Để xanh được, cũng muôn vàn cảnh huống. Xanh trong “Căn phòng màu xanh” cần đến cả cuộc đời dấn thân của danh họa Pablo Picasso. Xanh của cây lá là cuộc phối màu khốc liệt của nắng, gió, mưa, bão, hanh khô… Biển cũng không dưng mà xanh nhưng màu xanh của biển làm ta phải nghĩ thật nhiều.
Tôi đến biển Nha Trang không phải vào mùa thu như trong câu hát. Biển nước sâu đến thế nào để những hạm đội đồn trú được tôi cũng không tường. Trên con đường uốn mình cùng cát vàng, mải miết những vòng xe, người Nha Trang ngày ngày có ngắm biển không nhỉ? Tự dưng ngồi trên một sân thượng thật cao nhìn xuống thành phố và tôi nghĩ vậy.
Quê tôi, người ta mải miết cả năm dưới bóng núi mà chẳng mấy khi ngẩng mặt lên nhìn núi. Núi lớn quá, choáng hết hồn người, núi thiêng quá, át vía người. Dẫu cây rừng, phong lan phủ kín núi, dẫu núi cũng xanh nhưng xanh một màu xa, xa thiêng liêng.
Người Việt miền duyên hải gọi biển là mẹ, thờ Cá Ông, họ không coi những cơn bão và loài cá dữ là tô tem như cách người sơn cước ứng xử với loài hổ. Họ có những buổi chiều nhìn về phía biển để đợi bóng con tàu. Những người góa phụ bao đời nối nhau đắp mộ gió và chôn hồn mình xuống biển sâu. Biển xanh im lặng.
Nhiều người tìm đến với biển như một niềm tin, chắc thế nên nhiều căn biệt thự mới mọc lên. Không thế, sao người ta đánh đổi tiền bạc và thời gian để được hít thở, tắm gội trong miền trong trẻo, hoang sơ của biển. Bao nhiêu bụi trần, bao nhiêu gánh nặng thế nhân được trút bỏ sau tiếng thở đầy khí thải nặng nề. Biển vẫn tinh khôi, màu biển và tình biển đâu có nhạt.
Có lúc tôi ngỡ biển là một bức tranh còn dang dở mà thiên nhiên ban tặng cho những cư dân đã quả quyết hướng đến với mình từ ngàn đời nay. Xanh một gam màu, đời nối đời ngư dân phác thêm những rạch sóng ra khơi mưu sinh, những cuộc tử chiến bám đảo, giữ đảo và mở cõi bằng những thương thuyền. Thế giới biết đến nước Việt từ bao lâu nay không phải ở mốc đảo ấy, kinh tuyến, vĩ tuyến ấy mà ở cái bình gốm đã đặt chân tới đâu? Biển cứ xanh bí ẩn nâng bước như thế. Hình như, khi ta bước chân tới biển, mỗi con sóng cũng mang thứ diệp lục cất giữ bao đời ấy về đổ ấm chân ta, tiếp cho ta một sinh khí.
Thế mới hay, thật buồn cười, đã có lúc tôi ngỡ biển là một chiếc bình quý giá với màu men cổ nên chỉ dám lau chùi bằng sự chân cảm và ngắm nghía bằng con mắt của một nhà sưu tầm cổ vật. Hoa văn của biển là những huyền thoại xa xăm lẩn quất đâu đây ở những tên đảo, những ngôi đền thờ ven biển. Chiếc bình ấy đã cũ rồi sẽ còn cũ mãi, đã vô giá rồi sẽ còn tiếp tục thêm giá trị nên biết gìn giữ từng gợn sóng xanh, từng giọt nước trong nhưng sẽ chẳng bao giờ đồng hành cùng cái thao thức từng ngày của con người hôm nay.
Ý nghĩ ấy dường như sẽ còn kéo dài mãi nếu như không có một ngày đứng trước biển tôi nhận ra những cái cây được trồng ở ven biển có dáng thế rất yểu điệu như có bàn tay người làm vườn. Tôi hỏi, một người đàn ông mang giọng muối mặn trả lời, đó là sự in hằn của một đời bão táp, gió đã làm nên hình hài ấy. Cây đã múa một điệu ca vũ cổ như bài gươm, như ngọn lửa trong phong ba để khi yên ả trở lại thành một khúc thức xanh. Màu xanh ấy giờ đã dâng đầy trong mắt tôi là cái nhìn tràn đầy sự sống trước một Nha Trang xanh. Tôi nhìn biển xanh để thấy con đường, bầu trời, làng mạc, cả nghìn năm qua và mỗi ngày trôi qua xanh hơn. Thấy yêu từng khuôn mặt nắng gió qua đường, xanh biếc màu sự sống và đam mê. Biết đâu người dân vùng biển không cần nhìn biển mà vẫn thấy biển luôn bên mình, kề vai biển sống qua những ngày thường đầy ắp yêu thương. Xuân ở biển, hồn văn thức cùng những ngọn đèn đang đỏ hoe rớt giọt sương đón ban mai…