1 Xem: Đinh Hồng Hải 2018. “Nạn hồng thủy và motif quả bầu ở Việt Nam và Đông Nam Á từ góc nhìn khu vực học.” Tạp chí Bảo tàng và nhân học số 2, 2018. ISSN: 0866-7616.
Nạn hồng thủy (Deluge trong tiếng Anh, Hong Shui-洪水 trong tiếng Hán,…) là một huyền thoại phổ biến ở nhiều nền văn hóa, nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau trên thế giới đề cập đến một trận lụt hủy diệt. Sau khi trận lụt rút đi chỉ còn lại một vài sinh linh sống sót theo sự sắp đặt của Thượng đế, từ đó mang đến sự hồi sinh của thế giới. Tương tự như những quan niệm về Ngày tận thế (Doomdays), huyền thoại về nạn hồng thủy (NHT) có sức sống mãnh liệt trong văn hóa của nhiều tộc người trên thế giới. Ở Việt Nam và Đông Nam Á, NHT được xem như một huyền thoại tái sinh của nhân loại với “vật cứu tinh” là một quả bầu đã giúp họ thoát khỏi trận lụt khủng khiếp. Quả bầu trong văn hóa các tộc người Việt Nam và Đông Nam Á cũng được xem như một biểu tượng cội nguồn của sự hình thành các tộc người trong khu vực này.
Vì sao vật cứu tinh trong các huyền thoại về NHT ở Việt Nam và Đông Nam Á lại là một quả bầu mà không phải là những con thuyền lớn (như thuyền Noah trong Kinh thánh) hay những “vật nổi” khác? Vật cứu tinh này có phải là đặc trưng về địa lý nhân văn của Đông Nam Á? Yếu tố đồng tộc (có chung nguồn gốc) như sự lý giải được nêu trong các huyền thoại có ý nghĩa gì? Yếu tố địa chất, địa lý đóng vai trò như thế nào đối với mẫu số chung của các huyền thoại về NHT ở Việt Nam và Đông Nam Á? Để trả lời những câu hỏi này trước hết chúng ta cần đặt quả bầu trong vai trò của một motif điển hình trong các huyền thoại tái sinh của loài người ở Đông Nam Á. Mặt khác, motif này phải có sự đối sánh với các khu vực khác trên thế giới để tìm hiểu sự khác biệt so với khu vực Đông Nam Á.
Bên cạnh việc khảo sát các huyền thoại về NHT, nghiên cứu này cũng sẽ tìm hiểu các dấu tích địa chất (geology) và địa lý (geography) trên cơ sở những di vết còn sót lại trong quá trình biển tiến (transgression) và biển lùi (regression) ở Việt Nam và Đông Nam Á. Từ đó, thử tìm những cách lý giải mới về NHT và motif quả bầu trong văn hóa ở khu vực này dưới góc nhìn khu vực học. Xa hơn, nghiên cứu cũng muốn gợi mở một cách tiếp cận mới từ dấu tích huyền thoại và dấu tích địa chất và địa lý về NHT để tìm hiểu về di vết lục địa Sundaland - một nền văn minh cổ đại ở Đông Nam Á mà Stephen Oppenheimer1 cho là đã bị nhấn chìm ở ngoài khơi biển Đông Nam Á hiện nay.
1 Cuốn sách này (đã dẫn ở phần trước) đã được dịch ra tiếng Việt (Địa đàng ở phương Đông - Lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm) đề cập đến nền văn minh Đông Nam Á tiền sử mà chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn trong mục 4.4. Hiện nay Stephen Oppenheimer đang giảng dạy nhân học trong vai trò Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Oxford, Vương quốc Anh.
1. Khu vực học với vấn đề nghiên cứu Đông Nam Á
Khu vực học (area/regional studies) là một bộ môn nghiên cứu xã hội đa ngành tập trung vào các vùng địa lý cụ thể hoặc các khu vực được xác định về mặt văn hóa. Khu vực học nghiên cứu nhiều lĩnh vực khác nhau của lịch sử, xã hội học, dân tộc học, địa lý, ngôn ngữ học, văn học và nghiên cứu văn hóa với các quan hệ có tính quốc tế. Đây là một hướng tiếp cận mới trong nền học thuật thế giới vốn được định hình trong các bộ môn nghiên cứu khác và được sử dụng như một công cụ nghiên cứu chuyên biệt và có hiệu quả từ nửa sau của thế kỷ XX.
Khu vực học (KVH) có ba hướng trọng yếu như sau: “Hướng tiếp cận niên đại, Khoa học Vùng (Regional Science) và các diễn giải về văn hóa và xã hội khu vực đương đại. Mỗi hướng tiếp cận được thể hiện qua ba khía cạnh: Lý thuyết, phương pháp luận và thực hành. Những biến đổi về vai trò và vị trí của địa lý học cũng được đề cập trong các nghiên cứu KVH” [Sagan 2003: 5-19]. Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại đã và đang chứng kiến những biến động vô cùng lớn về di dân, chủ nghĩa khủng bố hay biến đổi khí hậu có nguyên nhân từ con người. Những biến đổi to lớn đó (bao gồm cả tích cực và tiêu cực) không chỉ đến từ những nguyên nhân có liên quan đến kinh tế chính trị hay công nghệ mà sâu xa hơn là nền tảng văn hóa. Trong khi châu Âu đang vật lộn với cuộc khủng hoảng di dân thì ở Đông Nam Á - một khu vực tưởng như bình yên - lại đang dậy lên những cơn sóng ngầm với các vấn đề tộc người và lãnh thổ. Các chính sách công của nhiều cường quốc trên thế giới đối với khu vực Đông Nam Á hiện nay (bao gồm cả chính sách Xoay trục của Mỹ) đa phần dựa trên các yếu tố địa chính trị nhưng dường như lại đang thiếu đi yếu tố địa văn hóa.
Nghiên cứu này sẽ không đề cập đến các vấn đề ‘nổi cộm’ của Đông Nam Á như lãnh thổ hay biển đảo mà chỉ đi sâu tìm hiểu các yếu tố cấu thành bản sắc Đông Nam Á - một trong những nền tảng tạo nên những đặc tính tương đồng của khu vực này. Từ đó xác định lại sự “thống nhất trong đa dạng” mà Đông Nam Á đang có cũng như những thách thức trong quá trình xây dựng một Đông Nam Á bền vững và hiệu quả trong tương lai. Nghiên cứu này cũng sẽ tìm hiểu những yếu tố tương đồng và dị biệt của văn hóa Đông Nam Á xưa và nay để hướng đến nhận thức chung cho các quốc gia ASEAN đối với các vấn đề khu vực dưới góc nhìn KVH. Dưới góc nhìn KVH, Đông Nam Á là một khu vực địa lý cụ thể nằm ở đông nam của châu Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Ấn Độ và Trung Hoa trong quá khứ cũng như phương Tây hiện nay. Tuy nhiên, Đông Nam Á lại có những nét đặc trưng bản địa mà khó có thể tìm thấy ở một nơi nào trên thế giới. Đó là một trong những khu vực có số lượng ngôn ngữ tộc người và các đặc tính văn hóa đa dạng nhưng lại có những nét chung của một khu vực địa lý, khí hậu đặc thù. Để hiểu rõ những nét đặc trưng nói trên trong văn hóa Đông Nam Á, chúng tôi sẽ bắt đầu từ một thành tố văn hóa cụ thể - đó là biểu tượng quả bầu - phổ biến khá rộng trong văn hóa của khu vực này gắn với một huyền thoại phổ quát của nhân loại, đó là nạn hồng thủy từ góc nhìn KVH.
2. Nạn hồng thủy qua huyền thoại và dấu tích địa chất
2.1. Nạn hồng thủy qua các huyền thoại
Theo Kinh Cựu ước, Chúa phán với Noah rằng, “Ta cho hồng thủy đến trên cõi đất, mà hủy hoại mọi xác thịt có sinh khí dưới gầm trời. Mọi sự trên đất sẽ biến thành thây ma. Nhưng với ngươi, Ta lập giao ước của Ta. Và ngươi sẽ vào tàu, ngươi và con cái ngươi, vợ ngươi và vợ con cái ngươi làm một với ngươi. Trong mọi sinh vật, mọi xác thịt, ngươi sẽ đem vào tàu mỗi loại hai con, để hộ sinh cho chúng, làm một với ngươi. Chúng sẽ là một con đực, một con cái. Thuộc chim chóc theo loại, thuộc thú vật theo loại, thuộc mọi côn trùng trên đất theo loại, phải có mỗi thứ hai con đến với ngươi, hầu được độ sinh. Còn ngươi, hãy lấy mọi thức ăn được, hãy tích trữ lấy với ngươi. Đó là lương thực của ngươi và của chúng nó” (Kinh Cựu ước, tr. 5). Và Noah đã làm y như vậy.
Trong sử thi Gilgamesh, NHT được mô tả bằng một cột khói đen ở cuối đường chân trời. Sau đó bầu trời tối sầm trong vòng một tuần và một cơn bão khủng khiếp đã gây nên một trận đại hồng thủy. Người Sumer đã ghi lại rằng họ là những người sống sót sau một trận đại hồng thủy gây nên bởi Annunaki. Trong nhiều thần thoại của Trung Quốc và Ấn Độ cũng kể về một trận lũ khủng khiếp diễn ra trên khắp thế gian. Nhiều nền văn hóa ở Nam Mỹ và khu vực Thái Bình Dương cũng có những truyền thuyết tương tự.
Ở Việt Nam, NHT “có ba motif quan trọng không thể thiếu là Lụt lớn, ít người may mắn sống sót và sự tái sinh loài người. Công thức cơ bản ổn định đó có thể vận động, biến đổi ở từng khu vực, quốc gia và dân tộc... nguyên nhân gây lụt trước hết được giải thích là ý định của thần thánh. Lụt xuất hiện là do sự trả thù của trời và các vị thần trên trời đối với con người do loài người vi phạm một quy định nào đấy hoặc do Thần lo sợ trước sức mạnh ngày càng lớn của loài người. Lụt là biện pháp thần linh dùng để ngăn chặn sức mạnh của loài người, biểu hiện nỗi lo sợ của thần linh đối với loài người” [Minh Thu 2015].
Trên thực tế, các motif huyền thoại về những trận lụt lớn kể trên trong văn hóa Việt Nam cũng chính là một phần cơ bản trong các huyền thoại về sự ra đời các tộc người ở Đông Nam Á. Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Văn hóa Dân gian Hoa Kỳ của Đại học Illinois xuất bản năm 1993, Đặng Nghiêm Vạn đã tổng kết từ hơn 300 huyền thoại của các tộc người về NHT để đưa ra một lược đồ như sau:
Trận lụt lớn → Người đàn ông + Người đàn bà →
CÁC TỘC NGƯỜI
Biểu đồ 3. Cấu trúc huyền thoại quả bầu và NHT trong văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á. (Nguồn: Đặng Nghiêm Vạn 1993)
Theo ông, hầu hết các tộc người ở Đông Nam Á đều có các huyền thoại về NHT với một cốt truyện căn bản được mô tả là sau khi trận lụt lớn rút đi chỉ còn lại hai người sống sót, một đàn ông và một đàn bà, hai người này chính là tổ tiên của các tộc người Đông Nam Á. Thông thường hai người sống sót này thường là anh em ruột hoặc một người với một con vật (chẳng hạn như chó) tạo nên một cuộc hôn nhân loạn luân hoặc bất bình thường. Từ cuộc hôn nhân này sản sinh ra một quả bầu hoặc một vật tương tự là nơi ra đời của các tộc người Đông Nam Á [Đặng Nghiêm Vạn 1993, tr. 304-337]. Vậy điều gì đã khiến cho các tộc người ở Đông Nam Á vốn hết sức đa dạng về ngôn ngữ và văn hóa lại có chung một huyền thoại về quả bầu? Tại sao huyền thoại về NHT ở Đông Nam Á lại coi các tộc người ở khu vực này là anh em (sinh ra từ một nguồn gốc - quả bầu)? Đây là những câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Đã có nhiều cách lý giải từ góc nhìn của lý thuyết khuếch tán ngôn ngữ hay giao thoa văn hóa về nguồn gốc của NHT ở Đông Nam Á nhưng những cứ liệu về trận lụt lớn đó lại có quá ít trong các nghiên cứu được thực hiện từ khoảng giữa thế kỷ XX trở về trước. Đây chính là nút thắt của các nghiên cứu có liên quan đến NHT và motif quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á mà cho đến gần đây mới được nhìn nhận một cách rõ nét hơn thông qua các nghiên cứu địa chất, địa lý, khảo cổ học, di truyền học và khu vực học.
2.2. Nạn hồng thủy qua dấu tích địa chất - địa lý và khảo cổ học ở Đông Nam Á
Trong khi các huyền thoại về NHT tồn tại ở nhiều tộc người trên thế giới thì những di vết thực sự của nó lại vô cùng hiếm hoi trong các nền văn hóa. Tuy nhiên, nếu chúng ta ngược dòng thời gian tìm trở lại những sự kiện có thực đã từng xảy ra là giai đoạn biển tiến và biển lùi thì lại có thể tìm thấy các chứng cứ có thực từ hàng nghìn năm, thậm chí đến hàng vạn năm trước qua những dấu tích địa chất - địa lý trên những vách đá còn tồn tại đến ngày hôm nay (Hình 5).
Cùng với các di vết địa chất - địa lý mà các nhà khoa học tự nhiên đã khám phá được ở nhiều nơi trên thế giới, nhiều di chỉ khảo cổ học cũng dần được phát lộ ở các tầng văn hóa gần với di vết của các giai đoạn biển tiến và biển lùi đã đề cập ở trên. Nếu so sánh các di chỉ khảo cổ có tồn tại đời sống của loài người cổ xưa ở Việt Nam với di chỉ khảo cổ học đại dương ở ngoài khơi biển Đài Loan và Nhật Bản (Hình 6b) thì độ cao chênh nhau tới hàng trăm mét. Vậy tại sao các di chỉ khảo cổ này lại có mức độ chênh lệch về độ cao lớn như vậy? Nếu xem xét các di chỉ ở cao độ thấp nhất chúng ta có thể thấy rằng các tầng văn hóa này nằm ở các vùng bình địa hiện đã chìm sâu dưới biển. Đặt giả thuyết rằng mực nước biển hiện nay rút xuống hàng chục đến hàng trăm mét thì đó chính là vùng đất màu mỡ ven bờ biển để cư dân có thể sinh sống tập trung thành những cộng đồng lớn. Vì vậy, chúng ta có thể suy luận rằng, ở giai đoạn biển lùi thì vùng đất nơi tồn tại di chỉ khảo cổ học đại dương ở Đài Loan và Nhật Bản là một vùng bình địa màu mỡ mà con người có thể đã sinh sống và xây dựng nên một nền văn minh đủ lớn để có thể kiến tạo nên những công trình khổng lồ như các nhà khảo cổ học đại dương tìm thấy ngày hôm nay qua các di chỉ khảo cổ học dưới nước.
Nếu xem xét các di chỉ ở vùng núi với cao độ như văn hóa Hòa Bình ở Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy các cư dân cổ đại ở đây phải vật lộn với một đời sống hết sức khó khăn với địa hình hiểm trở và thật khó để tìm kiếm thức ăn chứ chưa nói tới việc phát triển một nền văn minh cao ở một khu vực có diện tích hẹp như vậy. Có lẽ vì lý do này mà các di chỉ văn hóa Hòa Bình được tìm thấy ở nhiều nơi với một khu vực phân bố rộng lớn ở nhiều quốc gia Đông Nam Á. Một điểm đáng lưu ý là các di chỉ thuộc nền văn hóa này thường có độ cao khá lớn so với mực nước biển và độ cao của các di chỉ này tương đối giống nhau. Liệu đây có phải là do mực nước biển ở giai đoạn biển tiến đã buộc các cư dân thuộc nền văn hóa Hòa Bình từ vùng bình địa màu mỡ phải dời lên vùng núi cao để tồn tại?
Trả lời được câu hỏi này có thể giúp chúng ta tiến gần hơn đến một giả thuyết về giai đoạn biển tiến - biển lùi buộc con người cổ đại từ những vùng bình nguyên màu mỡ ven biển phải di cư lên núi cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần phải bổ sung thêm các chứng cứ khác ngoài các di vết địa chất - địa lý và khảo cổ học để chứng minh cho sự hồi sinh của con người sau NHT từ những huyền thoại tộc người đã đề cập ở trên. Một trong những di vết đáng chú ý là những vật “cứu tinh” của loài người trong NHT.
2.3. Vật cứu tinh của loài người trong nạn hồng thủy
Khác với các huyền thoại khai thiên lập địa (thường gắn với các vị thần hoặc những anh hùng huyền thoại “đội đất vá trời,” các huyền thoại tái tạo thế giới nói chung và NHT nói riêng thường gắn với các vật biểu tượng mà cụ thể ở đây là những con thuyền trong văn hóa phương Tây hay quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á. Vật cứu tinh nổi bật trong văn hóa phương Tây gắn liền với truyền thuyết về thuyền Noah được ghi lại trong những trang đầu tiên của Kinh Cựu ước. Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển của Do Thái giáo và Cơ-đốc giáo, huyền thoại về thuyền Noah vẫn chỉ được xem như một câu chuyện hoang đường tựa như việc Chúa tạo ra người đàn bà bằng “chiếc xương sườn thứ bảy” của người đàn ông.
Tuy nhiên, mọi việc đã thay đổi khi vào năm 1977, một nhà khoa học người Mỹ tên là Ron Wyatt đã tới địa danh mà đại úy Llhan Durupinar thuộc quân đội Thổ Nhĩ Kỳ tìm ra năm 1959. Ron Wyatt và những cộng sự đã nghiên cứu kỹ lưỡng khu vực này trong nhiều năm. Cuối cùng, ông và các nhà khoa học đồng nghiệp khẳng định di vết mà họ đang tìm hiểu là một con tàu thời cổ đại có kích thước cực lớn nhưng lại nằm cheo leo trên sườn núi có độ cao hơn 2.000m. Đối chiếu với kích thước và các dữ liệu được ghi lại trong Kinh thánh, sử thi Gilgamesh, Kinh Quran và nhiều cuốn sách cổ có đề cập đến thuyền Noah, các nhà khoa học đã xác định đây chính là thuyền Noah huyền thoại. Ngày 20/6/1987, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã chính thức xác nhận đây là xác thuyền Noah. Thậm chí, ngay bây giờ chúng ta có thể chiêm ngưỡng trực tiếp con tàu huyền thoại này từ bản đồ của Google (Hình 7.1 và 7.2).
Như vậy, vật cứu tinh trong NHT của văn hóa phương Tây đã được xác nhận một cách chính thức thông qua các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại. Tuy nhiên, ngoài những người trên thuyền Noah sống sót qua NHT thì vẫn còn nhiều người khác thuộc các chủng tộc khác thoát khỏi NHT bằng những vật cứu tinh khác mà không lệ thuộc vào thuyền Noah. Bên cạnh các huyền thoại quả bầu và NHT trong văn hóa Đông Nam Á thì trong văn hóa Trung Hoa đã ghi lại nhiều huyền thoại của các tộc người đề cập đến NHT và những quả bầu hồ lô như sau:
Biểu đồ 4. Thần thoại hồ lô cứu sinh (Nguồn: Nguyễn Ngọc Thơ 2007)
Có thể nói, các huyền thoại về quả bầu và NHT ở Đông Nam Á và cả nam Trung Hoa cũng chính là những di vết “khảo cổ học nhân văn” quan trọng cần được tìm hiểu và nghiên cứu một cách kỹ lưỡng như thuyền Noah trong văn hóa phương Tây.
3. Motif quả bầu trong đời sống và trong huyền thoại các tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á
3.1. Quả bầu trong đời sống cư dân Đông Nam Á
Bầu là loài dây leo thân thảo lá rộng, có lông, hoa đơn tính, quả có vỏ dày, vỏ già sẽ trở nên cứng do hóa gỗ. Bầu thuộc họ bầu bí với vô số loài khác nhau. Có loại tròn, có loại dài, lại có loại hình nậm rượu (hồ lô), với nhiều kích thước khác nhau, hương vị khác nhau và thành phần dinh dưỡng khác nhau. Bầu là một trong những loại rau quả thông dụng nhất hiện nay bởi đặc tính dễ trồng, năng suất cao, dễ bảo quản, dễ vận chuyển và có thể ăn được cả lá, hoa, quả và hạt. Với sự phong phú về chủng loại và nhiều ưu điểm như trên, bầu đã và đang được trồng và sử dụng phổ biến khắp các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Bầu bí trở thành một loài cây trồng gần gũi thân thiết với mọi người dân và gắn bó với họ không chỉ như một loại thực phẩm có giá trị mà còn là những sản phẩm văn hóa có liên quan đến đời sống thường ngày cũng như âm nhạc và nghệ thuật.
Quả bầu già có một đặc tính vô cùng quan trọng đối với đời sống con người khi xưa nhưng hiện nay lại ít được nhắc tới đó là đặc tính có thể bảo quản trong điều kiện tự nhiên trong nhiều tháng, thậm chí là hàng năm. Chính vì đặc tính này mà chúng được dùng làm thực phẩm dự trữ mùa mưa lụt. Bầu canh phơi khô, bí xanh, bầu lào (hay bí ngô) luôn được tích trữ trên chạn (giống như một gác xép) ở các ngôi nhà gỗ trước đây - đặc biệt là ở khu vực miền trung trong mùa bão lụt cùng với lúa gạo là nguồn thức ăn cho cả gia đình suốt mùa mưa bão.
Bầu già hóa gỗ:
Để chế tác được những vật dụng bằng đá hay bằng kim loại, con người thời cổ đại phải mất rất nhiều công sức mới có được một công cụ cho mình. Trong khi đó, việc sử dụng một đặc tính sẵn có của quả bầu (hóa gỗ) xem ra nhàn hạ hơn nhiều. Họ có thể nắn chỉnh quả bầu từ lúc còn non hoặc cưa cắt quả bầu đã già một cách dễ dàng và linh hoạt để tạo thành các vật dụng như bầu đựng nước, đựng rượu, làm gáo, làm bát, làm nhạc cụ... do được hóa gỗ nên quả bầu già phơi khô (nếu được gác bếp thì càng tốt) trở thành một vật dụng vừa nhẹ vừa chịu nước lại không dễ bị nứt vỡ và bị mối mọt như các loại gỗ thông thường mà lại dễ chế tác (hình 8 - 9). Đây chính là những đặc tính mà các chuyên gia đóng tàu rất cần cho những con tàu, con thuyền của họ. Phải chăng vì những lý do này mà cư dân Đông Nam Á đã chọn quả bầu làm ‘vật cứu tinh’ trong NHT? Nghiên cứu sẽ trở lại câu hỏi này trong các mục sau.
Bầu làm thức ăn dự trữ:
Trong điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng ở Đông Nam Á, việc tích trữ thức ăn lâu dài là một vấn đề cực kỳ nan giải. Do khí hậu ẩm lại nắng gắt mưa nhiều nên hầu hết các loại thức ăn tươi đều nhanh chóng bị phân hủy và thức ăn khô lại thường bị nấm mốc. Một giải pháp dự trữ hay được áp dụng là muối các món như dưa, cà cho đến thịt muối, các loại thực phẩm ướp muối được áp dụng hết sức phổ biến trong không gian văn hóa Đông Nam Á. Tuy nhiên, thời gian bảo quản các món ướp muối này phải tỉ lệ thuận với độ mặn nên chúng thường là thức ăn mặn chứ khó có thể thay thế cho món ăn thông thường như rau quả và ngũ cốc.
Trước những thách thức đó, quả bầu trở thành một loại thức ăn dự trữ vô cùng hữu hiệu với vỏ cứng dễ vận chuyển và khó bị dập nát, có hàm lượng dinh dưỡng cao (no lâu) vừa có nhiều vitamin (như bí xanh) lại vừa có nhiều tinh bột và đường (như bí đỏ),… các đặc tính này giúp con người có thể sống sót qua mùa lụt kéo dài hàng tháng, thậm chí là nhiều tháng trong năm. Rõ ràng, quả bầu ở đây tuy chưa thể hiện là “vật cứu tinh” trong lũ lụt nhưng chắc chắn là “vật cứu đói” hết sức hiệu quả trong hoàn cảnh này. Vì vậy mà quả bầu từ vị trí của một danh từ riêng (một loại quả có tên gọi là bầu) đã biến thành một danh từ chung chỉ một vật dụng phổ biến trong đời sống: Bầu rượu, bầu nước,… như vậy, đặc tính bầu già hóa gỗ và bầu làm thức ăn dự trữ mùa mưa lụt chính là những nét đặc trưng khu vực ở Việt Nam và nhiều nơi khác ở Đông Nam Á (hình 8 - 9).
3.2. Motif quả bầu trong huyền thoại của các tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á
Trong vô số huyền thoại tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á, motif quả bầu dường như đang chiếm vị trí chủ đạo với mức độ phổ biến rộng và mức độ thống nhất khá cao. “Thần thoại các dân tộc còn lưu giữ nhiều ký ức về trận lụt lớn, về nạn đại hồng thủy, nó giống như một đại họa khủng khiếp khiến cho loài người bị tuyệt diệt và cùng với đó là ký ức về sự tái sinh của con người nhờ những quả bầu kỳ lạ (…) sau trận hồng thủy, con người đã được tái sinh. Hệ thống thần thoại các dân tộc đã lưu truyền rộng rãi những câu chuyện kể về quả bầu nở ra hàng vạn người con với nhiều giống người. Loại truyện Quả bầu này có trong kho tàng dân gian Đông Nam Á và nó đã được dân tộc hóa tùy theo sự sáng tạo của từng dân tộc” (Nguyễn Thị Huế 2008). Trong bảng dưới đây, chúng tôi đã tập hợp sơ bộ thành hệ thống các huyền thoại tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á có liên quan đến NHT như sau:
Biểu đồ 5. Tổng hợp một số huyền thoại tộc người có liên quan đến NHT
Thông qua bảng tổng hợp trên chúng ta dễ dàng nhận thấy vật cứu tinh hay vật biểu tượng có liên quan đến quả bầu trong NHT có mặt ở hầu hết các nhóm ngôn ngữ tộc người Đông Nam Á. Điều đó khẳng định những chức năng phổ biến của quả bầu trong đời sống của cư dân cổ đại trong nền văn minh thực vật ở Đông Nam Á (thuật ngữ của Piere Gourou 2015, 1936). Thậm chí, quả bầu còn phổ biến rộng hơn ở hầu khắp khu vực Nam Trung Hoa, đặc biệt là các nhóm cư dân cư trú ở bờ nam sông Dương Tử. Với vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống cư dân Đông Nam Á, quả bầu đã đi vào huyền thoại của các tộc người Đông Nam Á một cách hết sức tự nhiên. Tuy nhiên, để trở thành một motif điển hình được phổ biến rộng rãi như vậy thì cần phải trải qua quá trình biểu tượng hóa và tôn giáo hóa mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong nội dung dưới đây.
4. Luận giải về motif quả bầu và NHT ở Việt Nam và Đông Nam Á
4.1. Motif quả bầu và NHT từ góc nhìn chức năng luận
Để tìm hiểu căn nguyên vì sao motif quả bầu lại phổ biến ở mức độ rộng khắp khu vực Đông Nam Á như vậy, chúng ta cần tìm hiểu chức năng của quả bầu thông qua góc nhìn chức năng luận. Theo đó, quả bầu trong nền văn minh thực vật ở Đông Nam Á nổi bật với ba chức năng sau:
- Vật nổi
- Thức ăn giàu dinh dưỡng
- Thực phẩm tích trữ
Đây là những chức năng quan trọng gắn với một loài thực vật mang những đặc trưng địa lý nhân văn và cả những đặc trưng của tiểu vùng khí hậu Đông Nam Á nơi hiện tượng gió mùa (monsoon) và lũ lụt xảy ra thường niên.
Có thể thấy, Đông Nam Á là lưu vực của một trong những con sông lớn nhất thế giới - Mekong - nơi sản xuất gạo đứng đầu thế giới. Đây cũng là nơi tập hợp những vùng đồng bằng châu thổ nhỏ hơn của nhiều con sông có độ dốc cao như sông Irrawaddy (Myanmar), sông Hồng (Việt Nam), sông Chao Phraya (Thái Lan),… vì độ dốc cao này mà hiện tượng lũ lụt là một trong những mối lo thường trực của cư dân khu vực Đông Nam Á mà đại đa số là những cư dân nông nghiệp. Ở Việt Nam, hệ thống đê sông Hồng được xây đắp trong hàng nghìn năm qua được xem như công trình thủy lợi vĩ đại nhất của người Việt. Trong một bối cảnh địa lý và khí hậu đặc thù như vậy, các cư dân Đông Nam Á cần phải tự thích nghi để tồn tại. Bên cạnh chức năng làm thức ăn thì quả bầu trở thành một chiếc phao cứu sinh hay một “công cụ” trong giao thông thủy vô cùng tiện lợi đã được ghi lại trong sử sách.1
1 ‘Nhờ đặc điểm rỗng ruột, chỉ cần bịt kín phần miệng, hồ lô sẽ trở thành một loại “phao” đặc biệt. Các sách Kinh Thi, Trang Tử, Quốc Ngữ đều có nhắc đến loại “công cụ” giúp người qua sông, suối này. Dân gian Trung Hoa gọi loại “công cụ” đặc biệt này là “thuyền eo” (腰舟 yếu chu). Ngày nay, vùng nông thôn Hà Nam, Sơn Đông, Tứ Xuyên vẫn còn dùng loại công cụ này khi qua sông, suối nhỏ. Người Khách Gia ở Quảng Đông khi đánh cá dưới sông đeo quanh eo vài chiếc hồ lô cứu sinh. Trẻ em đeo vài chiếc hồ lô nhỏ quanh thân ngụ ý trừ tà, đồng thời sẽ giúp cứu trẻ trong trường hợp bị rơi xuống nước. Ở đảo Hải Nam, người Lê dùng một quả hồ lô to rỗng, bịt kín miệng, thả xuống sông, suối, ôm trầm lấy mà bơi qua. Ở Đài Loan, người Amei, người Cao Sơn cũng làm cách này [Tống Triệu Lân 2001: 19-20, 38-39]. Ở một số vùng khác, người ta làm bè hồ lô vượt qua những khúc sông có quá nhiều ghềnh thác. Trong thần thoại, hồ lô rỗng với đặc tính nổi trên mặt nước đã được mượn làm biểu tượng cứu sống nhân loại. Học giả Văn Nhất Đa (1899-1946) tiến hành phân tích 49 thần thoại hồng thủy của các dân tộc thiểu số kết luận rằng hồ lô là dụng cụ cứu sinh phổ biến nhất” [Nguyễn Ngọc Thơ 2007].
Sự thích nghi với lũ lụt đã khiến cho kỹ năng sinh tồn của cư dân Đông Nam Á tự hoàn thiện theo thời gian. Một trong những kỹ năng quan trọng nhất đó là thích nghi với lũ lụt - đây cũng là căn nguyên ra đời câu thành ngữ: Sống chung với lũ - ngụ ý phải chấp nhận thực tế khó thay đổi. Trong bối cảnh đó, cùng với những con thuyền gỗ hay thuyền nan của các ngư dân thì một quả bầu rỗng để làm một chiếc phao trong mùa mưa lũ dường như là một lựa chọn hợp lý nhất để sinh tồn của mọi người dân bình thường khi chưa có các vật dụng tiện ích như chúng ta thấy ngày hôm nay. Rất có thể, kỹ năng sinh tồn này được nhiều người sử dụng nên vật nổi - quả bầu giống như một chiếc phao cứu sinh trở thành một vật dụng thiết yếu của đa số người dân.
Bên cạnh chức năng vật nổi thì quả bầu chính là một loại thức ăn phù hợp nhất cho mùa mưa bão vì nó có thể đáp ứng được cho số đông người dân. Quả bầu dễ trồng và dễ thích nghi với các địa hình phức tạp nên mọi người dân đều có thể tự trồng, tự thu hoạch và tự bảo quản. Đây chính là điểm quan trọng để quả bầu được xem như một loại thực phẩm đắc dụng của mọi người dân trong những hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là “cứu đói” trong mùa mưa lũ. Ngoài đặc tính dễ trồng, dễ sử dụng và dễ vận chuyển thì một trong những ưu điểm lớn nhất của loại thực phẩm này (đã được chúng tôi đề cập ở mục 3.1 là dễ tích trữ vì đặc tính tươi lâu và giàu dinh dưỡng nên quả bầu trở thành loại thức ăn không thể thiếu trong bối cảnh khí hậu vùng Đông Nam Á. Như vậy, với các chức năng nổi bật của một vật nổi được và là một trong những loại thực phẩm đắc dụng nhất của địa phương, quả bầu trở thành một phần không thể thiếu của cư dân Đông Nam Á trong điều kiện, hoàn cảnh của cư dân khu vực này (Hình 8 - 9).
4.2. Motif quả bầu và NHT từ góc nhìn biểu tượng luận Mặc dù quả bầu hội tụ đầy đủ những chức năng quan trọng trong điều kiện và hoàn cảnh của cư dân Đông Nam Á như đã nêu ở trên, nhưng để trở thành một vật biểu tượng mang tính phổ quát đối với một vùng văn hóa đa dạng và phức tạp như Đông Nam Á thì quả bầu cần phải có thêm những đặc tính vượt trội so với những thành tố văn hóa khác. Có lẽ vì vậy mà trước khi trở thành một vật cứu tinh trong NHT, quả bầu phải được biểu tượng hóa thành một biểu tượng trọng tâm của văn hóa Đông Nam Á. Điều này cần đến vai trò không thể thiếu của văn hóa dân gian truyền miệng, đặc biệt là các huyền thoại đã góp phần đưa một vật/vật phẩm bình thường trong văn hóa Đông Nam Á trở thành một biểu tượng văn hóa của các tộc người ở Đông Nam Á.
Khi quả bầu đã trở thành một biểu tượng trọng tâm trong văn hóa Đông Nam Á thì con đường đưa biểu tượng trọng tâm này từ một vật biểu tượng (cái biểu đạt) thành một vật cứu tinh (cái được biểu đạt) sánh ngang với thuyền Noah trong văn hóa phương Tây dường như là một quá trình tất yếu. Có thể tóm tắt quá trình biểu tượng hóa quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á thành một vật cứu tinh trong NHT qua mô hình sau:
Biểu đồ 6. Quá trình biểu tượng hóa quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á thành một vật cứu tinh
Tuy nhiên, để có thể “biến” thành một vật cứu tinh huyền thoại như thuyền Noah thì quả bầu (trong vai trò của một biểu tượng trọng tâm của văn hóa Đông Nam Á) cần phải có thêm một yếu tố không thể thiếu, đó là những đặc tính của tôn giáo, tín ngưỡng.
4.3. Motif quả bầu và NHT từ góc nhìn tôn giáo tín ngưỡng
Trong chuyên mục trên chúng tôi đã tóm lược các chức năng của quả bầu trong văn hóa và trong đời sống của cư dân Đông Nam Á để trở thành một vật biểu tượng và một vật cứu tinh. Tuy nhiên, để trở thành một vật cứu tinh thì quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á cần phải được bổ sung tính thiêng. Bởi nếu thiếu đi tính thiêng thì quả bầu không thể trở thành một vật thiêng để góp mặt trong các huyền thoại tộc người của cư dân Đông Nam Á. Vậy tính thiêng ở đây là gì? Theo Từ điển tiếng Việt thì từ thiêng là “có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ” [Hoàng Phê cb. 1998, tr. 909].
Biểu đồ 7. Quá trình thiêng hóa của quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á
Dưới góc độ hiện tượng học “tính thiêng tôn giáo trong xã hội hiện đại gần như là một hiện tượng cộng sinh với nhu cầu xã hội. Trên thực tế, nó cùng với nhu cầu xã hội tạo thành một chỉnh thể nội tại không thể tách rời. Nếu liên kết xã hội là quy phạm của tôn giáo, thì bức tranh toàn cảnh phức tạp cấu thành bởi toàn bộ đời sống của nhân loại không chỉ là một bức tranh về nhu cầu và thể nghiệm của thực tế xã hội, mà còn có tác dụng dẫn dắt những quan niệm phổ biến khác của thực tế xã hội, khiến cho chúng gắn kết nội tại với những thứ như lý trí. Do đó, đối tượng tôn giáo có thể làm cho thực tế xã hội trở nên thiêng liêng hơn, lớn mạnh hơn” [Trương Hiếu 2014: 3-4]. Có thể thấy sự “dẫn dắt những quan niệm phổ biến khác của thực tế xã hội” ở trên chính là quá trình thiêng hóa quả bầu từ những yếu tố hết sức bình thường như là vật nổi hay thức ăn dự trữ thành một vật thiêng và cuối cùng được huyền thoại hóa thành vật cứu tinh trong các huyền thoại tộc người ở Đông Nam Á.
Tương tự như thuyền Noah trong Kinh Thánh, quả bầu hay con thuyền trong các huyền thoại về NHT là những vật dụng cụ thể đã trở thành một biểu tượng trọng tâm của văn hóa và được thiêng hóa thành những vật thiêng trong các huyền thoại. Những vật thiêng này vừa là những vật mang tính biểu tượng của tôn giáo, tín ngưỡng vừa góp phần củng cố niềm tin của các tín đồ đối với tôn giáo hay tín ngưỡng của họ. Đây chính là những yếu tố cốt lõi để quả bầu và NHT hình thành nên một motif độc đáo trong các huyền thoại và truyền thuyết tộc người ở Đông Nam Á có thể sánh với thuyền Noah trong văn hóa phương Tây.
4.4. Từ quả bầu trong văn hóa Đông Nam Á đến giả thuyết về nguồn gốc các tộc người Đông Nam Á
Mặc dù có rất nhiều huyền thoại, truyền thuyết đề cập đến yếu tố đồng tộc hay cùng chung nguồn gốc của cư dân Đông Nam Á nhưng sự phong phú, đa dạng và những khác biệt vô cùng lớn giữa các tộc người hay nhóm ngôn ngữ ở khu vực này khiến cho yếu tố đồng tộc của cư dân Đông Nam Á bị xem như một giả thuyết vô giá trị hay một câu hỏi không có lời giải đáp. Tuy nhiên, nếu đặt các thành tố văn hóa Đông Nam Á dưới góc nhìn khu vực học, chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn về mối liên kết giữa các tộc người ở khu vực này với nhau và với nhiều khu vực khác trên thế giới.
Ở trên chúng tôi đã luận giải về motif quả bầu và NHT ở Việt Nam và Đông Nam Á từ các góc nhìn khác nhau của chức năng luận, biểu tượng luận và tôn giáo tín ngưỡng. Tuy nhiên, sự phổ biến của motif quả bầu trong huyền thoại tộc người khắp khu vực Đông Nam Á và xa hơn là các tộc người ở Nam Trung Hoa vẫn chưa có câu trả lời. Dựa vào những nghiên cứu mới được công bố gần đây và nếu đặt đối tượng nghiên cứu (motif quả bầu và NHT) dưới góc nhìn KVH, chúng ta cũng có thể lần ra một số “manh mối” để đặt ra những giả thuyết mới.
Yếu tố có chung một nền văn minh tiền sử khi tìm hiểu nguồn gốc các tộc người Đông Nam Á ít nhiều đã được các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau chứng minh thông qua sử học, dân tộc học, ngôn ngữ học, xã hội học, khảo cổ học… tuy nhiên, khi áp dụng các phương pháp liên ngành hoặc mở rộng thêm phạm vi nghiên cứu thì các giả thuyết đó trở nên thiếu vững chắc khi không thể chứng minh được (là có nguồn gốc chung). Stephen Oppenheimer (trong cuốn Địa đàng ở phương Đông - Lịch sử huy hoàng của lục địa Đông Nam Á bị chìm) đã đưa ra một giả thuyết gây tranh luận sôi nổi trong giới học thuật về di vết lục địa Sunda (Sundaland) - một nền văn minh thời tiền sử ở Đông Nam Á - mà ông cho là đã bị nhấn chìm ngoài khơi biển Đông Nam Á hiện nay (xem phần màu xanh nhạt Hình 10).
Năm 1998, cuốn sách của ông được Phoenix xuất bản đã gây một tiếng vang lớn đối với giới học thuật phương Tây bởi nó mang đến một cái nhìn ngược về hành trình truyền bá văn minh trong lịch sử nhân loại. Năm 2005, cuốn sách này được dịch ra tiếng Việt cũng đã mang đến một làn sóng tranh luận học thuật đối với các học giả Việt Nam trong bối cảnh nhu cầu tìm hiểu về cội nguồn dân tộc Việt đang nóng bỏng vì thiếu tư liệu học thuật thực sự thuyết phục. Cũng cần phải nói thêm rằng bài giới thiệu sách của Nguyễn Văn Tuấn trong bản dịch tiếng Việt này cũng đã góp phần “nâng tầm” cuốn sách của Oppenheimer lên một tầm cao mới ở Việt Nam.
Tiếp theo bài giới thiệu này, một bài viết tiếp theo của Cung Đình Thanh trên tạp chí Văn hóa Nghệ An đã đề cập đến “khám phá mới của nhà bác học J.Y. Chu cùng 13 đồng nghiệp khác tại các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Hoa đã công bố một nghiên cứu thành công về Di truyền học DNA mang tên Genetic Relationship of Population in China, đăng trong Tạp chí Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences - USA - Vol.95, issue 20, 1763-1768, 29 tháng 7, 1998). Báo cáo này khẳng định nguồn gốc của người Trung Hoa, và nói chung, người Ðông Á là do giống người ở Ðông Nam Á di lên. Những người này có gốc gác từ Phi Châu đã đi đến Ðông Nam Á qua ngả Nam Á từ nhiều năm trước” [Cung Đình Thanh 2015].
Những chứng cứ mới được phát hiện và những tư liệu mới được công bố ngày càng nhiều và ngày càng rõ nét hơn khiến cho chúng ta khó có thể phủ nhận vai trò của nền văn minh Đông Nam Á thời tiền sử. Từ những “miếng ghép” (puzzles) của các nghiên cứu nói trên, chúng ta có thể đặt ra một giả thuyết là nền văn minh thời tiền sử ở lục địa Sundaland rộng lớn đã phát triển đến một mức độ cao nhưng vào giai đoạn biển tiến nó đã bị nhấn chìm. Hoàn cảnh này đã đẩy các cư dân ở nơi này lên các vùng núi cao và trôi dạt tới nhiều đảo và lục địa tạo thành các bộ lạc có chung những đặc điểm về di truyền, văn hóa hay chủng tộc. Nếu giả thuyết này được chứng minh thì yếu tố đồng tộc của một số nhóm cư dân Đông Nam Á (thông qua các huyền thoại về NHT và motif quả bầu) sẽ được sử dụng để lý giải các yếu tố tương đồng xuyên thời gian trong văn hóa Đông Nam Á. Chẳng hạn như hình vẽ trên trống đồng Đông Sơn, Việt Nam và ngôi nhà Tongkonan ở Borneo, Indonesia (Hình 3 và Hình 11) cho thấy sự giống nhau đến kỳ lạ của motif kiến trúc. Thậm chí, dấu vết hình thuyền của những ngôi nhà này và những ngôi nhà rông ở Tây Nguyên cho chúng ta sự liên tưởng đến một loại “thuyền Noah của cư dân Đông Nam Á” trong NHT xa xưa mà chúng ta cần tiếp tục tìm hiểu.
* * *
Có thể nói NHT và motif quả bầu trong văn hóa Việt Nam và Đông Nam Á là một trong những motif hằng xuyên trong lịch sử phát triển của khu vực này từ giai đoạn tiền sử. Dưới góc nhìn khu vực học, NHT và motif quả bầu chính là những biểu tượng trọng tâm kết nối các thành tố văn hóa mang tính bản địa tạo nên một không gian thiêng. Từ các diễn giải về văn hóa và xã hội khu vực đương đại, theo quan điểm của KVH, chúng ta có thể tiếp cận đối tượng nghiên cứu này dưới góc nhìn KVH do khái niệm khu vực phụ thuộc vào không gian. Tại đây, “KVH có mối liên hệ với các quá trình điều tra, các hệ thống và cấu trúc nổi bật...” [Sagan 2003, tr.8]. Từ hướng tiếp cận này chúng ta có thể tìm hiểu về huyền thoại quả bầu và NHT thông qua dấu tích địa chất để nhìn nhận lại một “nền văn minh biển lùi” ở Đông Nam Á.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ hiện nay, các hướng tiếp cận mới như KVH, khảo cổ học đại dương (marine archaeology), khảo cổ học nhân văn (humanistic archaeology) sẽ giúp chúng ta có thêm cơ sở để lý giải sự xuất hiện của những ngôi nhà hình thuyền và các tộc người Mã-Lai-đa-đảo/Malayo-Polinesian ở Tây Nguyên (với độ cao hàng trăm mét cách mực nước biển) trong sự liên hệ với những di vết nhà hình thuyền trên trống đồng Đông Sơn. Từ đó hướng đến một nghiên cứu có hệ thống về một nền văn minh biển lùi (marine regressive civilization) mà Sundaland là một đối tượng nghiên cứu rất đáng lưu ý. Hy vọng chúng tôi sẽ trở lại với vấn đề này trong một nghiên cứu dài hơn trong tương lai.