I. Đại cương
Thông thường, tim hoạt động được nhờ có một trung tâm phát nhịp điều tiết nhịp đập của tim - trung tâm này được gọi là nút xoang (nằm tại tâm nhĩ phải của tim). Khi nút xoang phát xung động cũng là bắt đầu một nhịp đập mới của tim. Nút xoang hoạt động hiệu quả sẽ tạo ra nhịp tim bình thường để tim thực hiện đúng chức năng và nhiệm vụ của nó là duy trì hoạt động bơm và hút máu. Nút xoang tạo xung thúc đẩy bắt đầu mỗi nhịp đập của tim.Thông thường, dẫn truyền đầu tiên qua tâm nhĩ và sau đó qua đường kết nối giữa các buồng trên và dưới của tim được gọi là nút nhĩ thất (AV). Khi tín hiệu đi qua tâm nhĩ, nhĩ co bóp bơm máu từ tâm nhĩ xuống tâm thất. Khi tín hiệu đi qua nút AV đến tâm thất, tâm thất co, bơm máu cho cơ thể.
Tâm nhĩ là 2 buồng của tim, ở ngay trên 2 tâm thất. Thành tâm nhĩ được cấu tạo bằng nhiều sợi cơ đan dệt với nhau. Ở người bình thường các sợi cơ đó co bóp đồng thời với nhau trong khoảng 1 phần 10 giây, gọi là nhĩ thu. Sau đó chúng lại cùng giãn nghỉ trong khoảng 7 phần 10 giây còn lại của chu chuyển tim, gọi là nhĩ trương. Là vì các sợi cơ nhĩ co bóp đồng bộ như vậy, nên tâm nhĩ đẩy máu xuống tâm thất trong thời kỳ nhĩ thu, và nhận máu từ ngoại vi về tim trong nhĩ trương, cứ như vậy khoảng 60 - 90 lần trong một phút.
Khi bị rung nhĩ các sợi cơ co bóp và nghỉ không đồng thời với nhau, làm cho tâm nhĩ không co bóp được, hậu quả là làm cho tâm thất co bóp rối loạn, nhịp tim nhanh, tiêu hao nhiều sức lực mà hiệu quả ít, dẫn đến suy tim với khó thở, phù, gan to... Rung nhĩ còn làm máu ứ đọng trong tâm nhĩ, dễ bị đọng lại thành những cục huyết gọi là huyết khối. Những huyết khối này có thể tách ra khỏi thành tâm nhĩ, di chuyển theo dòng máu xuống tâm thất, rồi vào các động mạch, đi khắp cơ thể và có thể gây ra nghẽn tắc các mạch máu ở nhiều nơi. Quan trọng nhất là nghẽn mạch não gây liệt nửa người.
Trong rung nhĩ, các buồng trên của tim (tâm nhĩ) có tín hiệu điện hỗn loạn. Kết quả là, nó rung lên. Nút AV - kết nối điện giữa tâm nhĩ và tâm thất bị quá tải với xung lực cố gắng để qua đến tâm thất. Các tâm thất cũng co bóp nhanh chóng, nhưng không nhanh như tâm nhĩ. Lý do là nút AV giống như một đường cao tốc trên đoạn đường nối - chỉ để xe ô tô có thể vào từng lúc. Kết quả là nhịp tim nhanh và không đều.
Rung nhĩ xuất hiện khi tâm nhĩ và tâm thất đập nhanh bất thường với tần số không đồng bộ. Ví dụ: Tâm nhĩ đập rất nhanh và không đều với tần số > 300 lần/phút, trong khi đó tâm thất chỉ đập với tần số từ 100 - 200 lần/phút. Khi đó các buồng thất không có đủ thời gian giãn ra để được đổ đầy máu trong khi các tâm nhĩ lại không có khả năng bơm máu hiệu quả xuống tâm thất ở mỗi nhát bóp của tim.
Thường gặp 0.4 % ở quần thể, khoảng 10 % ở người > 80 tuổi
- Tâm nhĩ không bóp nữa mà từng thớ của nó rung lên do tác động của những xung động rất nhanh (400 - 600 lần/phút)và rất không đều.
Chúng xuất phát từ những ổ lạc chỗ trong cơ nhĩ.
- Tâm thất cũng đập rất không đều, nhưng chậm hơn so với tâm nhĩ.
Cơ chế
Có nhiều vòng vào lại hình thành ngay tại nhĩ.
Các nguyên nhân
- Cao huyết áp.
- Bệnh động mạch vành và thiếu máu cơ tim.
- Suy tim.
- Hẹp hai lá, thấp tim, bệnh van tim.
- Viêm màng ngoài tim. Ngộ độc digitalis .
- Phẫu thuật tim: Đặt stent trong động mạch vành hoặc các loại phẫu thuật tim có thể gây ra rung nhĩ, nguy cơ đặc biệt tăng cao ở những người trên 65 tuổi. Khi rung nhĩ xảy ra sau khi phẫu thuật, nó cũng sẽ làm tăng nguy cơ các biến chứng khác.
- Trong một số trường hợp rung nhĩ do cường tuyến giáp hoặc nhiễm trùng nghiêm trọng (như viêm phổi).
- Rung nhĩ vô căn (trong một số trường hợp không tìm thấy nguyên nhân).
Yếu tố nguy cơ
- Stress, bệnh béo phì.
- Bệnh phổi, bạch hầu, thương hàn.
- Một số thuốc như Albuterol.
- Sử dụng quá nhiều chất kích thích (nicotin, cafein, rượu,…).
Các biến chứng
Đôi khi rung nhĩ có thể dẫn đến các biến chứng sau đây:
- Tai biến mạch máu não. Trong rung nhĩ, nhịp điệu hỗn loạn có thể gây ra máu ứ đọng trong tâm nhĩ và các cục máu đông hình thành. Nếu cục máu đông trong máu, nó có thể đi từ tim đến não. Có thể chặn lưu lượng máu, gây ra cơn đột quỵ.
- Các nguy cơ của đột quỵ trong bệnh rung nhĩ phụ thuộc vào tuổi (có nguy cơ cao theo độ tuổi) và tiền sử có huyết áp cao, tiểu đường, tiền sử suy tim hoặc đột quỵ trước đó. Các thuốc như chất làm loãng máu có thể làm giảm đáng kể nguy cơ đột quỵ hoặc thiệt hại cho các cơ quan khác gây ra bởi cục máu đông.
- Suy tim. Đặc biệt là nếu rung nhĩ không được kiểm soát, có thể làm suy yếu tim, dẫn đến suy tim.
II. Chẩn đoán
Cách chắc chắn nhất để phát hiện bệnh rung tâm nhĩ là điện tâm đồ.
Lâm sàng:
- Hồi hộp, trống ngực, chóng mặt. HA có thể tụt
- Nghe tim: nhịp tim không đều, thường là nhanh: 150 - 220 lần/phút.Có khi thấy dấu hiệu bệnh van tim
Điện tim:
- Mất sóng P, thay thế bằng sóng F nhĩ, có hình răng cưa, uốn lượn, tần số 400 - 600 lần/ phút.
- Sóng F rất khác nhau về hình dạng, biên độ, thời gian, chẳng sóng nào giống sóng nào. Thấy rõ ở V1 V2, DII, DIII, aVF, các đạo trình khác không rõ.
- QRS rất không đều về tần số và biên độ (100 - 180 lần/phút). QRS nói chung hẹp và độ cao khác nhau.
- Các khoảng RR dài ngắn khác nhau.

Hình ảnh điện tâm đồ rung nhĩ

III. Chẩn đoán phân biệt
Việc quan trọng nhất là phải đi tìm sóng P.
- Tim nhanh nhĩ đa ổ: Hình dạng sóng P khác nhau, PP, RR cũng thay đổi.
- Tim nhanh bị bloc: PP đều nhau, có sóng P nhưng không có QRS đi cùng.
- Cuồng nhĩ có bloc thay đổi: tần số QRS cũng không đều, nhưng ở V1, DII, DIII, aVF thấy các sóng F đều nhau 250 - 300 lần/phút.
- Nhiễu do run: còn nhịp xoang, sóng P thấy rõ ở các chuyển đạo trước tim.
IV. Phân loại
Dựa vào lâm sàng tiến triển của rung nhĩ chia các thể lâm sàng:
- Cơn rung nhĩ kịch phát: rung nhĩ kéo dài ≤ 7 ngày, cơn tự chuyển về nhịp xoang.
- Rung nhĩ dai dẳng: rung nhĩ kéo dài > 7 ngày, phải dùng các biện pháp chuyển nhịp can thiệp mới có thể cắt được rung nhĩ.
- Rung nhĩ mạn tính: kéo dài hơn 1năm và không thể cố gắng chuyển nhịp được bằng các biện pháp can thiệp.
V. Điều trị
Nguyên tắc điều trị
- Kiểm soát tần số thất.
- Chuyển rung nhĩ về nhịp xoang.
- Dự phòng huyết khối.
Mục đích của điều trị
Làm cải thiện triệu chứng, phòng chống đột quỵ, giảm thời gian và số lần điều trị tại bệnh viện.
Một số trường hợp
Chỉ cần điều trị khỏi nguyên nhân mà không cần phải điều trị rung nhĩ lâu dài như: viêm cơ tim,...
Một số bệnh nhân
Khi đã điều trị tối ưu vẫn không kết quả, cần được tư vấn của các chuyên gia để có biện pháp can thiệp tích cực hơn.
1. Kiểm soát tần số thất
* Kiểm soát tần số thất trong rung nhĩ làm cải thiện triệu chứng lâm sàng và phòng nguy cơ suy tim do nhịp tim quá nhanh. Tất cả các bệnh nhân có chiến lược chuyển về nhịp xoang cũng cần được kiểm soát tần số thất trước. Kiểm soát nhịp thất cần ổn định trong khi nghỉ ngơi và cả khi gắng sức. Không có công thức tiêu chuẩn cho việc dùng thuốc kiểm soát tần số thất mà phụ thuộc vào tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Kiểm soát tần số thất cũng phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân, nhưng thông thường đảm bảo khoảng 60 - 80 ck/p khi nghỉ ngơi và 90 - 115 ck/p khi gắng sức.
* Tất cả các thuốc tác động làm giảm khả năng dẫn truyền qua nút nhĩ thất được sử dụng để kiểm soát tần số thất:
+ Chẹn beta giao cảm, chẹn kênh canxi (non dihydropyridine), Digoxin.Chẹn beta giao cảm là thuốc có hiệu quả nhất trong kiểm soát tần số thất.
+ Digoxin có thể ưu tiên dùng cho bệnh nhân có suy tim. Có thể phối hợp thuốc: chẹn beta giao cảm với chẹn kênh canxi hoặc digoxin khi cần thiết trong kiểm soát tần số thất.
+ Tùy thuộc tình trạng lâm sàng để lựa chọn thuốc và liều lượng thích hợp tránh gây nhịp thất đáp ứng quá chậm. Bệnh nhân suy tim có phân suất tống máu <35%. Cần phải hết sức thận trọng khi dùng chẹn beta giao cảm và chẹn kênh canxi. Rung nhĩ trên bệnh nhân có hội chứng Wolff- Parkinson-White điển hình với dẫn truyền từ nhĩ xuống thất qua đường dẫn truyền phụ (cầu Kent) chống chỉ định dùng Digoxin và chẹn kênh canxi để kiểm soát nhịp thất.
+ Một số thuốc khác sử dụng để duy trì nhịp xoang như sotalol, dronedarone, amiodarone, có thể dùng trong một số trường hợp kiểm soát đáp ứng tần số thất
*Triệt đốt nút nhĩ thất:
+ Triệt đốt nút nhĩ thất và cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn cho những bệnh nhân có nhịp thất đáp ứng quá nhanh, mặc dù đã điều trị bằng thuốc tối ưu.
+ Tạo nhịp đồng bộ cơ tim CRT có hiệu quả cải thiện huyết động ở bệnh nhân suy tim nặng có rung nhĩ đã được triệt đốt nút nhĩ thất.
2. Dự phòng huyết khối phòng chống đột quỵ
- Hầu hết những người bị rung nhĩ hoặc những người đang trải qua phương pháp điều trị nhất định đối với rung nhĩ có nguy cơ đặc biệt cao cục máu đông có thể dẫn đến đột quỵ. Nguy cơ này thậm chí còn cao hơn nếu bệnh tim khác có mặt cùng với rung nhĩ. Thuốc chống đông dự phòng huyết khối được chỉ định dùng cho tất cả bệnh nhân rung nhĩ trừ duy nhất trường hợp rung nhĩ đơn độc ở bệnh nhân dưới 60 tuổi (không có bệnh lý tim mạch thực thể kèm theo) hoặc có chống chỉ định dùng thuốc chống đông máu. Bác sĩ có thể kê toa thuốc chống đông máu để ngăn ngừa cục máu đông, thêm vào thuốc được thiết kế để điều trị nhịp tim không đều.
- Aspirin và Clopidogrel không thay thế được cho thuốc kháng vitamin K như: Wafarin, Sintrom.
Aspirin phối hợp với Clopidogrel có hiệu quả hơn là dùng Aspirin đơn độc phòng chống đột quỵ ở bệnh nhân có nguy cơ cao kèm theo chống chỉ định dùng thuốc kháng Vitamin K nhưng nguy cơ chảy máu cũng tăng cao hơn so với dùng Aspirin đơn độc.
- Bệnh nhân rung nhĩ không có van cơ học có thể dừng thuốc chống đông 1 tuần trước phẫu thuật lớn có nguy cơ chảy máu mà không cần thay thế bằng Heparin.
- Bệnh nhân rung nhĩ có bệnh cơ tim phì đại, hẹp van hai lá, hoặc van cơ học phải được điều trị bằng thuốc kháng vitamin K như: Wafarin hoặc Sintrom.
Warfarin (Coumadin). Nếu đang quy định warfarin, cẩn thận theo hướng dẫn của bác sĩ về dùng nó. Warfarin là một loại thuốc mạnh có thể có tác dụng phụ nguy hiểm. Cần phải làm xét nghiệm máu thường xuyên để theo dõi tác dụng của warfarin.
Dabigatran (Pradaxa). Một tùy chọn khác để ngăn ngừa cục máu đông là dabigatran. Dabigatran hiệu quả như warfarin khi ngăn ngừa cục máu đông có thể dẫn đến đột quỵ, và không yêu cầu xét nghiệm máu để chắc chắn rằng đang nhận được liều thích hợp. Hãy nói chuyện với bác sĩ về dabigatran là một thay thế cho warfarin nếu lo ngại về nguy cơ đột quỵ.
Rivaroxaban (Xarelto). Rivaroxaban là một loại thuốc chống đông máu hiệu quả như warfarin để ngăn ngừa đột quỵ.
Rivaroxaban là một loại thuốc mỗi ngày một lần. Giống như bất kỳ thuốc chống đông máu khác, hãy làm theo hướng dẫn dùng thuốc của bác sĩ một cách cẩn thận và không được ngừng dùng rivaroxaban mà không nói trước với bác sĩ .
3. Điều trị thuốc chống đông khi chuyển nhịp
- Tất cả bệnh nhân rung nhĩ > 48 giờ, hoặc không biết rung nhĩ từ khi nào phải điều trị kháng vitamin K 3 tuần với INR 2,0 trước khi chuyển nhịp.
- Siêu âm tim qua thực quản đánh giá huyết khối nhĩ trái có thể thay thế cho 3 tuần điều trị kháng vitamin K, nhưng bệnh nhân vẫn phải tiếp tục được điều trị Wafarin/Sintrom hoặc Heparin trong thời gian chuyển nhịp.
- Trong trường hợp chuyển nhịp cấp cứu phải dùng Heparin đường tĩnh mạch duy trì aPTT từ 1,5 đến 2 lần nhóm chứng và điều trị tiếp theo bằng thuốc kháng vitamin K.
- Wafarin hoặc Sintrom được tiếp tục điều trị sau chuyển nhịp ít nhất 4 tuần. Sau đó dựa vào thang điểm CHADS2 để quyết định tiếp tục dùng Wafarin/Sintrom hay không
4. Chuyển rung nhĩ về nhịp xoang
* Nguyên tắc: Có thể chuyển nhịp bằng thuốc hay sốc điện. Sốc điện đồng bộ trực tiếp có hiệu quả hơn chuyển nhịp bằng thuốc đơn thuần. Hạn chế của sốc điện đồng bộ là cần phải gây mê bệnh nhân. Hạn chế lớn nhất khi chuyển nhịp bằng thuốc là có nguy cơ bị xoắn đỉnh do tác dụng phụ của các thuốc chống loạn nhịp.
* Sốc điện chuyển nhịp trực tiếp: Sốc điện cấp cứu trong trường hợp nhịp thất đáp ứng quá nhanh không kiểm soát được bằng thuốc, huyết động không ổn định, bệnh tim thiếu máu cục bộ, tụt huyết áp, suy tim, rung nhĩ ở bệnh nhân có hội chứng Wolf-Parkinson-White. Trong trường hợp rung nhĩ tái phát ngay sau sốc điện, có thể sốc điện lại và cần dùng thuốc chống rối loạn nhịp phối hợp ngay. Liều sốc điện điều trị rung nhĩ nên bắt đầu từ 50J.
* Chống chỉ định sốc điện trên bệnh nhân rung nhĩ có ngộ độc Digoxin, hoặc giảm Kali máu.
* Chuyển nhịp bằng thuốc:
- Ibutilide, Flecainide, Dofetilide, Propafenone là các thuốc được lựa chọn hàng đầu có hiệu quả cao trong chyển rung nhĩ về nhịp xoang.
- Amiodarone truyền tĩnh mạch có thể sử dụng để chuyển rung nhĩ về nhịp xoang tuy nhiên tỷ lệ thành công không cao.
- Có thể sử dụng để kết hợp với sốc điện chuyển nhịp tăng tỷ lệ thành công.
- Có thể kết hợp Magne tĩnh mạch trước khi dùng thuốc chống rối loạn nhịp để hạn chế nguy cơ xoắn đỉnh.
- Theo dõi điện tâm đồ liên tục ít nhất 4 giờ sau khi chuyển nhịp.
5. Duy trì nhịp xoang
Nguyên tắc dùng thuốc:
+ Chỉ định cho bệnh nhân có triệu chứng liên quan đến cơn rung nhĩ hoặc rung nhĩ bền bỉ tái phát sau chuyển nhịp. Lựa chọn thuốc phụ thuộc vào bệnh tim thực tổn, mức độ suy tim, và cân nhắc tác dụng phụ của thuốc. Lựa chọn thuốc cũng còn phụ thuộc vào chức năng gan, thận.
+ Thuốc duy trì nhịp xoang làm hạn chế tần suất, thời gian rung nhĩ, cải thiện triệu chứng. Không dùng thuốc nếu không cải thiện được triệu chứng hoặc có nhiều tác dụng phụ. Bồi phụ đủ tình trạng điện giải đồ và thuốc chống đông trước khi dùng thuốc chống rối loạn nhịp.
+ Không dùng thuốc khi có blốc nhĩ thất, suy nút xoang bệnh lý.
+ Nên khởi đầu bằng liều thấp và có thể tăng dần liều theo đánh giá hiệu quả của thuốc.
Thuốc duy trì nhịp xoang:
- Flecainide/Propafenone: nhóm IC có tác dụng làm giảm vận tốc dẫn truyền do ức chế kênh natri. Chống chỉ định ở bệnh nhân thiếu máu cơ tim, suy tim nặng.
- Sotalol: thuốc chẹn beta không chọn lọc thuộc nhóm III có tác dụng kéo dài thời gian tái cực. Không có tác dụng chuyển rung nhĩ về nhịp xoang nhưng được sử dụng dự phòng rung nhĩ tái phát. Chống chỉ định ở bệnh nhân COPD, hen phế quản, suy tim nặng, suy thận hoặc QT kéo dài.
- Dofetilide: Là thuốc thuộc nhóm III, có tác dụng kéo dài thời gian tái cực do ức chế nhanh kênh kali. Có hiệu quả duy trì nhịp xoang, hạn chế nguy cơ xoắn đỉnh. Cần thận trọng khi sử dụng Dofetilide ở bệnh nhân suy thận, có QT kéo dài.
- Amiodarone: Là thuốc có hiệu quả nhất trong duy trì nhịp xoang, tuy nhiên có nhiều tác dụng phụ cũng như độc tính nên chỉ là lựa chọn thứ hai hoặc lựa chọn sau cùng khi các thuốc khác không có tác dụng.
Amiodarone thích hợp dùng trong các trường hợp có dày thất trái, suy tim, hay bệnh động mạch vành. Bệnh nhân sử dụng Amiodarone cần được theo dõi định kỳ chức năng tuyến giáp, chức năng gan và chức năng hô hấp. Sử dụng liều thấp (≤ 200mg/ngày) có ít tác dụng phụ và độc tính hơn khi dùng liều cao.
- Dronedarone: tương tự như Amiodarone nhưng không gây độc với gan, thận. Dronedarone được chỉ định để giảm nguy cơ nhập viện cho bệnh nhân có cơn rung nhĩ hoặc rung nhĩ bền bỉ, bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch, hoặc dùng chuyển nhịp cho bệnh nhân. Chống chỉ định trong trường hợp: Suy tim nặng.
6. Triệt đốt qua catheter
- Triệt đốt bằng catheter là phương pháp có hiệu quả và là lựa chọn cho bệnh nhân rung nhĩ có triệu chứng điều trị nội khoa thất bại. Đặc biệt ở bệnh nhân trẻ tuổi triệt đốt bằng catheter có lợi ích hơn là điều trị bằng thuốc kéo dài nhiều năm. Tỷ lệ thành công từ 40 - 90% với chỉ một lần triệt đốt, nếu bệnh nhân tái phát rung nhĩ có thể tiếp tục tiến hành triệt đốt nhiều lần tiếp theo. Bệnh nhân có cơn rung nhĩ với chức năng tim còn tốt có tỷ lệ thành công cao hơn rõ rệt so với bệnh nhân rung nhĩ bền bỉ, mạn tính với nhĩ trái giãn to.
- Tỷ lệ biến chứng của phương pháp này là 2 - 12%. Những biến chứng bao gồm: tràn dịch màng tim, ép tim cấp, biến chứng mạch máu, hẹp tĩnh mạch phổi, đột quỵ, dò nhĩ trái thực quản, tổn thương thần kinh hoành, tổn thương van hai lá.
- Tỷ lệ tử vong thấp < 0,1%.
Chỉ định của phương pháp triệt đốt rung nhĩ qua catheter cho tất cả các trường hợp điều trị nội khoa thất bại trong việc phòng ngừa rung nhĩ tái phát có triệu chứng chưa có giãn buồng nhĩ trái (ngoại trừ bệnh lý tim mạch có chỉ định phẫu thuật tim mở).
- Bệnh nhân được chỉ định dùng thuốc kháng Vitamin K như sintrom, wafarin ít nhất 2 tháng sau khi triệt đốt. Điều trị thuốc chống đông kéo dài trong trường hợp bệnh nhân có điểm CHADS2 > 1.
Chống chỉ định dùng catheter triệt đốt là huyết khối trong nhĩ trái.
7. Phẫu thuật Maze
Phẫu thuật cô lập nhĩ trái (Maze) thường được chỉ định kết hợp với các phẫu thuật tim khác như mổ bắc cầu chủ vành, thay van tim, mổ sửa chữa trong bệnh tim bẩm sinh,... Phẫu thuật sẽ tạo các đường cắt cô lập từng vùng cơ nhĩ, tiểu nhĩ và các tĩnh mạch phổi nhưng vẫn bảo tồn được chức năng dẫn truyền trong nhĩ, nhờ vậy ngăn chặn được sự hình thành các vòng vào lại gây rung nhĩ.
VI. Dự phòng rung nhĩ
1. Lối sống
Lối sống phù hợp góp phần vào việc điều trị rung nhĩ cũng như giảm thiểu các triệu chứng. Một số biện pháp cần áp dụng:
- Kiểm soát tốt huyết áp và nồng độ mỡ máu.
- Ăn nhạt, ăn ít muối và ít chất béo.
- Không uống rượu và cà phê vì những chất kích thích này có thể làm xấu hơn tình trạng rối loạn nhịp.
- Không hút thuốc lá. Nicotine có trong thuốc lá là một chất kích ứng mạnh, có thể làm rung nhĩ trầm trọng hơn.
- Dùng thuốc là phải cẩn thận. Một số, chẳng hạn như thuốc cảm có chứa pseudoephedrine, có chứa các chất kích thích có thể gây ra rung nhĩ. Ngoài ra, một số loại thuốc OTC có thể có tương tác nguy hiểm với các thuốc chống loạn nhịp tim.
- Tập thể dục đều đặn.
2. Kiểm tra sức khỏe tim mạch định kì
Kiểm tra sức khỏe định kì là một trong những biện pháp hữu hiệu để phát hiện sớm các yếu tố nguy cơ gây rung nhĩ - đặc biệt nếu bạn trên 55 tuổi hoặc có các yếu tố nguy cơ đột quỵ.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Thang điểm CHADS2


* Bệnh nhân rung nhĩ đơn độc không có bệnh tim mạch, < 60 tuổi có thể không cần dùng Aspirin.
** Bệnh nhân có van tim nhân tạo cần duy trì INR > 2,5.
Phụ lục 2: Hướng dẫn sử dụng liều thuốc điều trị rung nhĩ:


Phụ lục 3
Hướng dẫn điều trị duy trì nhịp xoang ở bệnh nhân rung nhĩ
