(1857 - 1885)
Lê Trung Đình hiệu là Long Cang, người làng Phú Nhơn, nay là thôn Trường Thọ Đông, thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Lê Trung Đình thi đỗ Cử nhân khoa Giáp Thân (1884) tại trường thi Hương ở Bình Định. Khi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta, ông cùng các chí sĩ Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Nguyễn Tấn Kỳ... tổ chức lực lượng hương binh, xây dựng chiến khu ở Tuyền Tung (huyện Bình Sơn) chuẩn bị kế hoạch chống Pháp.
Sau vụ âm mưu đánh úp quân Pháp ở Huế thất bại (5.7.1885), kinh đô rơi vào tay giặc, vua Hàm Nghi xuất bôn và hạ chiếu Cần Vương.
Ngày 13.7.1885 Ba nghìn hương binh theo lệnh Chánh tướng Lê Trung Đình và Phó tướng Nguyễn Tự Tân tấn công tỉnh thành Quảng Ngãi. Nghĩa quân làm chủ tỉnh thành được 4 ngày thì bị tên phản bội Nguyễn Thân (vốn là một thành viên Nghĩa hội đầu hàng quân Pháp), đưa lực lượng từ Sơn phòng về, đánh lừa nghĩa quân mở thành, rồi bất ngờ tấn công. Nguyễn Tự Tân hy sinh, Lê Trung Đình bị bắt. Cuộc khởi nghĩa thất bại. Ngày 23.7.1885 (11.6 năm Ất Dậu), Lê Trung Đình bị xử chém ở phía bắc thành Quảng Ngãi. Trên đường ra pháp trường ông ứng tác bài thơ tuyệt mệnh, người đời sau quen gọi là “Lâm hình thời tác”:
Kim nhật lung trung điểu
Minh triêu trở thượng ngư
Thử thân hà túc tích
Xã tắc ai kỳ khu
Dịch nghĩa:
Nay là chim trong lồng
Mai đã cá trên thớt
Thân này tiếc gì đâu
Gian nan tình đất nước.