• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
  1. Trang chủ
  2. Nhà văn Việt Nam trong nhà tù quân xâm lược
  3. Trang 159

Danh mục
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 158
  • 159
  • 160
  • More pages
  • 173
  • Sau
  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 158
  • 159
  • 160
  • More pages
  • 173
  • Sau

Lê Vĩnh Hòa

097

  • Tên khai sinh: Đoàn Thế Hội
  • Năm sinh : 1932
  • Nơi sinh: Làng Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
  • Năm mất : 1967
  • Thời gian bị bắt, tù đày: Năm 1958, bị bắt giam tại các nhà tù Sóc Trăng, Chí Hòa, Phú Lợi… đến 1963 thì trốn thoát.
  • Tác phẩm văn học: Mái nhà thơ (Tập truyện ngắn - 1964), Người tị nạn (1973). Lê Vĩnh Hòa tuyển tập (1986).

Lê Vĩnh Hòa sinh tại Bình Định nhưng thuở nhỏ theo cha vào Nam, ngụ ở xã Vĩnh Hòa tỉnh Rạch Giá (nay là Kiên Giang) và lớn lên, công tác tại văn phòng Mặt trận Liên Việt tỉnh.

Năm 1954, sau hiệp định Genève ông ở lại miền Nam, mang tên giả Trần Văn Thành, hoạt động trong vùng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, phụ trách phong trào học sinh sinh viên Rạch Giá, Sóc Trăng.

Trước đó, mặc dù ông có nhiều truyện, thơ, bài phê bình đăng rải rác trên các báo Nhân dân miền Nam, Tiến thủ, Gió mới... nhưng mãi đến khi viết cho tuần san Nhân loại,ông mới chính thức nhập làng văn với bút hiệu Lê Vĩnh Hòa.

Tháng 10-1958, ông bị bắt, bị chế độ Sài Gòn giam trong các nhà tù Sóc Trăng, Khám Lớn Chí Hòa, nhà tù Phú Lợi… Năm năm sau ông trốn thoát khỏi nhà tù, ra vùng giải phóng và tham gia lực lượng vũ trang. Ông đảm nhận công tác văn nghệ trong quân đội, vừa viết truyện, làm báo, phần lớn những tác phẩm của ông là về đề tài đấu tranh giữa quân dân vùng bị địch kiểm soát với kẻ thù Mỹ, ngụy, một hình thái chiến tranh đặc biệt ở miền Nam những năm 1960-1970. Như đoạn dưới đây trích trong truyện ngắn Bà Nội: “Cháy nhà, mình che chòi; cháy chòi, mình che tum. Cháy tum này - con Gấm nheo mắt suy nghĩ rồi bật cười - ờ, mình che tum khác ở. Nói vậy chớ không lẽ đưa lưng cho nó bỏ bom hoài sao? Mình phải đánh lại nó chớ! Lớp đánh nó bằng súng, lớp đánh nó bằng miệng… Đánh bằng miệng tức là đánh bằng lời lẽ, đánh bằng chính trị tức là đi “trực diện” mà một khi đã đi “trực diện” thì phải làm liên tục cho nó có sức mà bắt. Còn nó bắt không hết thì phải thả cho hết mình mới chịu về.”

Lê Văn Hòa anh dũng hy sinh trong một trận chống địch càn quét khủng bố dữ dội vùng Xẻo Giá huyện Long Mỹ, tỉnh Cần Thơ, ngày 7-1-1967.

Nhà văn đã phải chịu đựng gian lao tù tội nhưng vẫn kịp để lại cho đời những dòng chữ quý giá mà ông phải đổi lấy bằng sinh mạng của mình.

Trời miền Nam còn nhuộm đầy lửa máu

Đất miền Nam nương rẫy hóa rừng chông.

Người miền Nam thề bảo vệ quê hương

Diệt quỷ Mỹ trên tuyến đầu tổ quốc…

(Thơ Lê Vĩnh Hòa, tháng 10-1964)

Ca kịch, chiếu phim trong “phòng điện ảnh” khám Chí Hòa1

1 Bài bút ký này nguyên tác có tên “Ai đâu ngăn cấm được lời ca?”, Trích trong tập Người tị nạn, truyện và ký của Lê Vĩnh Hòa, NXB Văn nghệ giải phóng- 1973.

Ba hồi gậy gõ. Tiếng hát cất lên. Hai mảnh mền từ từ vẹt qua hai phía: điệu vũ Giải phóng quân nhập thành bắt đầu. Tiếng ca vọng ra từ hậu trường sân khấu. Tiếng ca bỗng rùng rùng nổi dậy từ tứ phía. Ánh đèn vàng vọt lạnh lẽo mọi khi, đêm nay bỗng rực sáng và ấm áp dị thường. Sàn xi măng, cái chỗ ngủ quá quen thuộc, giờ đây cũng trở nên khác lạ, trang nghiêm: ánh sao lấp lánh, tiếng chân nhịp nhàng.

Người ngồi coi, trong phút chốc, bỗng vụt thấy mất đi cái nhà tù bê tông cốt sắt tám góc, bốn từng cao nghều nghệu; tạm quên đi những hàng song sắt thô lỗ và cánh cửa đen ngòm u ám đang đè nặng bên ngoài. Tiếng khóa khua rền rền như vang lên từ địa ngục, những củ mây to tướng thấm máu đen sì, cái quyện nặng nề, cặp còng chật hẹp, những chén cơm “nhân vị” đầy sạn, đất với mùi thum thủm của món mắm “duy linh”. Tất cả đều lùi lại. Trước mặt là hình ảnh huy hoàng của ngày thắng lợi vinh quang, của tươi vui phấn khởi.

Những hình tượng âm thanh đang diễn ra trước mắt, vang lên bên tai, thường gợi cho mỗi người một kỷ niệm riêng tư khác nhau. Có kẻ nhớ tới một buổi liên hoan văn nghệ đêm nào tại thị xã Cà Mau sau ngày ta tiếp quản. Có người vụt thấy lóe lên trong óc hình ảnh khuôn mặt rạng rỡ của một người con gái quen thuộc nào đó với giọng ca thảnh thót êm đềm: người con gái ấy giờ đã nằm sâu trong lòng đất, mang theo mình những vết thương bầm dập từ phòng điều tra. Có kẻ lại bỗng nhớ tha thiết đến đứa con nhỏ của mình, tưởng chừng như trông thấy ngay trước mắt, nó đang múa hát trên miền Bắc xa xôi có nhiều ánh nắng. Có anh không nhớ đến một kỷ niệm nào cả mà cứ tưởng mình đang ngồi coi văn công trong một vùng giải phóng.

Êm dịu biết bao nhiêu! Những giây phút thoát được ra khỏi cái thực tại đầy máu me roi vọt để bay bổng lên trên bầu trời mát rượi ngọn gió thương yêu.

Những người chính trị phạm Chí Hòa khó quên được những cái Tết tưng bừng văn nghệ ấy. Và kế đó là những gì nữa?

Kế đó là những trận đòn “thập tử nhất sinh”, lưng đen như lọ chảo, chưn cẳng bị dần, bị dập sưng phù, là kỷ luật, biệt giam liên miên bất tận. Nhưng có hề chi! Vì cũng như mọi mặt đấu tranh khác, văn nghệ cách mạng trong nhà tù chỉ có thể tồn tại và lớn lên trong hy sinh phấn đấu không ngừng. Mọi người đều biết rõ như vậy.

*

* *

Tôi nhớ đến câu chuyện về bức tranh Mùa xuân trỗi dậy của Titien. Bức tranh xưa cũ, vốn tình cờ mà lạc loài vào giữa chiến trận, nhưng không ai ngờ nó đã tác động như một sức mạnh vật chất: Những người lính của một đơn vị Hồng quân Liên Xô trong cơn đói khát lả người, khi lục lạo tìm một món ăn bỗng trông thấy bức tranh ấy, và lạ lùng thay! Nó đã truyền cho họ một nguồn phấn khởi, hăng hái phi thường để họ có thể vượt qua cơn đói khát, vùng lên tiếp tục lao mình vào cuộc chiến đấu tiêu diệt bọn Quốc xã Đức.

Bức tranh đó tôi chưa được xem. Nhưng tôi đã đọc thơ Tố Hữu, ca bài hát cách mạng trong nhà tù và thấy rõ rằng những lời động viên cổ vũ đó thật có một giá trị hết sức lớn lao và cần thiết trong những giờ phút đấu tranh gay go, mặt đối mặt với quân thù. Cũng vì vậy mà thơ Tố Hữu được anh em trang trọng chép lại theo trí nhớ, nâng niu truyền tay nhau đọc, học cho kỳ thuộc lòng. Có anh lơ đễnh, bất cẩn để chúng tóm được luôn cả người lẫn tang chứng bài thơ trên giấy, bị đánh cho hộc máu mồm, máu mũi, bò lê bò càng, bị nhốt luôn vào phòng kỷ luật ăn cơm lạt hàng tháng. Nhưng đâu lại hoàn đấy. Đêm đêm từ trong các xà lim tối tăm, nóng như lửa, muỗi đàn rệp lũ, vẫn vọng ra tiếng ngâm hoặc tiếng đọc ê a các bài Dậy mà đi, Con cá chột nưa hay Hoan hô chiến sĩ Điện Biên,Ta đi tới...

Thơ đã thế thì nhạc cũng chẳng kém gì.

Dưới ánh đèn lù mù của phòng điện ảnh1, có những con người chỉ còn da bọc lấy xương, quần áo tả tơi, tóc phủ quá tai, má hóp mặt xanh, râu ria hỗn loạn, ngồi lê lết trên nền xi măng cố lấy hơi để Hò kéo pháo, trong khi hai tay bị còng quặt ra sau lưng hoặc hát Hành quân xa, lúc mà chưa bị quyện chặt vào cây sắt đóng đinh dưới đất. Có cái gì mâu thuẫn đáng tức cười. Nhưng không. Quả thật là họ đang tập trung tinh thần, tư tưởng, động viên nhau để kéo pháo chiến đấu gian khổ, hành quân trên con đường dài dẫn tới thắng lợi quang vinh. “Dốc núi cao... cao, nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi/ Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù/Vực nào sâu bằng chí căm thù?...”

1 Phòng điện ảnh: Tên đẹp thật! Nhưng không phải là để chiếu phim đâu nhé. Đó là phòng kỷ luật lớn nhất Chí Hòa, dùng để xiềng những tù nhân đang trong thời kỳ bị hình phạt, trả thù. (chú thích của tác giả).

Trên những gương mặt hốc hác, nổi bật lên ánh mắt long lanh, rực lửa căm thù và sáng ngời tin tưởng.

*

* *

Tôi đặc biệt để ý tới cái vai anh “thủ ngục”1 thường có mặt trong nhiều vở tuồng ở nhà tù. Văn nghệ thật không quên vai trò tranh thủ, cải tạo của mình.

Những vở tuồng cải lương, dù là khai thác trong các đề tài lịch sử hay dựa vào chuyện cổ tích, thần thoại để dựng lên, tuồng nào cũng có những người yêu nước thương dân và bọn xâm lăng, cùng quân phản dân hại nước. Người yêu nước bị bọn thống trị hãm hại tù đày. Và trong khối nhân dân đông đảo chống lực lượng thống trị, ủng hộ những chiến sĩ cách mạng bị giam cầm ấy thường thấy xuất hiện vai một anh “ngục tốt”2, tốt bụng mà nghèo nàn, chán ghét chế độ bất công tàn bạo, thương người vì nghĩa cả hi sinh, nhưng vì miếng cơm manh áo, thê thằng tử phược, anh đành cam tâm đứng trong hàng ngũ giặc nhìn đồng bào khổ sở điêu linh. Bởi vậy, anh đành vác cây giáo (làm bằng cây chổi rán) ủ rũ đứng trước cái cửa khám (làm bằng chiếc chiếu bị bẻ cong) ca lên sáu câu vọng cổ để giãi bày nỗi lòng u uất và cảnh ngộ “éo le” của mình. Khi nói lối xong, xuống tới chữ “xề” cũng có phụt đèn màu cẩn thận. Dĩ nhiên, anh tù yêu nước (tù trên sân khấu cũng là tù chánh hiệu) đứng sau chiếc chiếu bẻ cong (ở giữa cái khám giả nằm trong cái khám thiệt) liền mở lời thông cảm ngay. Rồi mối quan hệ tốt về tình cảm đã đưa lần hai bên tới những hành động chung. Nhưng đó là chuyện về sau.

1 Thủ ngục: gác ngục.

2 Ngục tốt: gác ngục, cũng như thủ ngục.

Có một điều là dù cho diễn xuất của đoàn “nghiệp dư” này chắc chẳng bằng ai, nhưng phần lớn anh em giám thị gác khám vẫn lấy làm thích thú đứng xem, khen tích tuồng “hay hơn mấy gánh hát lớn ở ngoài đời”, và có khi còn đóng góp thêm vài ý kiến tốt cho vở tuồng.

Thường như vậy thì người gác tù đã hóa thành kẻ bảo vệ cho văn nghệ nhà tù. Lát lát, anh ta lại chạy ra hành lang coi chừng, hễ thấy có bọn sĩ quan chỉ huy hoặc tụi an ninh ác ôn đi tuần là làm ám hiệu ngay để trong phòng lo liệu sắp xếp đối phó.

Cũng có lần, trong những ngày Ngô Đình Diệm còn cầm quyền, tôi được xem một buổi biểu diễn văn nghệ ngoài trời thật lạ lùng. Trong sân trại tập trung Biên Hòa, một đám đông người gồm tù nhân, anh em binh sĩ, giám thị và cả mấy thằng công an ác ôn xúm xít vây quanh xem một ông già chánh trị phạm tóc bạc phơ đang đứng hát trống quân. Ông hát rằng:

“Áo dài (i) khăn đóng (mà) má (thì) bầu /Anh chồng (mà lại) “đéo” (xin lỗi) em dâu (thì) cũng kỳ...” (kỳ... là kỳ kỳ)

Toàn đám đông, cả lính cả tù đều rộ lên cười sặc sụa. Mọi người đều hiểu rõ hết. Mấy thằng công an trừng mắt. Nó cũng biết là câu hát của ông già chửi ngay vào mặt Tổng Ngô của chúng nó. Nhưng cái chuyện kỳ cục quá! Mà câu hát cũng không nói rõ tên ai. Một thằng kiếm chuyện chê:

- Ôi, ông già này hát tục tĩu thấy mẹ!

Ông già nhăn răng ra cười:

- Tục tĩu thiệt. Làm cái chuyện như vậy thì tục tĩu, chó đẻ quá, hả thầy Hai. Thôi bây giờ tôi hát qua chuyện khác. Nè, mở màn!

Ông quay một vòng, rồi rún hai chân xuống, co tay giả bộ đánh vào cái trống tưởng tượng phía trước mặt, cất lên tiếng hát một cách chững chạc rõ ràng:

Mấy đời bánh đúc có xương,

Mấy đời (mà) giặc Mỹ (lại ) biết thương dân mình thình, thình là thình thùng thình...)

Lần này thì ông nói động tới ông nội nó rồi. Một thằng công an nạt lớn:

- Ông già! Ông khùng rồi! Ông đi nghỉ đi, làng chàng một hồi bỏ mạng đa.

Trước đám đông, tụi nó chưa dám làm gì. Ông già làm như không để ý đến câu nói của nó, cười ha hả để khỏa lấp, hát tiếp luôn:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng.

Em ơi! Súng Mỹ em dùng

Bắn người yêu nước, đau lòng không em?

Ông già không đánh trống nữa. Ông buông thõng hai tay xuống, đứng ngay người lên, quắc đôi mắt rực lửa nhìn thẳng vào mặt từng người lính. Không khí đột nhiên thay đổi. Im lặng như tờ. Có những gương mặt bơ phờ ngơ ngẩn. Có những người lính cúi thấp đầu xuống, lặng lẽ quay đi. Họ đang nghĩ gì nào ai biết dược. Cũng có thể là họ muốn giấu đi đôi dòng lệ tủi nhục sắp trào lên mi mắt.

*

* *

Văn nghệ trong tù không chỉ có thơ ca, kịch, vũ mà còn có cả phim nữa. Hôm tôi bị giải từ công an qua khám 10 của tỉnh là nhằm ngay ngày kỷ niệm 1 tháng 5. Trong không khí chuẩn bị rộn rịp, có người nói: “Đêm nay mình sẽ được ăn chè, xem chiếu bóng nghe”.

- A, lạ chưa? Chè và chiếu bóng để kỷ niệm ngày Lao động quốc tế. Ở đâu mà có vậy?

Hôm đó, toàn phòng được Ban đại diện cho ăn “chè”, “nghe” chiếu phim đặc biệt và mê nhứt là được phát cho, cứ bốn người một điếu thuốc rê vấn sẵn bằng giấy nhựt trình.

Khẩu phần “chè” của mỗi người là một cục đường to bằng ngón tay cái, anh nào “háu ăn” chỉ lũm một cái là lọt tót.

Nhưng đó là cả một công trình chắt mót, dè sẻn lâu ngày của Ban đại diện mới có được. Thuốc, giấy do lòng hảo tâm của anh em bên tư pháp lén lút gởi qua. Còn chiếu phim?

- Chiếu phim miệng. Đủ các loại.

Trong những ngày ở khám ấy, tôi đã lần lượt được “xem” từ Thanh niên cận vệ đội, Lênin trong cách mạng tháng Mười của Liên Xô. Con cò vàng, Bạch mao nữ của Trung Quốc, Bên dòng sông Elbơ của Công hòa dân chủ Đức, Điện Biên Phủ của ta, cho đến Kẻ ăn cắp xe đạp của Ý, Hai mẫu đất của Ấn Độ, Đàn trẻ Hiroshima của Nhựt Bổn... Tùy tánh chất, ý nghĩa của mỗi buổi kỉ niệm, hoặc tùy tình hình từng lúc của khám mà chọn phim đem chiếu. Trước khi chiếu có âm nhạc giúp vui. Rồi người quay phim, bận quần cụt, ở trần trùi trụi, vừa quạt vừa quay phim bằng miệng. Thính giả cũng vừa hút thuốc vừa nghe. Đoạn nào nghe không rõ, nhờ “quay” lại. Đoạn nào còn lù mù không hiểu, nhờ cắt nghĩa thêm.

“Tam đại khoái”: ăn chè, hút thuốc, nghe chiếu phim. Đúng là ba cái thú vui lớn nhất mà ai cũng náo nức mong chờ. Và những nhà chiếu phim - có nhiều người gần trở thành chuyên nghiệp - thật cũng không phụ lòng khách tri âm. Phim họ quay, truyện họ thuật bao giờ cũng gieo vào lòng người nghe một mối căm thù cao độ đối với bọn đế quốc. Bọn bóc lột và mở ra một chân trời rực sáng trước mắt những kẻ khốn khổ đang vùng lên.

*

* *

Dù phía đấu tranh không ngừng để giành lại từng nắm cơm hẩm, từng con khô mực, từng chút tự do dân chủ tối thiểu, và nhứt là để giữ gìn toàn vẹn khí tiết của người chiến sĩ cách mạng trong nhà tù, nhưng anh em vẫn không quên công việc sáng tác.

Tôi đã nghe đọc một đoạn thơ trên bốn trăm câu, một sáng tác tập thể của anh em trại I Côn Đảo và một bài song thất lục bát trên một ngàn câu (chưa xong) của một anh ở Chí Hòa. Đó đều là những bản cáo trạng đẫm máu đối với chế độ nhà tù man rợ của đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời cũng là những bản anh hùng ca nêu cao những tấm gương bất khuất kiên cường, nói lên cái phẩm chất cao đẹp tuyệt vời của những người chiến sĩ cách mạng trong cảnh cá chậu chim lồng.

Những bài thơ nóng hổi sinh khí như thế, ngắn có, dài có còn nhiều và còn rải rác khắp các nhà tù. Nó nằm trong trí nhớ của anh em tù nhân, trên các vách phòng biệt giam, trại an trí, các xà lim, khám tối. Nhiều bài thơ chỉ vẻn vẹn có một câu hoặc nửa câu lở dở, viết lên bằng viết chì, bằng viết nguyên tử, bằng móng tay khắc sâu vào vách, bằng máu muỗi, máu rệp và cả máu người.

Chúng ta hy vọng một ngày gần đây sẽ có thể sưu tầm đầy đủ các bài thơ ấy và nó sẽ đóng góp một phần nào vào sự nghiệp văn nghệ kháng chiến cứu nước chung của miền Nam ta hiện nay. Bởi vì nền văn nghệ trong xiềng xích đó đã biểu dương một sức sống mãnh liệt không gì tiêu diệt nổi, một niềm tin tưởng vững vàng không gì lay chuyển nổi. Bởi vì, nền văn nghệ đó đã phản ánh được trên một chừng mực nào, tính chất lạc quan cách mạng của những con người “sống anh dũng, chết vinh quang”.