh và nếu muốn thì bà có thể “nhìn thấy” kiếp trước của một người, nhưng bà không thích kể cho mọi người về kiếp trước của họ, ngay cả khi người ta hỏi bà về điều đó.
Vanga từng nói rằng:
Rất nhiều người hỏi tôi: “Xin hãy nói cho tôi biết, kiếp trước tôi là ai?” Tôi trả lời: “Thế ai nói cho anh là anh có kiếp trước?” Những người khác lại hỏi: “Kiếp sau tôi sẽ ra sao?” Tôi nói với họ: “Từ đâu mà bạn biết bạn sẽ có một kiếp khác? Tốt hơn hãy nghĩ về hiện tại, làm thế nào để trở nên tốt đẹp hơn.”
Vanga rõ ràng đã cố gắng làm cho mọi người hiểu rằng không cần phải suy nghĩ về kiếp trước hay kiếp sau, mà nên nghĩ về cuộc sống hiện tại. Các tác giả của học thuyết Đạo đức Sống cũng có quan điểm tương tự về vấn đề này. Học thuyết của Roerich cho rằng nên bớt suy nghĩ về kiếp trước và nghĩ nhiều hơn nữa về cuộc sống hiện tại. Những người sáng lập ra Agni Yoga nhấn mạnh thực tế Tạo hóa không bỗng nhiên lại giấu đi những kí ức về kiếp trước. Kiến thức này chỉ vô hại cho sự phát triển tâm linh với những người đã chuẩn bị tinh thần, nhưng những người như vậy rất hiếm. Nếu những người có trình độ phát triển thấp biết được kiếp trước của bản thân, thì điều đó không mang lại cho họ điều gì tốt đẹp cả. E.I. Roerich giải thích điều này như sau:
Thế này nhé, nói tới tái sinh thì việc biết trước điều này rất có hại cho phát triển tâm linh; cho nên nó đã được che giấu một cách khéo léo bởi Tạo hóa, vốn luôn tuân thủ luật GIÁ TRỊ. Thường thì việc biết về các kiếp của mình có thể cản trở quá trình tiếp tục đi lên, bởi việc này hoặc có thể khiến tinh thần rơi vào vực thẳm tuyệt vọng trong trường hợp phát hiện ra sự lừa gạt trong kiếp trước, hoặc gia tăng lòng tự mãn, một trong những trở ngại lớn nhất trong quá trình học hỏi. Do đó, cần phải tôn trọng bức màn che chắn khôn khéo những điều bí mật, nhất là khi trong quá trình phát triển lên cao, linh hồn sẽ tự mình vén bức màn bí mật này, thấy được các kiếp sống của mình và thấu hiểu ý nghĩa của chúng. Chúng ta có thể thường gặp phải những kẻ không trung thực hoặc những kẻ tự huyễn hoặc bản thân, cho rằng mình là những hóa thân vĩ đại. Bởi vậy có biết bao nhiêu người như Julius Caesar, Thiếp Mộc Nhi, Aspasia, Nữ hoàng Semiramis, Cleopatra, v.v. đã từng đến Trái Đất của chúng ta.
E.I. ROERICH
Trích bức thư ngày 12/04/1935
Vanga cũng đã nói về những kiếp trước với nhà văn V.M. Sidorov và người bạn trẻ tuổi của mình là Lyudmila Zhivkova. Trong tác phẩm Lyudmila và Vangelia, V.M. Sidorov đã dẫn một đoạn trò chuyện của mình với Vanga, trong đó Lyudmila Zhivkova đóng vai trò vừa là người cùng trò chuyện vừa là người phiên dịch.
Khi viết về Bungari - Vanga đề nghị tôi - hãy nhớ tới Lyudmila.
(Quả thực, tôi đã cố gắng làm theo lời khuyên này khi viết cuốn sách.)
– Hai người đã được gắn kết trong quá khứ - Vanga nói với chúng tôi - Cả hai đều cùng ở thời Đức Thánh Sergius. Trong tu viện của ngài.
Bỗng bà kêu lên khi thấy hình ảnh quá khứ tái hiện:
- Ôi, ôi! Tôi nhìn thấy cô - bà nói với Lyudmila - Cô là một sĩ quan. Cô là linh hồn Nga. Quân đội tiến lên như lửa, còn binh lính là lưỡi lửa. Ôi ôi, linh hồn Nga đi đầu và không sợ gì cả.
Và bà lại nói tiếp với Lyudmila:
- Cô sẽ luôn ở cùng với nước Nga. Đối với cô, nước Nga là tất cả. Cần phải xuất hiện những phụ nữ khác, giống cô. Họ vẫn chưa đến từ thiên đường. Nhưng họ sẽ sớm đến và giúp đỡ Trái Đất.
Cuộc trò chuyện này diễn ra trong căn phòng hoàng gia cũ gần thành phố Sofia một năm sau cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi. Và đó không ngờ lại là cuộc nói chuyện cuối cùng mà chúng tôi ghi lại được bằng máy ghi âm.
V.M SIDOROV
Lyudmila và Vangelia
Kí ức về kiếp trước
Mặc dù trên thực tế, kí ức về kiếp trước của phần lớn mọi người đã bị quên lãng, song đôi lúc ở nhiều nước khác nhau trên thế giới vẫn xuất hiện những người mà do những nguyên nhân nào đó có thể nhớ được các sự kiện trong kiếp trước của mình. Thông thường, tác động chính khơi lại những ký ức này là do trải qua một lần đau ốm nghiêm trọng hoặc chịu một cú sốc mạnh. Sau cú sốc về thể chất và tinh thần, trong siêu thức của một người dường như có một số rào cản đã bị phá vỡ, và người đó nhận được các thông tin về kiếp trước của mình cùng với những thói quen đặc trưng vốn có trong kiếp trước, ví dụ như kiến thức về ngôn ngữ của đất nước mà người đó đã từng sống.
Những trường hợp thú vị về việc đánh thức kí ức của kiếp trước được E.I. Roerich mô tả trong những lá thư gửi các cộng sự của bà.
Các tờ báo địa phương của chúng ta có hàng loạt bài viết về một trường hợp rõ ràng khẳng định thuyết tái sinh. Đó là chuyện một bé gái tám tuổi sống ở Delhi đã nhớ lại tiền kiếp của mình. Ngôi nhà của cha cô, một thương gia, hiện đã trở thành nơi người ta sùng bái. Mọi người ở trên khắp Ấn Độ đều đổ dồn tới xem cô bé này, người mà trong mắt họ là hiện thân của nữ thần Devi, bởi vì liệu có ai ngoài thần Devi có thể nhớ được tiền kiếp của mình? Ngay từ khi bốn tuổi, cô đã kể về cuộc sống quá khứ của mình, nhưng người thân của cô không chú ý đến điều này cho đến khi hiệu trưởng cũ của trường học tại địa phương biết chuyện. Ông rất quan tâm đến những thông tin bất thường mà cô bé đưa ra và quyết định kiểm tra. Cô bé Shanti đã cho ông biết tên của chồng và những người thân cũ của mình cũng như tên thành phố nơi cô đã sống, miêu tả các địa danh cùng với rất nhiều chi tiết về cuộc sống của mình trước đây, như việc cô bị chết sau khi sinh con trai được mười ngày. Thầy hiệu trưởng đã ghi chép lại tất cả rồi gửi các thông tin đó tới địa chỉ được cô bé cung cấp và vô cùng ngạc nhiên khi nhận được câu trả lời từ người chồng cũ, và sau đó chính anh ta cùng với cậu con trai giờ đã 11 tuổi đến gặp người vợ cũ. Cô bé ngay lập tức nhận ra họ và khóc rất lâu khi nhìn cậu con trai. Cô nhắc một vài câu chuyện khi họ sống cùng nhau và được người chồng xác nhận. Cô cũng nói với anh rằng ở một góc nhà anh ở Muttra, cô đã chôn 100 rupee để dành dâng cúng nữ thần cầu phúc cho con trai cô, đứa trẻ mà cô sinh ra trước khi chết. Vì cô bé khăng khăng yêu cầu được đến thành phố nơi cô đã từng sống, đến căn nhà cũ để gặp cha mẹ mình trước đây, nên người ta quyết định thực hiện mong ước đó. Nhưng tất cả đều thống nhất không báo với cô khi tàu đến ga của thành phố này. Cùng đi với cô bé là một nhóm những người quan tâm tới hiện tượng đặc biệt này. Ngay khi đoàn tàu vào ga Muttra, cô bé đã sung sướng nhận ra và mừng quýnh lên. Sau đó, họ thuê một chiếc xe ngựa kéo và người đánh xe được yêu cầu phải làm theo hướng dẫn của cô. Những người đi cùng muốn xem cô bé có thể nhớ được những gì về vùng này. Không chút do dự, cô chỉ hướng đi và tất cả các khúc ngoặt, đồng thời cô còn nhận xét cả những thay đổi đã diễn ra trong 11 năm qua kể từ khi cô qua đời, tất cả đều tỏ ra khá chính xác. Đến đường cụt, cô bé nói rằng cần phải xuống xe và đi theo con hẻm nhỏ dẫn đến ngôi nhà của mình. Giữa đám đông những người đến xem, cô ngay lập tức nhận ra tất cả người thân cũ, gọi chính xác tên họ. Đến nhà, cô liền đi vào phòng nơi cô đã chôn tiền, và tìm thấy ngay chỗ đó. Báo chí còn dẫn nhiều chi tiết được cô bé kể lại, và tất cả đều được xác minh là đúng. Cô bé cũng kể rằng trước khi được sinh ra ở Delhi, cô đã ra đời ở một nơi khác, nhưng đã mất khi được hai tuổi rưỡi.
Báo chí cũng ghi nhận một trường hợp đáng chú ý khác là cô gái nông dân ở Áo. Sau một cơn sốt cao, khi khỏe lại cô bắt đầu khẳng định cô là người Tây Ban Nha, trước đây sống ở Madrid và bán rau trong chợ thành phố. Nhưng điều thú vị nhất là cô nhớ được tiếng Tây Ban Nha đồng thời cũng không quên tiếng Đức và biết rõ về việc tái sinh thật sự của mình. Sự kết nối giữa các thế giới diễn ra ngay trước mắt chúng ta, và nhiều đứa trẻ mang kí ức về những cuộc sống quá khứ sẽ đến Trái Đất.
Ở chỗ chúng tôi cũng có một gia đình có cậu con trai năm tuổi luôn nói rằng bố mẹ hiện tại không phải là bố mẹ thực sự của cậu và rằng trước đó cậu là một lạt ma1 sống trong tu viện. Cậu bé thường trốn ra khỏi nhà để tìm kiếm các tu viện, và người ta thường tìm thấy cậu vai đeo một chiếc túi nhỏ, nhằm thẳng hướng Tây Tạng mà tiến. Trong túi cậu chỉ mang những cuốn sách quý.
Trường hợp trước được đề cập đến trong tờ báo tiếng Anh Báo Dân sự và Quân sự của Ấn Độ ngày 29/10/1935.
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 12/12/1935
1 Lạt ma – cao tăng thuộc Lạt ma giáo – Phật giáo Tây tạng (Chú thích của biên tập viên).
Học thuyết tái sinh trong Kitô giáo nguyên thủy
Nhiều tôn giáo khẳng định rằng con người sống trên thế giới này không chỉ một lần, mà đến Trái Đất theo định kỳ. Điều này cũng được đề cập đến trong giáo lý Kitô giáo nguyên thủy. Học thuyết về tái sinh đã bị xóa bỏ khỏi các điều khoản căn bản (tín điều) của Kitô giáo chính thống theo ý chỉ của các đại diện nhà thờ. Học thuyết này đã gây ra cho các linh mục trở ngại nào thì chỉ có thể phỏng đoán. Nhưng trước năm 553 C.N, kiến thức về tái sinh đã có trong Kitô giáo, và tất cả các tín đồ Kitô giáo thời đó đều biết rằng họ đã từng sống ở thế giới này và sau khi chết họ sẽ lại được tái sinh trên Trái Đất.
E.I. Roerich đã viết về việc loại bỏ học thuyết tái sinh trong Kitô giáo như sau:
…Học thuyết về tái sinh được bãi bỏ vào năm 553 C.N tại Nhà thờ Constantinople II. Do đó, học thuyết về sự tồn tại của linh hồn và những tác động liên tục của nó đối với Trái Đất đã trở thành “dị giáo” trong Kitô giáo chính thống ngay từ thế kỷ thứ VI sau Công nguyên; trước thời điểm đó, nó đã được những giáo sĩ thiên về Thuyết ngộ đạo1 tiếp nhận.
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 08/10/1935
...Trong sách Phúc Âm có biết bao nhiêu khẳng định về tái sinh: chính xác là ngay trong lời của Chúa Kitô. Các cha xứ đã phạm tội lớn khi xóa bỏ điều luật này của Công lý Tối thượng ra khỏi nhận thức của các con chiên.
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 17/10/1935
1 Thuyết ngộ đạo là học thuyết triết học tôn giáo chia sẻ nhiều tín điều của Kitô giáo.
E.I. Roerich đã đề cập đến những lời nào của Chúa Kitô chứng minh rằng Ngài đã chia sẻ học thuyết cổ xưa về tái sinh? Về điều này bà đã viết trong một bức thư khác của mình:
Bạn viết rằng: “Không có gì đáng ngạc nhiên khi Đức Chúa Kitô không thấy cần thiết phải truyền đạt trực tiếp và công khai chân lý này (luật luân hồi) tới trí tuệ của con người khi mà họ chưa sẵn sàng.” Nhưng tôi nghĩ, sẽ đúng hơn nếu nói rằng mặc dù luật luân hồi là nền tảng của mọi tôn giáo cổ xưa ở phương Đông và dĩ nhiên, tôn giáo của người Do Thái cũng không phải là một ngoại lệ, nhưng vào thời của Chúa Giêsu, luật này đã bị bóp méo bởi sự can thiệp của các giáo hoàng và chỉ được lưu giữ nguyên vẹn như ban đầu trong các giáo phái riêng lẻ. Trong sách Phúc Âm, theo lời của chính Chúa Kitô, chúng ta có đủ bằng chứng về kiến thức của người Do Thái về luật này. Như trong Phúc Âm Ma-thi-ơ chương 17 câu 10- 13: “Các môn đồ hỏi Ngài: Vậy tại sao các thầy kinh luật nói rằng Ê-li-gia phải đến trước? Ngài đáp: ‘Chắc chắn là Ê-li-gia sẽ đến trước và phục hồi mọi sự; nhưng tôi nói với anh em, Ê-li-gia đã đến rồi mà họ không nhận ra người và còn đối xử với người theo ý họ. Con người cũng sẽ chịu đau đớn dưới tay họ như vậy.” Lúc đó, các môn đồ mới hiểu Ngài muốn nói về Giăng Báp-tít.
Phúc Âm Giăng, chương 9, câu 1-3: “Khi đang đi, Chúa thấy một người đàn ông bị mù bẩm sinh. Các môn đồ hỏi Ngài: ‘Thưa thầy! Ai là người phạm tội, anh ta hay cha mẹ, mà từ khi sinh ra anh ta đã bị mù?’ Chúa Giêsu trả lời: ‘Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội, nhưng qua trường hợp này người ta mới thấy công việc của Đức Chúa trời.” Thật vậy, làm sao mà người khiếm thị có thể bị trừng phạt vì tội lỗi của họ ngay từ khi sinh ra, nếu không có luật luân hồi? Vẫn còn nhiều chỗ nói rõ về luân hồi, nhưng bạn sẽ muốn được tự tìm ra chúng.
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 08/02/1934
Trong các thư của E.I. Roerich và học thuyết Agni Yoga, hiện tượng tái sinh được xem xét ở mọi khía cạnh. Trong các nguồn này ta có thể tìm được tất cả các câu trả lời thú vị và dễ hiểu cho những câu hỏi liên quan đến thuyết luân hồi.
Chúng tôi chỉ dẫn ra một số trong đó.
Tại sao cần tái sinh ở trần thế?
Có thể đặt câu hỏi: nếu linh hồn có thể tồn tại có ý thức trong cõi Tâm linh sau khi cơ thể vật chất chết đi, thì vì sao con người cần tái sinh ở trần thế? Vì sao linh hồn lại không hoàn thiện bản chất của mình trong các cõi cao hơn?
Nhưng học thuyết Đạo đức Sống nói rằng chính trần thế mới là nơi tốt nhất để con người phát triển tất cả những phẩm chất của linh hồn mình. Trần thế với những điều kiện khắc nghiệt, những xung đột cường độ mạnh trong cuộc sống, những ranh giới rõ ràng giữa không gian và thời gian, sự khác biệt rõ rệt giữa Thiện và Ác, chính là đấu trường tốt nhất để bộc lộ tất cả những đặc tính nhân cách còn ẩn giấu.
Vẫn có sự khác biệt quan trọng giữa việc sống ở cõi vật chất với việc tồn tại không thể xác trong phạm vi một thế giới khác. Trong thế giới tâm linh, con người có thể áp dụng thành công tất cả những gì mà mình đã học được nơi trần thế, nhưng ở đây, để người đó bắt đầu một điều gì mới mẻ khi chưa đạt được một mức độ phát triển tâm linh cao thì trên thực tế lại là điều bất khả thi. Chỉ có ở Trái Đất con người mới có thể tiếp nhận được những điều mới hoặc cải thiện triệt để những tập quán đạo đức cũ; còn ở thế giới bên kia, con người chỉ đi theo lối mòn đã được định hình trong quá trình sống nơi trần thế. Như E.I. Roerich viết:
Ở đó, mọi người có thể áp dụng những điều mình đã tích luỹ được nơi trần thế, nhưng để thu nhận được tri thức mới là gần như không thể nếu họ không mong muốn điều này khi còn sống ở Trái Đất. Nhưng trên Trái Đất, như trong lò luyện, các năng lượng đa dạng nhất va chạm, hút nhau, qua thanh lọc và chuyển hóa tạo thành những năng lượng hoàn hảo hơn, tinh tế hơn do tác động của ngọn lửa tinh thần được đánh thức. Từ những va chạm và kết nối bất ngờ của các nguồn năng lượng khác nhau, năng lượng mới được sinh ra, mang lại sự sáng tạo mới, những khả năng mới. Trần thế là nơi thử nghiệm, chuộc tội và sáng tạo tuyệt vời; là nơi phán xử cuối cùng, vì ở đây con người được thực hiện một sự lựa chọn vĩ đại. Hãy nhớ rằng... chỉ ở cõi Trần chúng ta mới có thể tiếp thu và đồng hóa các năng lượng mới hoặc đổi mới thành phần năng lượng của mình, hay như các nói của các Phật tử – các pháp của mình. Do đó, cần phải chào đón mỗi lần tái sinh thay vì né tránh.
Giá như mọi người biết được các Vĩ nhân đã lao động như thế nào, chấp nhận những lần tái sinh khó khăn nhất, nặng nhọc nhất, dù không nhất thiết phải làm như vậy, để cứu con người khỏi bị hủy diệt, hay bị quỷ Sa tăng bắt giữ. Vì rõ ràng đó là điều cần thiết cho con người nơi trần thế!
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 28/06/1948
Số lần tái sinh cần thiết để đạt đến sự hoàn thiện và hoàn thành chu kỳ tiến hóa của con người trên Trái Đất
Những người đã biết đến thuyết luân hồi thường nảy ra câu hỏi: linh hồn của con người cần trải qua bao nhiêu lần tái sinh để trở nên hoàn thiện và chuyển sang một giai đoạn tiến hóa cao hơn - giai đoạn trở thành La Hán, hay Thánh nhân? E.I. Roerich đã trả lời câu hỏi này như sau:
Số lần tái sinh cần thiết cho sự hoàn thiện của con người, cho sự tiến bộ tiếp theo hoặc để hoàn thành con đường tiến hóa ở trần thế, được xác định bởi khát vọng, ý chí và năng lượng của con người. Năng lượng và Ý chí quyết định Số phận và Nghiệp quả.
E.I. ROERICH
Trích thư ngày 28/6/1948
Nghĩa là, tất cả mọi thứ đều mang tính cá nhân và tùy thuộc vào tự do ý chí của con người cũng như việc người đó có mong muốn hay không mong muốn trở nên hoàn thiện. Có người cần ba mươi lần tái sinh để trở thành một La Hán, nhưng có người lại phải trải qua hàng ngàn lần mới đạt được điều đó.
Thời gian linh hồn con người lưu trú trong cõi Tâm linh giữa các lần tái sinh tùy thuộc vào ý chí và mong ước hoàn thiện của người đó. Trả lời câu hỏi bao lâu thì một lần tái sinh mới lại diễn ra, học thuyết Đạo Đức Sống trả lời như sau:
Nếu ai đó khẳng định rằng việc tái sinh có thể phải trải qua ba ngàn năm, thì người đó cũng sẽ đúng như người khẳng định là ba tháng.
Các dấu hiệu của Agni Yoga, đoạn 333
Con đường tiến hóa của linh hồn rất dài và khó khăn. Chu kỳ tái sinh, được tạo ra để biến một con người nguyên thủy hoang sơ thành một thánh nhân, kéo dài hàng triệu năm. Mục tiêu của linh hồn trong hành trình của mình là thu thập thêm nhiều kiến thức và kinh nghiệm, phát triển những phẩm chất đạo đức và tinh thần tích cực không bị mất đi cùng với cơ thể đã chết mà được chuyển giao cùng với thần thức sang dạng tái sinh mới. Linh hồn của con người hiện hữu trong các giai đoạn khác nhau, ở các quốc gia và các dân tộc khác nhau. Hóa thân nam nữ luân phiên thay đổi. Trong Agni Yoga có nói rằng với mỗi giới tính (nam hay nữ) thường có không ít hơn ba và không nhiều hơn bảy lượt tái sinh liên tiếp. Sau đó, giới tính của con người mà linh hồn nhập vào sẽ thay đổi.
Cách để trở thành thiên tài. Tái sinh và tài năng
Một trong những cảm xúc nặng nề và thấp hèn nhất trên thế giới này là đố kỵ. Có tội lỗi nào mà con người không thực hiện chỉ vì thói đố kỵ tầm thường với người khác! Lòng đố kỵ có thể khiến mọi người làm những việc hèn hạ, khủng khiếp nhất. Nhưng nếu con người biết cuộc đời này thực sự được hình thành như thế nào thì họ sẽ hiểu ra rằng cảm xúc này không chỉ là hết sức tiêu cực mà nó còn không chính đáng nữa!
Ai đó đang sống sung sướng hơn bạn? Có nghĩa là anh ta xứng đáng có được điều đó từ những kiếp sống trước. Còn nếu anh ta sống sung sướng không phải vì những thiện nghiệp của mình, mà vì sự vô sỉ và trộm cắp thì anh ta sẽ phải trả giá đắt cho điều đó, nếu không ở kiếp này thì sẽ là trong kiếp kế tiếp của mình! Và trong cả hai trường hợp đều chẳng có lý do gì để mà ghen tị! Sống trong sạch và có đạo đức - bạn sẽ có khả năng được như những người mà đôi khi khiến người khác phải ghen tị.
Còn một nguyên nhân khác dẫn đến sự đố kỵ - đó là sự ghen tị của những người tầm thường đối với những người thực sự tài năng hay thậm chí là thiên tài. Nhưng nền tảng của tài năng là gì? Phải chăng là trò đùa vô tình của tự nhiên? Hoàn toàn không! Thiên tài không phải là kết quả của di truyền, đó là kết quả từ sự lao động bền bỉ kiên trì và sự phát triển tài năng sáng tạo của con người trong nhiều kiếp trước. Bạn muốn trở thành thiên tài? Hãy làm việc chăm chỉ hơn - trong các kiếp sống sau bạn chắc chắn sẽ trở thành thiên tài!
Có lẽ đây không phải là lập luận dành cho những người luôn ghen tị. Nhưng dù sao đi nữa, thực tế vẫn là thực tế - sự tái sinh thần thức của con người là điều kiện không thể thiếu cho quá trình phát triển thiên hướng sáng tạo của con người.
Mục tiêu của luân hồi là nhằm đạt được sự hoàn thiện linh hồn, nghĩa là phát triển toàn diện tất cả các phẩm chất và khả năng tiềm tàng của nó. Trong các chu kỳ tái sinh, con người dần dần phát triển tất cả các khả năng sáng tạo vốn có của mình. Hoàn thiện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, bộc lộ tiềm năng tinh thần của mình trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống, con người tích lũy kiến thức và phát triển các khuynh hướng sáng tạo và tinh thần của mình.
Nhưng điều này không có nghĩa là một nhạc sĩ vĩ đại trong suốt quá trình luân hồi của mình chỉ luôn gắn bó với âm nhạc mà không có gì khác. Sự khác biệt trong các kiếp khác nhau của cùng một người, sự đa dạng các lĩnh vực thể hiện tiềm năng sáng tạo của linh hồn là điều kiện không thể thiếu để tái sinh.
Dưới đây là những gì được đề cập đến trong các văn bản của Học thuyết Cuộc sống về điều này:
Chúng ta có thể nói rằng nếu trải qua tất cả các kiếp tái sinh mà chỉ trở thành một nhà thơ vĩ đại thì thật là vô lý. Điều này đồng nghĩa với việc chỉ phát triển một bên tay, một bên tai hay một cái răng. Mục tiêu của Skandha (Ngũ uẩn) là tạo ra một sự kết hợp các năng lực cần thiết để phát triển một số đặc tính và tích lũy, kết tinh một kinh nghiệm nào đó. Chúng có thể được lặp đi lặp lại nếu trong kiếp tái sinh này con người chưa học được bài học. Không có sự kết hợp giống hệt nhau trong hai hoặc nhiều kiếp.
Muôn mặt Agni Yoga, tập 4, đoạn 25
Đồng thời các tác giả của Muôn mặt Agni Yoga cũng lưu ý rằng:
Những gì đạt được sẽ mãi là tài sản tinh thần không thể tước đoạt. Nhưng tất cả bốn mươi chín khía cạnh1 của thế giới vi mô của con người phải được phát triển và trau dồi. (...) Các kiếp sống khác nhau chính là để thực hiện mục đích này.
Muôn mặt Agni Yoga, tập 4, đoạn 25
1 Như E.I. Roerich nhận xét, tổng cộng con người có 49 trung tâm năng lượng.
Đó là lý do tại sao, trong quá trình luân hồi con người cần phải luân chuyển các công việc và phát triển các khả năng sáng tạo khác nhau. Theo các tác giả của Muôn mặt Agni Yoga:
Kim cương phải được mài giũa các góc cạnh, nếu không sẽ không trở thành một viên kim cương và sẽ không tỏa sáng. Mỗi kiếp tái sinh đều nhằm mục đích trau chuốt một góc cạnh nào đó. Nếu không hoàn thành được trong kiếp này thì bài học sẽ được lặp lại. Cơ thể cần phải được hoàn thiện để bộc lộ tất cả các đặc điểm của tinh thần. Nhưng cơ thể cũng mang trong mình đặc tính di truyền và nhiều đặc điểm của cha mẹ ở trần thế, và không có cơ thể nào phù hợp một cách lý tưởng với linh hồn tái sinh. Linh hồn, đặc biệt là linh hồn phát triển cao, tù túng trong lớp vỏ bọc của mình, vì nó không thể bộc lộ được tất cả những gì mà mình tích lũy. Một nhạc công tài giỏi khi đầu thai vào thân thể mới trong kiếp sống sau sẽ không còn giống như trong kiếp sống [hiện tại] này nữa, và đối với mục đích phát triển toàn diện thì đây là điều cần thiết, vì các phẩm chất mới cần phải được bộc lộ và hoàn thiện trong [từng kiếp sống] đó.
Muôn mặt Agni Yoga, tập 2, đoạn 311
Mục đích của luân hồi và ý nghĩa cuộc sống
Các tác giả của Học thuyết Cuộc sống, hay còn gọi là Agni Yoga, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu biết về sự tồn tại của luân hồi đối với sự tiến hóa tâm linh của con người và hiểu được mục đích cuộc đời mình. Câu hỏi tu từ của một nhà thơ: “Món quà phù phiếm, món quà ngẫu nhiên, cuộc sống, tại sao chúng ta lại được ban tặng?” - vẫn có ý nghĩa đối với nhiều người trong thời đại chúng ta. Nếu người ta tin rằng con người chỉ có một cuộc đời duy nhất, và không biết điều gì chờ đợi anh ta tiếp sau đó, thì cuộc sống quả thực đã mất đi ý nghĩa của nó. Nhưng biết về luật luân hồi giúp con người hiểu hơn tại sao mình hiện diện trên thế gian, nguyên do nào tạo nên hoàn cảnh cuộc sống hiện tại của mình, và điều gì đang chờ đợi tiếp theo, sau cuộc sống nơi trần thế.
Nhân cách sẽ trở nên trọn vẹn khi hiểu được ý nghĩa và giá trị của sự tồn tại nhân cách cũng như mối liên kết với Đặc tính riêng1. Sự tồn tại có ý nghĩa hay vô nghĩa và không mục đích đều tùy thuộc vào đó. Không hiểu về tái sinh, con người sẽ không thoát ra được vòng luẩn quẩn những mâu thuẫn vô lý. Người ta hiểu hạt giống mang trong mình hình thái sống của cây, nhưng không hiểu như vậy với hạt giống tâm hồn. Do đâu một nhạc công có tài năng xuất sắc trong khi cha mẹ người đó lại không có tài năng thiên bẩm gì, hay vì sao hậu duệ của thiên tài lại thiếu tài năng?
Muôn mặt Agni Yoga, tập 4, đoạn 561
1 Trong trường hợp này, Đặc tính riêng là đặc tính tái sinh bất tử của con người - linh hồn.
Ý nghĩa tiến hóa của sự luân hồi còn ở chỗ sự thay đổi liên tục thể xác, nhân cách và hoàn cảnh sống khác nhau không cho phép thần thức của con người mắc kẹt trong nếp sống quen thuộc cố định.
Luật luân hồi bảo đảm để con người không trưởng thành trong cùng một điều kiện sống. Sự thay đổi thể xác và điều kiện sống là cần thiết. Cho con người một thân thể bất tử đồng nghĩa với việc biến tâm hồn con người thành đá. Trong một cuộc sống trần gian ngắn ngủi, có rất nhiều người vẫn cố gắng trưởng thành trong các điều kiện môi trường xung quanh và hoàn cảnh sống. Ở thế giới tâm linh, tất cả những điều này đều bất biến, tựa như khối gỗ bị gắn chặt vào môi trường xung quanh. Không thuộc về thế giới này là khái niệm chỉ một trạng thái không quyến luyến các điều kiện tạm thời của cuộc sống và sự tự do của một linh hồn đang sống trong thế giới của riêng nó, tách biệt với thế giới đặc về mặt tinh thần.
Muôn mặt Agni Yoga, năm 1958, đoạn 843
Kết luận có thể rút ra từ tất cả những gì đã nói về luân hồi là: tái sinh là điều kiện tiên quyết mà thiên nhiên quy định cho sự phát triển và hoàn thiện linh hồn con người, cho sự tiến hóa vũ trụ của nó.