1 Xem: Đinh Hồng Hải, “Biểu tượng nghê trong văn hóa và nghệ thuật tạo hình Việt Nam,” Tạp chí Kiến trúc số 12, 2014 và số 1, 2015
Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, bên cạnh con rồng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu còn có một vật linh hết sức nổi tiếng với chúng ta nhưng những hiểu biết về nó vẫn còn rất mơ hồ, đó là con nghê. Khác với con rồng mang tính cung đình, con nghê là linh vật dân gian được sử dụng một cách hết sức phổ biến cả trong văn hóa dân gian và trong văn hóa cung đình. Điều này dẫn đến một câu hỏi: Vậy con nghê là linh vật dân gian ảnh hưởng đến văn hóa cung đình hay ngược lại?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần phải truy nguyên nguồn gốc của con nghê. Tuy nhiên, việc này không hề dễ dàng vì con nghê không phải là một con vật có thực như rùa hay hổ mà cũng không phải là những linh vật “ngoại nhập” như tỳ hưu hay sư tử. Thậm chí, con nghê còn “bị” đánh đồng với lân, lân mã, long mã và li. Lân, lân mã/ long mã/ li/ nghê cũng là những linh vật khá phổ biến trong văn hóa Việt Nam nhưng lại khó nhận dạng vì sự hình thành của chúng trong văn hóa Việt Nam khá phức tạp và thường bị lẫn lộn giữa loại này với loại khác. Chính sự phức tạp đó đã dẫn đến những cách gọi tên “hỗn độn” cho nhóm linh vật này. Dưới đây chúng ta cùng tìm hiểu những mối tương đồng và dị biệt giữa những linh vật trong nhóm này với con nghê trong văn hóa Việt Nam để có thể nhận dạng rõ hơn về linh vật này.
1. Nguồn gốc và tên gọi
Trong số các linh vật có nguồn gốc Trung Hoa được nêu tên ở trên thì lân là một con vật được biết đến nhiều nhất. Con lân trong văn hóa Việt Nam có thể nhìn thấy trong các hội múa lân - múa rồng (múa tứ linh). Lân xuất hiện ở đình, chùa, đền, miếu và nhiều loại hình kiến trúc khác. Lân được trang trí ở nhiều vị trí khác nhau, vai trò khác nhau với những công năng khác nhau của một “linh vật ngoại nhập.”
Trên thực tế, lân là tên gọi tắt của con kỳ lân có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa với thành ngữ: Lân, phụng, quy, long vị chi tứ linh. “Theo Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán, thì lân là tên gọi chung chỉ cặp đôi kỳ lân, trong đó, kỳ là con đực, và lân là con cái. Lân được coi là loài thú nhân từ, không dẫm đạp lên cỏ tươi và sinh vật sống. Nói chung, lân là vật chỉ điềm lành, và cũng là con vật tưởng tượng không có thật (Kiều Thu Hoạch 2012, tr.26). Khi cặp đôi kỳ và lân du nhập vào văn hóa Việt Nam, người Việt chỉ tiếp nhận con lân mà “quên đi” con kỳ. Trong khi lân mã là một linh vật có sự kết hợp lân - ngựa, long mã là sự kết hợp rồng - ngựa thành một linh vật hư cấu nửa rồng nửa ngựa, thì li lại là một cách gọi khác của lân, thường được biết đến trong bộ tứ linh ở Việt Nam: Long - li - quy - phụng/phượng.1
1 Chúng tôi đang tìm hiểu xem li có phải là tên gọi tắt của li vẫn xi vẫn (một trong số “chín con của rồng” du nhập vào Việt Nam từ văn hóa Trung Hoa) hay không, nhưng cho tới nay chúng tôi vẫn chưa tìm thấy một nghiên cứu hoặc tư liệu có liên quan nào ở Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Trong văn hóa phương tây cũng có một con vật linh dạng này gọi là Unicorn, thường được dịch là kỳ lân.
Nói tóm lại, lân/lân mã/ long mã/ li là những tên gọi khác nhau của một linh vật có nguồn gốc Trung Hoa (kỳ lân), được du nhập vào Việt Nam trong quá khứ và được trang trí trên các thành tố kiến trúc và nghệ thuật của người Việt. Trong khi đó, nghê là linh vật tuy mang nhiều đặc tính bản địa của người Việt nhưng lại là một linh vật “khó hiểu” nhất trong văn hóa Việt Nam, mặc dù vai trò và vị trí của nó gần giống như con lân trong văn hóa Trung Hoa.
Về mặt từ nguyên, nghê là một tên gọi thuần Việt nhưng trong các từ điển sinh học chúng ta không hề thấy tên của một loài động vật nào có tên gọi là nghê (trong khi rùa, phượng, hổ, sư tử, ngựa, voi… Là những sinh vật có thực). Như vậy, có thể khẳng định rằng nghê là một linh vật hư cấu đã được hình thành trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Trong các hiện vật khảo cổ trước giai đoạn thuộc Hán (từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ 9) được tìm thấy tại Việt Nam không có linh vật nào là con nghê. Từ đây chúng ta có thể suy đoán rằng, con nghê là một linh vật được hình thành trong văn hóa Việt Nam, mang đặc tính bản địa của người Việt nhưng có một số đặc điểm chịu ảnh hưởng của văn hóa “ngoại nhập,” đặc biệt là văn hóa Hán.
Rất có thể, biểu tượng nghê có liên quan đến lân/lân mã/ long mã/ li được hình thành trong văn hóa Việt Nam từ giai đoạn thuộc Hán. Khi nhà Lý xây dựng nền độc lập của quốc gia Đại Việt thì biểu tượng nghê đã được định hình ở các công trình kiến trúc nghệ thuật thời Lý.1 Điều này cũng dễ hiểu vì, sau nghìn năm Bắc thuộc trong suốt Thiên niên kỷ thứ nhất, có rất nhiều thành tố văn hóa Trung Hoa đã thâm nhập và hòa đồng cùng với văn hóa của người Việt. Biểu tượng nghê chỉ là một thành tố trong vô số thành tố văn hóa mà người Việt đã học hỏi, thêm bớt từ văn hóa Trung Hoa để biến thành sản phẩm văn hóa của riêng mình.
1 Nếu coi con nghê là một dạng biến đổi từ con lân thì việc con nghê xuất hiện từ thời Lý là có thể chấp nhận. Nhưng chúng ta chưa thể khẳng định một cách chắc chắn rằng các linh vật đó chính là nghê.
Nhưng nếu như nghê là linh vật có ảnh hưởng từ loại linh vật tương tự trong văn hóa Trung Hoa, vậy tại sao các linh vật trang trí đó lại được gọi là nghê mà không phải là lân/lân mã/ long mã/ li? Để trả lời câu hỏi này là một công việc “mò kim đáy bể” tuy nhiên, chúng tôi cũng thử đưa ra một cách lý giải về tên gọi này như sau: Xét trong số các “con của rồng”, theo truyền thuyết “long sinh cửu tử” của Trung Hoa đã du nhập vào văn hóa Việt Nam, có toan nghê là linh vật có nhiều đặc tính giống con nghê nhất như thân thú, có bờm... Rất có thể toan nghê1 từ văn hóa Trung Hoa thông qua một tên gọi Hán-Việt có chữ “nghê” đã được Việt hóa thành con nghê của người Việt.2 “Bản thân chữ nghê trong tiếng Hán gồm bộ Cẩu (chó) và chữ Nhi (trẻ con) hợp thành” (Trần Hậu Yên Thế 2011, tr.8).
1 Toan nghê hay kim nghê (theo thuyết “long sinh cửu tử” trong văn hóa Trung Hoa) là linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh lặng và ngắm cảnh hương khói, vì vậy, toan nghê được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương.
2 Hình thức Việt hóa ngôn ngữ ngoại nhập bằng những từ tiếng Việt ngắn gọn hơn là một đặc tính khá phổ biến trong văn hóa Việt Nam. Chẳng hạn, vải chế từ sợi ni-lon (nilon) được gọi là vải lon; Từ ki-ốt (kios - cửa hàng) biến thành ốt trong tiếng Việt; Ngành học về phân tích tâm lí (cả 4 từ này đều là gốc Hán) biến thành phân tâm trong tiếng Việt… Điều này có thể xảy ra giống như trường hợp Rahu - La hầu biến thành Hổ phù. Xem phần Hổ phù trong cuốn sách này.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm về sự ảnh hưởng của biểu tượng sư tử trong nghệ thuật Phật giáo đến biểu tượng con nghê trong văn hóa Việt Nam vì sư tử (Simha) cũng là một linh vật quan trọng trong văn hóa Ấn Độ. Biểu tượng sư tử được cho là linh vật có sức mạnh siêu việt trong văn hóa Ấn Độ nên nó đã được sử dụng khá phổ biến từ thời vua A Dục (Asoka) đặt trên đỉnh các cột kinh - thường được gọi là cột đá Asoka 1 từ giai đoạn hưng thịnh của vương triều Maurya tại Ấn Độ tạo nên một biểu tượng linh thiêng của Phật giáo và của văn hóa Ấn Độ.
1 Loại cột kinh này cũng được tìm thấy trong văn hóa Việt Nam từ giai đoạn Đinh - Tiền Lê.
Tuy nhiên, sư tử không phải là loài vật phổ biến ở Trung Hoa, Việt Nam và các quốc gia ở Đông Nam Á nên trong nghệ thuật tạo hình của người Việt trước khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam hoàn toàn không có biểu tượng sư tử. Phải chăng do không có nguyên mẫu sư tử ở Đại Việt nên các nghệ nhân đã sáng tạo nên một loại linh vật “ngô nghê” mang đặc tính dân gian nên từ đó xuất hiện tên gọi nghê? Trên đây chỉ là một vài giả thuyết mang tính gợi mở của chúng tôi dưới góc độ văn hóa dân gian và sự suy luận dưới góc nhìn của nghệ thuật tạo hình, vấn đề này cần được tìm hiểu thêm bằng các phương pháp tiếp cận từ các chuyên ngành khác nhau.
2. Những biểu hiện của con nghê trong nghệ thuật tạo hình của người Việt
Khác với rồng là linh vật có vô số huyền thoại liên quan đến lịch sử hình thành dân tộc hoặc liên quan đến các bậc đế vương, nghê là một linh vật hết sức giản dị tồn tại trong văn hóa dân gian của đại bộ phận dân chúng. Vì vậy mà khi tìm hiểu về biểu tượng nghê, chúng tôi không phân tích bằng các huyền thoại như đối với rồng mà tìm hiểu trên cơ sở đặc thù văn hóa Việt Nam, đặc biệt là nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt.
Xét về mặt tạo hình, nghê là con vật có bốn chân, “có kỳ mà không có sừng, mình thon nhỏ, dáng thanh, trông rõ ràng dáng chó chứ không tròn mập như dáng như sư tử” (Bùi Ngọc Tuấn, 2011). Do đây là một linh vật hư cấu nên nó không có hình dáng cố định như hổ hay sư tử mà luôn có sự biến đổi, “thiên biến vạn hóa.” Trong các tư liệu lịch sử của Việt Nam chúng tôi chưa tìm thấy bất cứ một quy định nào của triều đình về thể thức tạo hình của con nghê (giống như những quy định về thể thức tạo hình của triều đình Trung Hoa đối với các linh vật có tính cung đình). Vì vậy, chúng ta có thể đặt giả thuyết con nghê là một linh vật được hình thành trên nền tảng văn hóa dân gian Việt Nam với các đặc trưng văn hóa bản địa, có sự kết hợp với các biểu tượng được du nhập từ Trung Hoa và Ấn Độ. Tuy nhiên, do được hình thành trong văn hóa Việt Nam nên biểu tượng con nghê mang đặc trưng văn hóa của người Việt. Chính yếu tố này đã kiến tạo nên một biểu tượng văn hóa mới của người Việt khác Hoa và khác Ấn.
Nếu nghê là một linh vật hư cấu được sản sinh trong nền văn hóa của người Việt, không phải là một con vật có trong tự nhiên mà cũng không phải là một “linh vật hoàn toàn nhập ngoại”, vậy, nghê là linh vật được kết hợp bởi những đặc điểm của những con vật nào? Theo chúng tôi, trong văn hóa dân gian Việt Nam có một loài vật đã được thiêng hóa từ lâu đời là con chó và chó cũng được tạc thành tượng đặt ở cửa, cổng của nhiều công trình kiến trúc gọi là chó đá. Thậm chí ở một số nơi còn lập ban thờ, miếu thờ dành cho chó. Phải chăng, biểu tượng chó đá của người Việt đã kết hợp với biểu tượng Toan nghê và Sư tử trong văn hóa Trung Hoa để biến thành con nghê trong nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt?
Đây là một câu hỏi không dễ trả lời, tuy nhiên chúng tôi xin được đưa ra một cách lý giải riêng như sau: Biểu tượng con chó trong nghệ thuật dân gian của người Việt vốn giản dị và có phần “thấp kém”1 hơn về địa vị nếu so sánh với các linh vật khác như kỳ lân, rồng... Khi văn hóa Khổng - Nho từ Trung Hoa ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam thì con vật canh cửa giản dị đó cần được “nâng cấp” cho tương xứng với những vai trò và vị trí mới. Rất có thể các nghệ nhân dân gian xưa đã thêm vào nhiều đặc tính “mới” từ lân/lân mã/ long mã/ li để “sang hóa” những linh vật canh cửa của mình.
1 Trong tiếng Hán có hai chữ chỉ chó, một là cẩu, hai là khuyển. Những thành ngữ có từ cẩu và khuyển đại bộ phận có ý nghĩa rất tệ hại. Theo Trần Hậu Yên Thế, tldd., tr. 13.
Khi con nghê đã được định hình trong văn hóa Việt Nam, nó được lấy thêm nhiều đặc điểm của các linh vật khác như hổ, sư tử, rồng, lân… Thậm chí là khỉ, tương ứng với những dáng, thế khác nhau, tùy thuộc vào vai trò và vị trí của mỗi biểu tượng. Tuy nhiên, đặc tính của con vật “canh cửa” vẫn là một đặc điểm nổi trội nhất của con nghê. Có lẽ vì vậy mà từ “chầu” trong thành ngữ “phượng múa nghê chầu” đã trở thành một đặc tính quan trọng để nhận dạng con nghê trong văn hóa Việt Nam. Đây cũng là cách thức để chúng ta có thể phân biệt con nghê trong nghệ thuật tạo hình dân gian của người Việt với các linh vật “ngoại nhập” như sư tử từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ đã và đang hiện hữu trong văn hóa Việt Nam.
Nói tóm lại, cho dù biểu tượng con nghê được hình thành từ những loài vật nào thì chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng, đặc tính dân gian của con nghê đã biến nó thành một đối tượng thể hiện có tính hư cấu cao trong nghệ thuật tạo hình của người Việt. Có lẽ vì vậy mà nghê trở nên một linh vật giàu ngôn ngữ biểu tượng trong nghệ thuật tạo hình dân gian, bên cạnh con rồng là một dạng linh vật đã được “thể thức hóa” từ văn hóa cung đình. Có điều đó là do sự kết hợp đặc tính của con vật hư cấu cộng thêm tính dân gian của biểu tượng nghê khiến cho các nghệ nhân dân gian có thể phát huy được tối đa khả năng sáng tạo/hư cấu của mình. Sức sáng tạo đó đã góp phần đưa biểu tượng con nghê trong văn hóa Việt Nam lên tầm của một linh vật biểu tượng đặc sắc mang tâm hồn Việt Nam, bản sắc Việt Nam. Đây chính là một trong những thành tố văn hóa tiêu biểu nhất của nền văn hóa Việt Nam được sáng tạo bởi các nghệ nhân dân gian trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Mặc dù biểu tượng con nghê có sự ảnh hưởng của các linh vật ngoại nhập từ Trung Hoa hoặc Ấn Độ, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng nghê là một linh vật có tên gọi thuần Việt và có nhiều nét văn hóa bản địa đặc trưng của người Việt. Sự hình thành biểu tượng con nghê trong văn hóa Việt Nam là một sáng tạo tuyệt vời của cha ông ta trong việc tiếp thu và biến đổi các yếu tố văn hóa du nhập trên cơ tầng văn hóa bản địa để hình thành nên những thành tố văn hóa của riêng mình. Chính điều này đã góp phần tạo nên những nét đặc trưng trong văn hóa Việt Nam và đó cũng chính là một nét bản sắc văn hóa của người Việt, khác Hoa và khác Ấn. Hơn thế, biểu tượng nghê không hình thành từ những huyền thoại mà ra đời và phát triển thông qua quá trình lao động, chế tác của các nghệ nhân. Chính vì lí do đó mà biểu tượng nghê lại trở nên gần gũi mà sống động với vô vàn hình dáng khác nhau, vô vàn kiểu thức khác nhau, khiến cho ngôn ngữ tạo hình của linh vật này trở nên hết sức phong phú và đa dạng. Sự đa dạng của biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam rộng tới mức chúng ta buộc phải phân loại, nếu không chúng ta sẽ khó có thể gọi đúng tên linh vật này.
3. Phân loại biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam
Bên cạnh sự phân biệt con nghê với các “linh vật ngoại nhập” thì chúng ta cũng cần có sự phân loại biểu tượng này trong văn hóa Việt Nam. Có thể nói, với những biểu hiện vô cùng phong phú của con nghê trong nghệ thuật tạo hình của người Việt thì việc phân loại biểu tượng nghê là một công việc không hề dễ dàng. Do con nghê không có các huyền thoại đi kèm như rồng hay kỳ lân nên việc phân loại nghê theo nguồn gốc (tên gọi, huyền thoại) là bất khả thi. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân loại linh vật biểu tượng này dựa trên các tiêu chí phân loại sau:
- Phân loại theo hình thức biểu hiện
- Phân loại theo vị trí đặt
- Phân loại theo chức năng sử dụng
- Phân loại theo giai đoạn lịch sử
- Phân loại theo khu vực địa lý
Phân loại theo hình thức biểu hiện
Đây là biện pháp phân loại đơn giản nhất vì chúng ta có thể dựa vào trực quan của mình để quan sát và xếp loại các biểu tượng nghê cho phù hợp với hình thức biểu hiện của chúng. Chẳng hạn, nghê có sừng hay không có sừng; nghê có bờm và không có bờm; nghê có vảy với nghê có lông xoắn; nghê có móng guốc và nghê có vuốt… Thậm chí, chúng ta có thể phân loại nghê theo hình dáng tổng thể như nghê dáng chó hay nghê dáng sư tử. Mặc dù cách phân loại đơn giản và tiện lợi này có thể áp dụng được cho nhiều người (cho dù họ có ít hiểu biết về nghê) nhưng với hình thức biểu hiện đa dạng như con nghê, chúng ta không thể phân làm quá nhiều loại khác nhau dựa vào những biểu hiện bên ngoài của chúng. Chính vì vậy mà một phương pháp phân loại theo vị trí sẽ giúp chúng ta dễ xác định được đâu là nghê còn đâu là những linh vật khác.
Nghê có vảy
Nghê có bờm và tai
Nghê có vân (lông) xoắn
Phân loại theo hình thức biểu hiện
Phân loại theo vị trí đặt
Dựa vào các đặc tính dân gian đã được định hình trong văn hóa Việt Nam như “phượng múa nghê chầu,” chúng ta có thể xác định được vị trí của con nghê là ở những nơi canh cổng, canh cửa, hầu hạ. Theo Từ điển tiếng Việt1 thì “chầu” là động từ có nghĩa “hầu trong cung đình để chờ nghe lệnh vua, chúa.” Ngoài ra, còn có các từ liên quan như “chầu chực” là “1. Ở bên cạnh để chờ đợi sự sai khiến. Và 2. Chờ đợi mất nhiều thời giờ để đạt một yêu cầu gì” (tr.140). Như vậy, con nghê khi “ngồi chầu” đã xác định rõ vị trí “kẻ hầu người hạ” của nó trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Khi văn hóa Trung Hoa có tác động mạnh mẽ vào văn hóa dân gian của người Việt thì vị trí này có biến đổi chút ít nhưng vẫn chủ yếu là “chầu.” Con nghê có thể chầu ở hai bên trụ cổng, chầu ở tả vu và hữu vu của các ngôi đình, ở dưới cánh cửa trong vai trò của “con cộ” - cộ cửa… Đôi khi chúng ta cũng có thể thấy nghê ngồi trên mái, trên bệ uy nghi như sư tử nhưng ngôn ngữ tạo hình lại cho thấy rõ đó là con nghê. Để phân biệt được nghê hay sư tử khi chúng “ngồi nhầm vị trí,” chúng ta cần xét đến chức năng của các linh vật này.
1 Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 1998.
Nghê trang trí
Nghê cộ cửa
Nghê chầu
Phân loại theo vị trí đặt
Phân loại theo chức năng sử dụng
Trong văn hóa Ấn Độ, sư tử (simha) là linh vật đại diện cho sức mạnh của tự nhiên có mặt trong các huyền thoại và biểu hiện của nghệ thuật tạo hình Hindu từ hàng nghìn năm trước khi được vua Asoka (A Dục đế - triều Maurya) đưa vào làm biểu tượng trọng tâm của “cột kinh Asoka.” Khi Phật giáo truyền bá sang Trung Hoa, biểu tượng này trở thành một biểu tượng sức mạnh trong Phật giáo Trung Hoa bên cạnh vai trò là một con vật “bảo vệ” (guardian) trong nghệ thuật lăng mộ Trung Hoa. Sự uy nghi và đầy vẻ “nạt nộ” này là một nét đặc trưng của sư tử trong văn hóa Trung Hoa để thể hiện sức mạnh của nó. “Ở thời điểm hoàng kim nhất của Phật giáo ở Trung Hoa, những tượng sư tử đá to lớn không phải ở các chùa chiền, đền tháp mà chủ yếu ở các lăng mộ hoàng gia. Theo thống kê của nhà nghiên cứu Li Zhigang (2011) trong cuốn Nghệ thuật điêu khắc sư tử đá Trung Hoa (中华石狮雕刻 艺术,百花文艺出版社), tại 21 lăng miếu hoàng gia từ thời Sơ Đường cho đến Vãn Đường còn lưu giữ đến nay có tổng cộng 76 bức tượng sư tử đá.”1
Trong khi đó, biểu tượng nghê hầu như chỉ mang chức năng trang trí và hoàn toàn không có “hình thức dữ dằn, gân guốc với dáng vẻ đe dọa.”2 Những con nghê chầu vào nhau không có vẻ quyền uy, dọa nạt mà tạo nên vẻ thân thiện, gần gũi, đúng như chức năng “trông nhà” và “hầu chủ” của chó. Đây cũng là lí do để các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đặt mối liên hệ giữa nghê và chó dựa trên chức năng căn bản của chúng hơn là những ảnh hưởng từ một linh vật ngoại nhập như sư tử.
1 Trần Hậu Yên Thế, “Vị thế của hình tượng sư tử trong Mỹ thuật Đại Việt.” Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh, số tháng 5/2014.
2 Mỹ Trà, “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trong VOV online ngày 9/12/2013. http://vov.vn/van- hoa/kien-quyet-loai-bo-yeu-to-ngoai-lai-ra-khoi-di-tich-viet-296001.vov
Nghê cõng tòa sen
Nghê chầu cửa đền
Nghê vờn cầu
Phân loại theo chức năng sử dụng
Phân loại theo giai đoạn lịch sử
Đây là một trong những cách thức phân loại phổ biến trong nghệ thuật tạo hình Việt Nam dựa trên một cách thức phân loại định sẵn theo lịch đại: Thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn… Cách phân loại này đã được sử dụng một cách khá “triệt để” đối với con rồng, tuy nhiên, với biểu tượng nghê thì cách phân loại này dễ dẫn đến những sự nhầm lẫn. Do nghê là một linh vật mang đặc tính dân gian nên tính thống nhất về mặt tạo hình của mỗi thời kỳ (Lý, Trần, Lê, Nguyễn) không cao như với biểu tượng rồng, chưa kể đến sự ngẫu hứng trong sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân dân gian. Họ không chịu sự ràng buộc nào về mặt thể thức tạo hình từ triều đình (hoặc một thể chế nào tương tự) nên họ hoàn toàn tự do trong việc sáng tác nên các hình mẫu của con nghê tùy thuộc vào cảm hứng nghệ thuật của chính họ. Đây là một trong những đặc điểm sáng tạo riêng của người Việt, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong chuyên mục sau.
Để tránh sự “áp đặt” về thể thức tạo hình của biểu tượng nghê qua các giai đoạn lịch sử, chúng ta cần có thêm một cách thức phân loại khác dựa vào đồng đại (thay vì lịch đại) và dựa vào không gian (thay vì thời gian) đối với biểu tượng nghê tại nơi nó được chế tác: làng nghề.
Nghê thời Lý
Nghê thời Lê
Nghê thời @
Phân loại theo giai đoạn lịch sử
Phân loại theo khu vực địa lý
Một trong những đặc trưng của các tác phẩm nghệ thuật dân gian của người Việt là chúng mang dấu ấn của làng nghề: Nơi sản xuất, chế tác. Chúng ta thường nghe đến nghề đúc đồng Ngũ Xã (Hà Nội), nghề chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), nghề tạc tượng gỗ Sơn Đồng (Hà Tây cũ), nghề làm gốm Bát Tràng (Hà Nội)… Những địa danh gắn với các nghề truyền thống nêu trên chính là “thương hiệu” của sản phẩm và cũng chính là một cách phân loại tự nhiên theo khu vực địa lý. Biểu tượng nghê được chế tác tại làng nghề này sẽ không giống biểu tượng nghê của làng nghề khác. Mục đích chế tác, cách sử dụng nguyên liệu, cách tạo tác mẫu, thậm chí cách sử dụng công cụ lao động khác nhau chính là những nét riêng biệt trong nghệ thuật chế tác biểu tượng nghê ở mỗi làng nghề. Vì vậy mà chúng ta cũng có thể phân loại biểu tượng nghê Bát Tràng, nghê Bình Dương, nghê Phù Lãng… khác nhau như thế nào. Cách phân loại này nếu được kết hợp với chất liệu tạo tác sẽ cho chúng ta một cái nhìn cụ thể nhất đối với biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam.
Nghê Chu Đậu
Nghê Bát Tràng
Nghê đá ở Huế
Phân loại theo khu vực địa lý
Trên đây là một số phương pháp phân loại biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam mà chúng tôi đã áp dụng trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta vẫn cần thêm những cách phân loại khác để đạt tới mục tiêu cuối cùng là xác định một cách rõ ràng nhất, cụ thể nhất đối với biểu tượng nghê. Chẳng hạn một con nghê đất nung, đời Lê, được sản xuất ở Bát Tràng, có đặc trưng lông xoắn và được đặt ở ban thờ là những tiêu chí cần tìm. Nhưng vì biểu hiện của nghê vô cùng phong phú và đa dạng nên rất khó để chúng ta có thể hội đủ các thông tin trong mỗi hiện vật. Vì vậy, mỗi cách phân loại nêu trên có thể đáp ứng được một tiêu chí mà chúng ta mong muốn. Để đạt được đủ các tiêu chí trong việc xác định biểu tượng nghê trong văn hóa dân gian Việt Nam chúng ta cần kết hợp nhiều phương pháp phân loại với nhau. Vì vậy, việc phân loại biểu tượng nghê càng kĩ lưỡng càng giúp chúng ta xác định được các giá trị đặc sắc của con nghê trong nền văn hóa Việt Nam.
4. Giá trị của biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam
Năm 2003, khi Giải vô địch bóng đá các quốc gia Đông Nam Á lần thứ 22 (SEAGAME-22) lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam, các quan chức cao cấp ngành thể thao đã phải “mất ăn mất ngủ” vì mất nhiều tháng không tìm được “linh vật biểu tượng” của Việt Nam dành cho sự kiện này. Cuối cùng, Ban tổ chức đã chọn con Trâu vàng với những hình “đầu trâu” làm linh vật biểu tượng cho SEAGAME-22. Sự kiện đó qua đi, nhưng nhiều người vẫn không hài lòng với việc chọn “đầu trâu” làm logo in trên các sản phẩm đại diện cho quốc gia, vì trong văn hóa Việt Nam có câu thành ngữ “đầu trâu mặt ngựa” chỉ những kẻ vô lại, đầu trộm, đuôi cướp… Thiết nghĩ, nếu Ban tổ chức lập một hội đồng tư vấn có các nhà chuyên môn, các chuyên gia nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội và nghệ thuật thì việc chọn lựa sẽ dễ dàng hơn và không xảy ra những vấn đề đáng tiếc. Theo chúng tôi, nếu một sự kiện tương tự trong tương lai được tổ chức ở Việt Nam và chúng ta cần chọn một linh vật biểu tượng của Việt Nam thì con nghê hoàn toàn có thể là một ứng viên phù hợp với các tiêu chí đặt ra bên cạnh gà trống Gaulois của Pháp, sư tử Anh hay tê tê Fuelco của Brazil... Các tiêu chí quan trọng nhất cần đặt ra như lịch sử, văn hóa, nghệ thuật gắn với những giá trị đặc sắc nhất của linh vật đều có thể tìm thấy qua biểu tượng con nghê trong văn hóa Việt Nam.
Giá trị lịch sử
Khi tìm hiểu về các linh vật trong văn hóa truyền thống Việt Nam, chúng ta thường nghe nói tới giao long, thuồng luồng, hay một linh vật có sừng (như di vết ở hang Đồng Nội) như là những linh vật truyền thống của người Việt có từ thời Đông Sơn, thậm chí là “vật tổ” của người Việt từ thời tiền sử. Những linh vật này được nhiều nhà nghiên cứu coi như những biểu tượng đặc trưng của nền văn minh Việt trước giai đoạn thuộc Hán, vẫn còn tồn tại đến ngày hôm nay mà chưa bị người Hán đồng hóa. Tuy nhiên, những di vật nói trên, tuy là những hiện vật vô cùng quý giá (được bảo quản cẩn thận trong bảo tàng, được công nhận là bảo vật quốc gia…) nhưng chúng lại là những hiện vật “chết.” Những hiện vật này, trên thực tế, chỉ là các hiện vật khảo cổ được phát hiện trong không gian cư trú của người Việt Nam hiện nay, còn chúng đóng vai trò gì và được sử dụng như thế nào trong đời sống văn hóa của người Việt cổ thời Đông Sơn lại là một vấn đề đang “trên đường tìm hiểu.” Trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, chúng đã không còn tồn tại.1
Trong khi đó, một linh vật tồn tại liên tục trong suốt dòng chảy văn hóa Việt hàng nghìn năm qua lại hầu như không được nghiên cứu tới, đó là con nghê. Con nghê hiện hữu trên các kiến trúc cung đình thời Lý - Trần, trên đình chùa thời Lê, và trên ban thờ tư gia của nhiều gia đình người Việt ngay trong giai đoạn hiện tại. Điều đó cho thấy, nghê là một hiện vật “sống” trong đời sống tinh thần của người Việt. Tìm hiểu sự tồn tại và phát triển của biểu tượng nghê qua mỗi thời kỳ lịch sử sẽ cho chúng ta một góc nhìn mới đối với kinh tế, xã hội, văn hóa và nghệ thuật của các giai đoạn lịch sử đó. Công việc này đã được các nhà nghiên cứu thực hiện khá thành công đối với biểu tượng con rồng trong văn hóa Việt Nam từ thời Lý đến thời Nguyễn.2
1 Vì vậy mà nhiều nhà nghiên cứu đã gán giao long hay thuồng luồng như là “thủy tổ” của con rồng hiện tại và linh vật có sừng ở hang Đồng Nội là “vật tổ” của người Việt. Xem thêm: Đinh Hồng Hải, Biểu tượng người có sừng ở hang Đồng Nội, tldd.
2 Các cuốn sách trong bộ sách viết về mỹ thuật từ thời Lý đến thời Nguyễn hầu như không đề cập đến con nghê, trong khi con rồng được phân tích, mô tả hết sức kĩ lưỡng.
Không hiểu sao cách làm này không được áp dụng đối với con nghê? Phải chăng nghê không phải là một linh vật cung đình nên không được triều đình quan tâm? Phải chăng nghê là con vật tầm thường, thấp kém, không đáng để tìm hiểu? Với các câu hỏi này, chúng ta cần hướng sự chú ý tới các giá trị văn hóa của biểu tượng nghê.
Giá trị văn hóa
Con nghê được coi như một linh vật tiêu biểu cho tính thuần Việt và mang bản sắc văn hóa Việt Nam nhưng trong tư liệu thành văn của Đại Việt - Việt Nam hầu như không có tài liệu nào đề cập đến linh vật này. Trong khi đó, biểu tượng Xi vẫn - một linh vật thuộc “chín con của rồng” có nguồn gốc Trung Hoa - lại được đưa vào những áng thơ văn kinh điển, chẳng hạn:
鴟 吻 倒 眠 方 鏡 冷
塔 光 雙 峙 玉 尖 寒
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
(Hình xi vẫn ngủ ngược trên gương nước lạnh
Đôi bóng tháp thon vút như ngón tay ngọc giá băng) 1
1 Trích trong Diên Hựu Tự (延祐寺) của Trúc Lâm đệ tam tổ - Thiền sư Huyền Quang Lý Đạo Tái (1254 -1334), xem: Trần Trọng Dương, “Xi vẫn - Xi vỹ: những xu hướng biến đổi hình tượng trong văn hóa Việt Nam và Đông Á,” bản thảo thuộc đề tài: Biểu tượng rồng Việt Nam trên cơ tầng văn hóa châu Á. Mã số: VIII.1.3-2012.01. Do Quỹ Phát triển khoa học công nghệ quốc gia (NAFOSTED) tài trợ năm 2014.
Điều đó cho thấy quan điểm “nhất bên trọng, nhất bên khinh” của quan lại và các bậc trí giả Nho học xưa đối với các biểu tượng cung đình và bình dân. Nhưng dường như sự “thiếu quan tâm” đó lại giúp cho biểu tượng con nghê của Đại Việt phát triển một cách tự do trong vô vàn sự ràng buộc khắt khe của thể chế phong kiến Khổng - Nho suốt hàng nghìn năm qua với các biểu tượng văn hóa. Biểu tượng nghê có mặt hầu khắp mọi nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ người sang đến kẻ hèn, từ các bậc thức giả đến người không biết chữ… Con nghê với vai trò “người hầu kẻ hạ” hiện diện ở mọi tầng lớp trong xã hội và đi vào đời sống của dân gian một cách hết sức tự nhiên như chính tâm hồn của người Việt và văn hóa của người Việt.
Sự “thấm nhuần” đặc tính dân gian của con nghê khiến cho nó trở thành một “con vật” gần gũi, thân thương hơn là một linh vật đáng sợ hãi, nể trọng và tôn thờ. Đặc tính này đi thẳng vào lòng người dân thuộc mọi tầng lớp trong xã hội như tình cảm đối với mái đình - cây đa - bến nước hay “canh rau muống, cà dầm tương” đã bao đời ăn sâu vào trong tâm trí của người Việt. Có lẽ đặc tính văn hóa này của người Việt qua biểu tượng con nghê đã “ngấm” vào trong dòng suy nghĩ của các nghệ nhân dân gian - những người nghệ sĩ sáng tạo nên biểu tượng nghê - để rồi chúng lại được tái hiện ở mọi lúc mọi nơi thông qua đôi bàn tay tài hoa của họ bằng những kiệt tác của nghệ thuật tạo hình dân gian trong suốt hàng nghìn năm qua.
Giá trị nghệ thuật
Khi nói đến nghệ thuật thì “tự do” là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Điều này không chỉ đúng với nghệ thuật hiện đại ngày hôm nay mà còn đúng với nghệ thuật dân gian của cha ông ta ngày xưa. Đơn cử con rồng, ở thời Lý, ngay sau nghìn năm Bắc thuộc, người dân Đại Việt được hưởng tự do, độc lập. Trong bối cảnh đó con rồng thời Lý ra đời và đã khẳng định được giá trị nghệ thuật vượt lên mọi đồ án rồng khác, trở thành một kiệt tác nghệ thuật của Đại Việt. Vẫn là con rồng, nhưng đến giai đoạn cuối nhà Nguyễn bị áp chế mọi bề của triều đình nhà Thanh, con rồng thời kỳ này trở nên gò ép, gai góc, lệ thuộc và thiếu sáng tạo.
Vì vậy, có thể nói rằng, yếu tố tự do được thể hiện qua nghệ thuật tạo hình con nghê trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam là sự tự do về nghệ thuật gần như tuyệt đối. Ngoài sự tự do về ý tưởng (không bị áp đặt về tư tưởng của triều đình), các nghệ nhân dân gian còn được tự do hư cấu (vì nghê là một con vật hư cấu) và đặc biệt là tự do sáng tạo. Với sự tự do tuyệt đối về quy mô và kiểu thức sáng tạo, các nghệ nhân dân gian có thể tùy ý tạo nên những con nghê với hình thức và màu sắc theo ý tưởng của riêng mình… Chính sự “tùy ý” này đã đưa con nghê đến đỉnh cao của sự sáng tạo trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam.
Là một linh vật hư cấu, con nghê tích hợp các yếu tố từ nghệ thuật dân gian đến nghệ thuật cung đình, từ nghệ thuật bản địa đến nghệ thuật du nhập. Các yếu tố văn hóa từ Trung Hoa, Ấn Độ, Champa, Xiêm La, Chân Lạp, Ai Lao thông qua các con vật/linh vật khác được các nghệ nhân tích hợp lại qua trí tưởng tượng của họ để biến thành những linh vật mới mang dấu ấn nghệ thuật của riêng họ. Đáng tiếc là người Việt không có thói quen ghi tên mình hoặc các thông tin có liên quan lên tác phẩm của mình, nên những kiệt tác mà chúng ta được chiêm ngưỡng ngày hôm nay đều không có một thông tin nào về tác phẩm và tác giả của chúng.1
1 Một trong những sản phẩm hiếm hoi là chiếc bình hoa lam của Gốm Chu Đậu thế kỷ 16 được một nghệ nhân họ Bùi ghi lại, hiện đang trưng bày tại Thổ Nhĩ Kỳ, đã nâng tầm giá trị của chiếc bình lên hàng triệu đô-la.
Với vô số tác phẩm, vô số tác giả và vô vàn cách thức biểu hiện nhưng biểu tượng con nghê vẫn có những đặc tính riêng khiến chúng ta không thể nhầm với một số loài vật/linh vật khác như chó và sư tử. Vậy điều gì khiến cho con nghê - một linh vật hư cấu - có được đặc tính riêng như vậy? Câu trả lời đó là tính biểu tượng trong nghệ thuật.1 Có thể nói rằng, nếu tính tự do trong nghệ thuật giúp cho biểu tượng con nghê đạt đến đỉnh cao của sự sáng tạo thì tính biểu tượng trong nghệ thuật lại là yếu tố giúp cho con nghê xác định được đặc tính riêng, đó là tính bản địa. Chính đặc tính này là cơ sở để các nhà chuyên môn cũng các cơ quan quản lý khẳng định bản sắc văn hóa Việt Nam qua biểu tượng con nghê trong “cuộc chiến” nghê - sư tử đang diễn ra hiện nay.
1 Xem thêm bài: “Tính biểu tượng trong nghệ thuật” của Đinh Hồng Hải trong Tạp chí Mỹ thuật ứng dụng số 1, tháng 6/2014.
Cuộc chiến nghê - sư tử hiện nay
Vừa qua, Cục mỹ thuật, Triển lãm và Nhiếp ảnh - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành công văn 2662/BVHTTDL-MTNATL cảnh báo về sự xâm lăng của các yếu tố văn hóa ngoại lai không phù hợp vơi thuần phong mỹ tục Việt Nam. Trên VOV online ngày 9/12/2013, ông Trương Minh Tiến, Phó Giám đốc Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Hà Nội cho biết, thời gian tới, Sở sẽ tiến hành thanh tra, kiểm kê di tích trên toàn bộ địa bàn. Đặc biệt, Sở sẽ kiên quyết loại bỏ những hiện vật như đèn lồng, sư tử đá kiểu Trung Quốc… những hiện vật có yếu tố ngoại lai ra khỏi các di tích.2
2 Mỹ Trà, “Kiên quyết loại bỏ yếu tố ngoại lai ra khỏi di tích Việt,” trên VOV online, Bđd.
Điều này cho thấy vấn đề “nhầm lẫn” giữa nghê và sư tử hiện nay không còn là một sự “vô tình,” một vấn đề đơn giản, mà đó thực sự là một cuộc chiến. Đây là cuộc chiến giữa sự hiểu biết và thiếu hiểu biết, giữa tỉnh táo và mê muội, giữa bản sắc văn hóa và chủ nghĩa “lai căng,” giữa văn hóa hữu hình với một “bàn tay vô hình” nào đó,…
Mặc dù con nghê là linh vật mang bản sắc văn hóa Việt Nam mang trong mình các giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật “vô giá” nhưng dường như lại nhận được một sự ứng xử “vô ý” của người dân. Rõ ràng, cuộc chiến không cân sức giữa nghê và sư tử đòi hỏi các nhà quản lý phải có tầm nhìn đủ xa cũng như sự hiểu biết đủ rộng để có sự định hướng đúng đắn. Văn bản của Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm mới đây đã cho thấy quyết tâm của cơ quan quản lý với cuộc chiến dài hơi này.
Có thể thấy rằng, biểu tượng nghê đã tồn tại hàng nghìn năm qua với bao thăng trầm của lịch sử, nhưng nó vẫn phát triển trong văn hóa Việt Nam và trở nên một linh vật biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt Nam. Có điều đó là do những giá trị tự thân của con nghê, nhưng cũng phải nói thêm rằng, trong quá khứ người Hán chưa “đếm xỉa” đến một con vật linh “hạ đẳng” như con nghê trong suốt quá trình Hán hóa hàng nghìn năm của họ. Dường như họ chỉ đặt nặng sự đối phó quân sự với người Việt.
Nhưng giờ đây, dường như họ đã nhận ra sức sống mãnh liệt của văn hóa Việt Nam nên đã và đang thực hiện một cuộc chiến văn hóa mới, “hủy diệt” từ những linh vật “tầm thường” như con nghê. Nếu điều này là có thực thì việc người Việt phải đứng trước nguy cơ bị “diệt chủng” như người Mãn là có thể xảy ra, vì những thành tố văn hóa của người Việt lại có thể bị hủy hoại bằng chính bàn tay người Việt. Điều này còn nguy hiểm hơn cả mật lệnh của Minh Thành Tổ gửi tổng binh Chu Năng: “Một khi binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại [sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn.”1
1 Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, đề ngày 8 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21 - 8 - 1406) - theo bản Thư viện KHXH: 1731/I. Trong bản Việt kiệu thư do Tề Lỗ thư xã xuất bản thì không đề ngày, nhưng xếp thứ tự ở giữa hai đạo sắc ban bố ngày 4 - 7 - 1406 và ngày 29 - 7 - 1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 26a - b.Nguyên văn:兵入。除釋道經板經文不燬。 外一切書板文字以至俚俗童蒙所習。如上大人丘乙已之類。片紙 隻字悉皆燬之。其境內中國所立碑刻則存之。但是安南所立者悉壞之。一字不存 (Binh nhập, trừ Thích, Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn). Dẫn theo Nguyễn Huệ Chi trong Tạp chí Văn hóa Nghệ An. Xem bản đầy đủ trong: http://www.vanhoanghean.com.vn/goc-nhin-van- hoa3/nh%E1%BB%AFng-g%C3%B3c-nh%C3%ACn-v%C4%83n-h%C3%B3a/tieu-diet-tan-goc-van-hoa-viet-nam-thu-doan-cua-minh-thanh-to-trong-cuoc-chien-tranh-xam-luoc-1406-1407
* * *
Qua nghiên cứu biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng tôi tạm đi đến một số kết luận bước đầu như sau:
- Nghê là một linh vật thuần Việt nhưng có sự tiếp thu một số thành tố văn hóa bên ngoài từ Ấn Độ, Trung Hoa...
- Nghê là một linh vật hư cấu được kết hợp bởi chó, kỳ lân, sư tử cùng nhiều linh vật khác hiện có hoặc từng có sự hiện diện trong văn hóa Việt Nam.
- Biểu tượng nghê không chỉ là một tập hợp của các giá trị lịch sử và văn hóa mà còn là nơi bảo lưu các giá trị nghệ thuật trong truyền thống của người Việt.
- Để phân biệt các biểu tượng nghê trong văn hóa Việt Nam, chúng ta có thể sử dụng các biện pháp phân loại như:
- Phân loại theo hình thức biểu hiện
- Phân loại theo vị trí đặt
- Phân loại theo chức năng sử dụng
- Phân loại theo giai đoạn lịch sử
- Phân loại theo khu vực địa lý
Mặc dù là một linh vật mang trong mình những giá trị hết sức đặc sắc của văn hóa truyền thống Việt Nam nhưng việc nhìn nhận, đánh giá về con nghê Việt Nam hiện nay vẫn chưa được chú ý đúng mức. Chính sự thiếu quan tâm của chúng ta đã khiến cho biểu tượng con nghê đang bị “thất thế” trước một biểu tượng ngoại nhập, lai căng, đó là sư tử Trung Hoa. Vì vậy, sự tăng cường hiểu biết của chúng ta đối với các giá trị, đặc biệt là các giá trị nghệ thuật, của con nghê là hết sức cần thiết. Mong rằng, các cơ quan, ban ngành chức năng, các bậc thức giả, các nhà quản lý đặt mối quan tâm đặc biệt đối với biểu tượng này, coi đó như là một cách giải Hán hay thoát Trung đang được bàn luận sôi nổi trong thời gian gần đây.