Tôi gặp chị khi đã không còn trẻ, chắc vì thế mà chị không mấy bận tâm là tôi trẻ hơn chị. Công bằng mà nói, ở cái tuổi ấy, chị còn đủ sức làm đám trai trẻ trong phố phải khó xử. Họ không biết ngắm một người ít tuổi thì tốt hơn một người mà họ chỉ biết là… đẹp như chị.
Với chị, cuộc đời là quê chồng. Cái làng ở bên kia sông thì cứ nghèo mãi. Con sông thì nhỏ mà nước cả, cát cũng chẳng nhiều để người ta khai thác, thành thử, bao năm nhìn sang, chỉ thấy một con đò cắm sào mãi bên lũy tre già bên sông. Đi hết con đường trải bê tông bên này, lần nào cũng vậy, chị quay lại nhìn tôi, không cười, ánh mắt bình thản, kéo lại nếp áo, chị bước lên đò. Về với nơi chị luôn tôn thờ.
Phải tinh lắm, người nào đó mới nhận ra tôi và chị chưa bao giờ nhìn nhau bằng ánh mắt tự nhiên. Ngày mới gặp, tôi cũng không hiểu sao, trong những bộ trang phục công sở thời thượng, là người quan hệ rộng, đã từng tháp tùng ông chồng đến những gia đình quan chức to của ngành mà chị lại dành khoảng thời gian ít ỏi hàng ngày để nói chuyện với tôi. Nói chuyện thì cũng chưa đáng sợ, sợ nhất là, hình như chị cảm nhận được tôi thương chị thật. Thương, mà đâu phải chị tàn tật hay bơ vơ, thế mà chị vẫn để tôi nâng niu từng nỗi buồn. Có cả những điều, chị nghĩ là tôi biết. Tôi thực ra cũng đâu có hay, nhưng cảm nhận được nỗi lo ngại mơ hồ ấy trong ánh mắt chị, tôi thương thật.
Năm nào chúng tôi cũng chỉ gặp nhau một vài lần. Mỗi lần đón chị, hay chị chờ tôi, lại là một thời khắc mưa nắng, ấm áp hay giá lạnh. Chúng tôi chưa hề có phút giận dỗi, có thể chỉ vì ở xa nhau, vì luôn tìm thấy niềm vui hay vì ít được gặp. Cái màu áo của chị lúc nào cũng đỏ rực rỡ, nhưng nó có cái lý lẽ mà không trở nên nhàm chán. Vì màu đỏ ấy có khi là chiếc áo tôi mua tặng chị, có khi là chị mua trong một lần chúng tôi gặp nhau, có khi là vội vã quá, để kịp chuyến tàu đến nơi gặp nhau, chị đành chọn. Lần gặp nào, chúng tôi cũng bỡ ngỡ, mãi mãi là sự lúng túng của những người không biết sẽ phải nói với nhau những gì khi gặp nhau trong cảnh éo le này.
Tôi là người đưa chị ra cái bến sông về quê chồng vào vụ rét. Mùa hè, chị hay đi xuôi theo chiếc tàu nhỏ của một người họ hàng dọc một đoạn sông để ghé qua một cái chợ, mua mấy thứ quà quê cho mẹ chồng, hay chị còn có kỷ niệm nào nơi đó. Mùa rét, tôi hay đưa chị theo con đường này ra điểm cuối cùng của hai ranh giới. Ngồi sau tôi, có lúc chị nói cười hồn nhiên, có lúc chị bất ngờ im lặng. Tôi nghe tiếng gió phía sau lưng, tiếng hạt mưa rơi sau lưng, nhưng hình như chưa bao giờ thấy ánh nắng quái buổi chiều chiếu xiên sau lưng mình. Vì phía ấy có chị, cũng như chị, trước khi xuống đó, quay lưng lại nhìn tôi.
Vụ rét nào ở quê chồng, với chị cũng là một hy vọng. Chỉ đứng ở bên này, tôi thấy mướt xanh nhưng vườn bắp cải, su hào bên kia sông, từ nhỏ tôi chưa từng bước chân sang nơi ấy. Từ lúc quen chị, tôi lại càng thấy ngần ngại, có lẽ cái áo thẫm màu, cái túi xách trên tay, đôi dép đế thấp đã biến chị thành một con người khác khi bước xuống đò. Chị chưa bao giờ quên bổn phận và trách nhiệm. Dẫu chị chưa bao giờ hóa thân trọn vẹn vào hình hài đó. Chị vẫn còn những lúc, mặc chiếc áo đỏ đứng đợi tôi trên ga tàu trong nắng vàng. Nhưng, tôi vẫn thấy ở nơi ấy, chỉ có một màu xanh miên man của hy vọng, của những lo toan và giá lạnh.