“Phần tốn nhiều sức lực nhất không phải là lúc thực hiện một công việc, mà là lúc quyết định xem mình phải làm gì.”
– Elbert Hubbard
“Phần tốn nhiều sức lực nhất không phải là lúc thực hiện một công việc, mà là lúc quyết định xem mình phải làm gì.”
– Elbert Hubbard
Trong nhà tôi có một căn phòng để trống, vẫn chưa được hoàn thành. Ba năm trước, vợ chồng tôi quyết định chuyển về vùng ngoại ô sau hơn mười năm sống trong thành phố. Nhưng đến hiện tại, căn phòng trống ấy vẫn giữ nguyên màu xanh ban đầu, bên trong chỉ có đúng một tấm thảm yoga và một chiếc ghế xếp cũ.
“Và đây là phòng dành cho em bé”, vợ chồng tôi đã nói thế vào lần đầu đưa gia đình và bạn bè đến tham quan ngôi nhà mới. Thật ra, đó mới là lý do chúng tôi chuyển ra vùng ngoại ô.
Tôi đã vô cùng hồi hộp khi kéo mẹ sang một bên và tiết lộ rằng tôi đã ngừng sử dụng thuốc tránh thai. Tôi cũng kể chuyện này với chị dâu của mình và hơi thất vọng vì phản ứng thờ ơ của cả hai người. Chẳng lẽ họ không hình dung được chuyện này hệ trọng đến mức nào ư?
Đối với tôi, đó là một quyết định lớn. Tôi nhớ hồi còn học đại học, anh chàng tôi thích không hề để ý gì đến tôi và trong một bữa tiệc, tôi đã tuyên bố rằng tôi sẽ không bao giờ kết hôn hay sinh con. Tôi định sẽ ra nước ngoài định cư và không bao giờ sống cuộc đời nhàm chán như hồi còn ở với cha mẹ.
Tôi tự cười mỉa mai khi cuối cùng tôi lại kết hôn trước cả anh chàng mà tôi từng thích, người đã nói với tôi rằng tôi “quá độc lập và quá đề cao nữ quyền nên anh không muốn tìm hiểu”. Tôi nóng lòng muốn nghe những người từng nghĩ rằng tôi “quá” thế này, “quá” thế nọ, rằng tôi không phù hợp để làm mẹ, sẽ nói gì khi biết về quyết định này của tôi.
Tôi thường xuyên nhắn tin cho mẹ, cập nhật chuyện có em bé của vợ chồng chúng tôi, về những tiến triển lẫn những nỗi lo âu. Tôi nhắn tin hỏi những người bạn thân nhất của mình về mọi thay đổi nhỏ trên cơ thể.
Nhiều tháng trôi qua, vẫn không có gì xảy ra. Dù vậy, tôi đã lên sẵn kế hoạch cho bài đăng quan trọng trên Facebook, thông báo về việc mang thai của mình. Tôi đắn đo lựa chọn một màu sơn trung tính mới để sơn căn phòng trống trong nhà và những câu châm ngôn hay để dán lên tường. Tôi chọn trước bệnh viện phụ sản. Tôi đọc sách về việc lên kế hoạch sinh nở. Mọi chuyện đều có vẻ quá xa vời cho đến khi đột nhiên vợ chồng tôi nhận ra dường như mình đang bị bỏ lại phía sau.
“Chắc là tháng sau”, vợ chồng tôi tự nhủ. Bạn bè chúng tôi đã có đứa thứ hai, rồi thứ ba, thậm chí có người đã thắt ống dẫn tinh. Một cặp đồng tính nữ chúng tôi quen đang có thai. Một người bạn khác thì đã nhận nuôi thành công đứa trẻ thứ hai. Trong khi tôi còn mãi đắm chìm vào mấy chỉ dẫn vô tận trên Google. Tôi dùng thực phẩm chức năng, thử liệu pháp châm cứu và nói chuyện với tất cả những người quen. “Hãy thư giãn”, họ khuyên. “Hãy kiên nhẫn.” Mỗi ngày, tôi lại nảy ra thêm một ý tưởng điên rồ – nhận con nuôi, từ bỏ hẳn hy vọng làm mẹ, bán nhà và chuyển đi thật xa. Tôi chỉ muốn biết, dù là bằng cách nào đi nữa, vấn đề thật sự nằm ở đâu?
Người ta quyết định sinh con vì rất nhiều lý do. Đôi khi, họ làm thế để cứu rỗi bản thân. Tôi thì xem việc sinh con, hoặc ít nhất là việc có thai, như một cách để thúc đẩy bản thân làm những việc nên làm – bỏ rượu, ăn uống lành mạnh hơn, viết lách nhiều hơn.
Tôi cũng nói chuyện với những cặp vợ chồng khác đang gặp khó khăn trong việc thụ thai. Một người bạn nói rằng chị ấy muốn có con hơn bất cứ điều gì khác. Đúng là tôi muốn có con, nhưng “hơn bất cứ điều gì khác” thì không. Tôi tâm sự với chồng rằng tôi nửa muốn, nửa không muốn tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm – tôi không chắc về việc bơm hóa chất vào cơ thể khi không hiểu rõ những ảnh hưởng về sau của chúng. Đã có quá nhiều câu chuyện khủng khiếp liên quan đến sảy thai. Chúng tôi thậm chí còn biết một người qua đời vì biến chứng khi sinh con.
Dường như, một sự thật rõ rành rành đang cố thoát khỏi sự chối bỏ trong tôi: Đây là điều tôi thật sự mong muốn hay chỉ là điều tôi nghĩ mình cần làm?
Cuối cùng, vợ chồng tôi đã đến gặp bác sĩ. Tôi tiến hành thử máu và siêu âm lần đầu tiên. Tôi thấy nhẹ nhõm khi nhìn vào màn hình siêu âm, mặc dù trên đó không có dấu hiệu gì của một đứa bé. Chúng tôi nói đùa rằng chồng tôi đang làm tốt nhiệm vụ của một người chồng. Chúng tôi báo với gia đình rằng vợ chồng tôi đang tìm hiểu lý do chúng tôi lại mất quá nhiều thời gian như thế. Sau cùng, chúng tôi chờ đợi.
Vị bác sĩ đầu tiên thông báo rằng lựa chọn duy nhất của chúng tôi là thụ tinh trong ống nghiệm. Tôi bật khóc. Vợ chồng tôi cố gắng không đổ lỗi cho nhau, nhưng tất nhiên đây là việc không thể tránh khỏi. Tôi thấy căng thẳng khi một nữ nhân viên ở phòng khám phụ sản cứ liên tục gọi điện hỏi xem khi nào chúng tôi muốn thực hiện quá trình thụ tinh, mặc dù cô ấy thường không nhớ nổi tên tôi hoặc những xét nghiệm mà vợ chồng tôi đã làm. Đây là cách mà tôi muốn mang một sinh linh đến với thế giới này ư? Lỡ đâu họ cấy nhầm phôi thì sao? Trực giác mách bảo rằng phương pháp này không phù hợp với vợ chồng tôi. Cuối cùng, chúng tôi quyết định dừng lại.
Một hôm, chồng tôi vừa nói: “Cuộc sống thế này cũng ổn rồi”, vừa đưa tay chỉ qua chỉ lại giữa tôi và anh ấy. Chúng tôi đùa rằng chính nhờ không có con mà chúng tôi vẫn chưa cãi nhau lần nào từ khi kết hôn. Vợ chồng tôi khỏa lấp thời gian trống bằng những hoạt động khác. Tôi bắt đầu viết lách và dạy thêm lớp thể dục. Tôi cũng đã cai rượu. Có lẽ tôi không cần có con mới có động lực tạo ra những thay đổi tích cực. Tôi chủ động chuyển chủ đề khi đồng nghiệp và bạn bè thăm hỏi tình hình con cái. “Vẫn vậy”, tôi nói đơn giản.
Thời gian sau đó, vợ chồng tôi được nghe kể về những người bạn có cùng hoàn cảnh với mình nhưng cuối cùng đã can thiệp thành công, vì vậy chúng tôi đã xin một cuộc hẹn tư vấn. Lần này mọi chuyện có vẻ khả quan hơn, các biện pháp có vẻ ít xâm lấn hơn. Vợ chồng tôi ăn mừng và thực hiện liệu trình ngay sau đó.
Tôi uống nội tiết tố, thực hiện bốn lần bơm tinh trùng vào tử cung (IUI) và tiến hành phẫu thuật. Tôi thấy mình như một con ếch trong chiếc nồi nước ngày càng nóng lên. Tôi bắt đầu gặp phải các cơn hoảng loạn mỗi lần cây đũa siêu âm được đưa vào bên trong mình. Bác sĩ đề nghị chúng tôi tạm dừng. Chúng tôi biết các biện pháp “khả quan hơn” này đã không hiệu quả và thụ tinh trong ống nghiệm sẽ là bước tiếp theo. Đã đến lúc phải đưa ra lựa chọn, nhưng vợ chồng tôi quyết định nghỉ ngơi một năm để ổn định cảm xúc.
Đến năm 2020, tôi đánh bạo hỏi chồng tôi: “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta... không làm nữa?”. Hai chúng tôi đều thấy nhẹ nhõm, nhưng ngay lập tức sau đó là cảm giác tội lỗi. Chúng tôi tự hỏi nếu chọn dừng lại, liệu mình có cảm thấy mất mát không. Chúng tôi sẽ cảm thấy thế nào sau năm năm, mười năm, rồi hai mươi năm nữa? Trong suốt một năm đại dịch, chúng tôi thấy biết ơn và thoải mái khi được sống và làm việc tại gia trong một ngôi nhà yên tĩnh, sạch sẽ. Vào thời điểm bấp bênh đó, chúng tôi đã cảm thấy bình yên một cách kỳ lạ.
Việc đưa ra một quyết định sẽ dễ dàng hơn khi quyết định đó có lợi cho bạn. Quyền lựa chọn cho ta sự tự do, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi ta phải chịu trách nhiệm. Và tôi vẫn phải sống với một câu hỏi đầy ám ảnh: Lỡ như mình lựa chọn sai thì sao?
Thông thường, bạn chỉ nghe được những câu chuyện nói về những cặp đôi sống hạnh phúc cùng một đứa trẻ, khẳng định rằng mọi nỗ lực họ bỏ ra đều xứng đáng. Nhưng chúng ta thường không bao giờ nhắc đến những ngày phải chờ đợi mỏi mòn, những nỗi trăn trở hằng đêm và cả quyết định hết sức khó khăn là dừng lại. Đó là lý do tôi quyết định chia sẻ câu chuyện của mình. Bởi tôi biết sẽ có một ai đó ngoài kia đang cũng phải trải qua nỗi khổ sở tương tự như mình, cố nén nước mắt khi đọc đến đây, nhưng không rõ tại sao.