Lạ thế, biết con gái, con rể và các cháu ở Thủ đô không thiếu gì cách làm mát mà mạ vẫn gửi ra chiếc quạt mo cau. Mo cau này chắc chắn rụng xuống trên đất đỏ bazan Cùa, thung lũng nổi tiếng gần xa với tiêu nồng, mít ngọt, chè chát. Những hương vị cây trái đầy vơi ngấm vào tôi trong suốt hai mươi năm trời gắn bó cùng Quảng Trị.
Hai mươi năm, đời lính lăn lóc với gió Lào thổi như bão khan, hừng hực hơi nóng mặt trời. Cái thứ gió chao ơi là gió, hào phóng tràn xuống từ trập trùng Trường Sơn, khô rong róc, nóng hầm hập, hút cạn mồ hôi người tới gần nửa năm trời. Mùa khô. Rướn rập đạp xe ngược Đường Chín lên Cam Lộ, vô Cùa chiều thứ bảy thăm vợ con như một ám ảnh khó phai nhòa của một thời khốn khó. Thời ấy, bộ đội như bọn tôi cũng phải nhai sắn lát, bo bo trẹo cả quai hàm; dân Quảng Trị cơ cực hơn, bữa đói nhiều hơn bữa no, các cuộc cưới nhà quê còn dọn món nộm thân chuối non thái mỏng. Thịt cá, đường sữa xứng danh là thực phẩm ngon hiếm. Mùa mưa. Nước từ trời đổ xuống tầm tã hết ngày đến đêm từ đêm sang ngày, dân bảo mưa “thúi đất, thúi đai” chẳng ngoa chút nào. Củ sắn trên đồi, trong vườn ngâm mưa, màu trắng chuyển sang vàng nâu, thoảng mùi xâm xẩm. Nhà vợ chồng tôi ở Cùa, mái tranh vách đất, mưa tạt lở trước lở sau, sân đóng rêu xanh rờn trơn nhẫy. Cứ nơm nớp nỗi lo con trẻ hấp tấp chạy bị trượt ngã.
Khộ!
Dân miềng không phát âm đúng từ khổ. Chẳng sao cả, khộ cũng được, không dấu hỏi thì dấu nặng, có can chi mô hè. Từ khộ này, chắc chắn có liên quan tới món quà của mạ gửi từ Quảng Trị ra cho tôi rồi. Chiếc quạt mo cau. Tôi cầm món quà Quảng Trị trên tay, cảm thấy như vừa nhẹ vừa nặng, vừa xa vừa gần, vừa hở vừa kín. Phất phất quạt, từng cơn gió nhỏ nhoi phả mát lên mặt, lùa mát vào lòng. Cơn gió mo cau như hồi niệm lùa về, cái thời ai cũng khộ, cơm không đủ ăn, áo chẳng đủ mặc, lấy đâu ra quạt máy, phòng điều hòa nhiệt độ như bây giờ.
Mình khộ một thì mạ khộ mười. Lớp người như mạ phải chịu hai cuộc chiến tranh bi tráng không kể xiết. Chín năm chống giặc Pháp. Hai mươi năm chống giặc Mỹ. Thuở chín năm, Quảng Trị có chiến khu Cùa, chiến khu Ba Lòng…
Đò em lên xuống Ba Lòng
Đưa người cán bộ qua vùng chiến khu
Ngày đông sóng cả nước to
Mong trời thuận gió lên cho kịp về…
Chắc nhiều người biết đấy là thơ Lương An, bài này đã được đưa vào sách giáo khoa, thời tôi đi học còn đọc thuộc lòng. May mà thơ ca còn lặng thầm lưu giữ lại cho đời sau những đêm mưa mù mịt khó chèo thuở chín năm ấy, khi mạ còn là cô gái chưa chồng đã biết bới cơm cho cán bộ bí mật nằm rừng, cận kề dấu tích căn cứ Tân Sở được xây đắp nên từ thời vua Hàm Nghi trước phong trào Cần Vương. Lòng yêu nước không của riêng ai, không phân chia đẳng cấp, tầng lớp. Giá trị lòng yêu Tổ quốc của một ông vua ghét giặc xâm lăng và mạ, một thôn nữ sinh ra giữa thung lũng Cùa, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vốn liếng văn hóa chỉ có dăm ba chữ bình dân học vụ là như nhau, hoàn toàn giống nhau. Thời chống Mỹ, Quảng Trị luôn được nhắc đến với nỗi đau chia cắt non sông mang tên cầu Hiền Lương, sông Bến Hải. Tại sao thời đoạn Ngày Bắc đêm Nam ấy lại xuất hiện nhiều ca khúc da diết và thẳm sâu đến vậy. Một Câu hò bên bờ Hiền Lương, một Xa khơi... lấy cảm hứng từ sông Bến Hải, biển Cửa Tùng đã vượt qua hết thảy những mục đích tuyên truyền chính trị của một thời để tình người thao thiết lắng đọng đến bao đời, không hề cỗi cằn, nhàm chán. Hèn chi, không ít văn nghệ sĩ khi nhắc tới Quảng Trị lòng rưng rưng bổi hổi bồi hồi như nói về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Sau câu thơ quá đỗi lung linh Trời vẫn xanh một màu xanh Quảng Trị của nhà thơ Tế Hanh ta lại biết tới bài Đêm Quảng Trị đầy chất hùng ca trữ tình của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh:
Sông Ba Lòng ơi ta muốn áp tai nghe
Đôi bờ phì nhiêu phập phồng ngực thở
Ta cúi hôn từng cụm lá chua me
Chung thủy với cha ta mười năm gian khổ
Ơi ngọn núi vắt con đường nho nhỏ
Lối mòn xưa đưa cán bộ lên Cùa
Gạo Triệu-Hải đò nằm ngang sóng vỗ
Vượt Trấm rồi rộn rã mái chèo khua…
Nhà thơ Anh Ngọc đã mấy lần nói với tôi rằng: “Mình mong một ngày được trở về Quảng Trị”. Đúng lắm, nhà thơ ạ, vùng đất thời bom đạn tơi bời đã cho anh phôi liệu viết nên thi phẩm Cây xấu hổ; Mưa trên mái tôn… đâu dễ lãng quên được.
Con nhìn ra bốn phía mưa sa
Căn nhà nhỏ gió xô về tơi tả
Những mái tôn trong mưa tuôn trắng xóa
Mênh mông không một màu xanh…
Đấy là cơn mưa ở Cam Lộ những ngày mới giải phóng năm 1972. Tiếng mưa sụt sùi như tiếng nước mắt nghẹn ngào xa xót của mạ trên vùng quê vừa mới hôm qua sống trong kìm kẹp của địch. Còn có những cơn mưa mặn đắng hơn trong cái năm Nhâm Tý khốc liệt này trên một vùng đất khác không xa Cam Lộ mấy: Thành cổ Quảng Trị. Đã có nhiều trang viết về 81 ngày đêm ở Thành cổ Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa ấy. Nhưng, có lẽ chưa ai đi hết chiều sâu thăm thẳm của “81 trang sách” Thành Cổ 1972 đầm đìa máu và mồ hôi của lính, của dân.
Rêu cũng đỏ như đã từng là máu
cỏ xanh hơn nơi vạn chiến binh nằm
Ù ù gió hay hồn lính trận
thổi trăm năm không qua được mùa hè…
Tôi đã cúi đầu trước hàng nghìn linh hồn liệt sĩ ở Thành cổ Quảng Trị với những câu thơ nhức buốt của mình như thế. Cũng như đã từng nghe và thấy Mười nghìn Trường Sơn trong một Trường Sơn ở thượng nguồn sông Bến Hải...
Chao ôi, cái khộ của Quảng Trị đã trở thành niềm thương nỗi nhớ của cả nước. Có lẽ thế. Ai nhắc đến vùng đất Quảng Trị với các địa danh Vịnh Mốc, Cồn Cỏ, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Thành Cổ, Đông Hà, Cam Lộ, Khe Sanh, Cửa Việt, Đường Chín… mà chẳng chạnh lòng nghĩ tới số phận dân tộc mình, hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác, giặc này vừa cuốn gói thì thù khác đã thế chân, dấu giày viễn chinh chồng lấn lên nhau, chẳng khác gì bão nối bão, lũ tiếp lũ hành hạ dân mình. Chiến thắng mang khuôn mặt cùng cực khổ đau, đấy là câu thơ của một thi sĩ Nga viết sau Thế chiến thứ hai mà sao vận vào số phận dân tộc Việt Nam lại trùng khít đến vậy. Hay, cái giá của mọi cuộc chiến tranh ái quốc đều thế cả, cái giá của hòa bình, của độc lập tự do đều không bao giờ rẻ khi các thế lực phi nghĩa luôn mang tham vọng vô cùng lớn và năng lượng của cái ác cũng không hề bé nhỏ.
Cứ miên man như đang cùng mạ, cùng Quảng Trị đi về dĩ vãng chưa xa ngái mấy. Dĩ vãng niềm tự hào cao rộng như núi như biển và nỗi đau cũng mang tầm kích như thế. Ta đã nói nhiều tới điều này trong thời hậu chiến nhưng hình như chưa đủ, chưa sâu. Chưa đi hết cái thấm thía chất náu trong trầm tích Quảng Trị. Kỳ tích và mất mát của một dải đất mỏng, neo bám vào Trường Sơn và trông ra biển cả bao la. Tôi nghĩ, Cửa Việt có một nội hàm bát ngát hơn là địa danh chỉ nơi đổ ra đại dương của một con sông không lớn của miền Trung.
Mạ của riêng tôi, mạ của nhiều người, mạ Quảng Trị chẳng hề nói dài, nói nhiều như ta đâu. Mạ nói:
Sông Hiền Lương bên bồi bên lở
Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương
Bao giờ giặc Mỹ hết phương
Bắc Nam sum họp con đường vô ra.
Mạ nói:
Bạn về không có chi đưa
Môn khoai đang dại, mít dừa đang non.
Mạ nói:
Chị em như chuối như tàu
Lành che tấm rách đừng nói nhau nặng lời.
Tôi đã từng nghe mạ nói trong tiếng kẽo kẹt của cánh võng ru cháu ngủ trưa hè:
Chập choạng bóng trăng em xem chưa rõ
Chập choạng bóng đèn em ngó chưa tường
Dáng ai như dáng người thương
Không vô đây phân giải một đôi đường cho em hay.
Có lẽ, ngày xửa ngày xưa khi em còn bé tí mạ đã ru rằng:
Anh về đừng có ngó lui
Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương…
Trong tôi đầy đặn một Quảng Trị quê hương thứ hai, quê ngoại của các con tôi; gần gũi một Quảng Trị thời trai trẻ được xác nhận bởi gió Lào, bão lũ; dấu yêu một Quảng Trị bạn bè rượu sắn lạc rang cho thơ xuôi sông Hiếu, sông Thạch Hãn rồi ra biển Việt mênh mang; thương lắm một Quảng Trị có em má lúm đồng tiền vừa làm cô giáo vừa mài bột sắn bán chợ nghèo; ân nghĩa một Quảng Trị nâng dìu tôi chập chững bước vào thơ ca để có những bài thơ định mệnh như Bông huệ trắng, Khát vọng Trường Sơn… Tôi muốn được nhắc lại rằng bài thơ Bông huệ trắng của tôi trước khi được Tạp chí Văn nghệ Quân đội tặng thưởng thơ hay nhất năm 1995 đã được in trên Tạp chí Cửa Việt. Những thi ảnh này đã hiện lên trong tôi sau khi đi viếng Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn về:
Những người lính trở về têm cho mẹ miếng trầu cay
giấc mơ mẹ đỏ tươi từng giọt máu
những người lính trở về xòe tay trên bếp khói
giấc mơ mẹ mình đơm óng ả hạt mùa chiêm
Những người lính trở về đánh rạ dọn rơm
giấc mơ mẹ bay la dòng sữa trắng
những người lính trở về cười ngượng nghịu
giấc mơ người bật dậy tiếng oa oa…
Chiếc quạt mo cau, khộ!
Một sự nhắc nhở nhẹ nhàng của mạ chăng? Ra chốn phồn hoa đô hội, lại có chút danh tiếng, biết đâu… Con người vốn dĩ hay quên, chắc mạ thầm lo thế. Mạ, đi đâu, ở đâu con vẫn mang hình bóng Quảng Trị trong lòng như mang câu ca dao xứ sở gió Lào nắng lửa:
Cây cao bóng cả chẳng ngồi
Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim.
Tôi ngắm nghía chiếc mo cau của mạ, lòng bâng khuâng thấy Quảng Trị rất gần; tháng năm xưa hiện về mồn một với những thương mến chân thành mà vùng đất ấy đã dành cho tôi. Không hoàn toàn mỹ mãn, trọn vẹn nhưng những tháng năm tôi sống ở Quảng Trị là vô cùng ý nghĩa. Cả những ai đó đã ứng xử không phải với mình, tôi cũng không còn băn khoăn nữa. Người Quảng Trị sống chân mộc, có trước có sau, không hề cực đoan và cũng không đãi bôi là cảm nhận bao quát trong tôi. Tôi trân trọng và yêu quý điều đó.
Giữa tiết thu rất đẹp của Hà Nội, thương mến Quảng Trị đã cho tôi bài thơ bé nhỏ này:
Mo cau rụng xuống sân nhà
Mạ ta làm quạt gửi ra Hà thành
Cầm tay, thơm ngát hương lành
Nghe trời Quảng Trị thẳm xanh đáy lòng.
Tôi dùng bút dạ ghi bốn câu thơ lên chiếc quạt mo cau của mạ, sau đó chụp ảnh rồi đưa lên trang facebook của mình. Trời ạ, hàng trăm người vào like với nhiều lời bình luận rất cảm động. Tình cảm riêng tư của tôi đã được cộng hưởng mạnh mẽ vào tình cảm của bạn bè gần xa. Sự tương tác trong thế giới ảo ấy không hề lạ lẫm với đời sống nội tâm thực của con người. Tình yêu của tôi đối với Quảng Trị đã nhận được sự chia sẻ của không ít bè bạn. Chiếc quạt mo cau mặc nhiên trở thành biểu tượng tình cảm mạ dành cho tôi. Đơn sơ mà lắng đọng bao nhiêu ý nghĩa tốt đẹp, trong sáng của cuộc sống hướng thiện. Mới hay, giá trị của quà tặng đâu phải phụ thuộc vào sự đắt rẻ, nhiều ít của hiện vật mà nó mặc định bởi tấm lòng người trao. Tấm lòng càng trong sáng, chân thành giá trị quà tặng càng cao đẹp, vững bền. Nó khác hoàn toàn với những món quà vụ lợi, giữa hai đầu tặng - nhận là sự toan tính cho riêng mình vì chức tước, vì bổng lộc hay vì muôn vàn mục đích khác. Tôi đặt chiếc quạt mo cau ở bàn làm việc để được gần mạ, gần Quảng Trị hơn, để cho lúc nào cũng được nhận về yêu thương của vùng đất khắc bạc mà thiện lành.
Thêm một mùa xuân mới. Mạ đã vượt xa ngưỡng thất thập cổ lai hy, bố cũng hơn tám chục tuổi trời rồi. Con bận việc ít vô, tuần nào cũng vậy, đôi ba lần mạ điện thoại ra hỏi thăm. Ôi, dân Việt thời nào cũng nước mắt chảy xuôi, lo cho con cháu hơn cả bản thân mình. Tôi chợt nhớ mùa xuân đầu tiên làm rể Cùa, sáng mồng Hai được mạ dẫn đi chúc Tết mấy nhà bà con. Đường đất đỏ gặp mưa lay phay bùn quết lại dính dẻo như bột lọc. Tôi đi bên mạ, một tay xách dép, một tay chống gậy, nghĩ lại thật buồn cười. Vừa bước vừa lo mình bị trượt ngã vì đường quá trơn. Lúc bấy giờ cả vùng Cùa chưa hề có một mét đường nhựa, điện sáng còn là ước mơ xa tít tắp. Xóm làng chỉ lơ thơ đôi ba ngôi nhà lợp ngói. Giờ đây đã hoàn toàn khác. Đường trục của xã, đường liên thôn đều được nhựa hóa, bê tông hóa gần như toàn bộ. Ngọn đèn dầu chỉ còn trong hoài niệm của người dân. Dù chưa giàu có mấy nhưng khó tìm được một ngôi nhà lợp tranh. Về dự cưới, tôi nhắc lại món nộm thân chuối non mấy bà, mấy cô cười khơ khơ: “Còn mô cái món thời khộ rứa nữa”.
Khộ! Chưa hẳn đã đầy đủ sang giàu nhưng cuộc sống bây giờ so với vài, ba mươi năm về trước quả là một trời một vực. Dẫu vậy, thời rượu sắn hay thời bia Huda thì mỗi độ xuân về hoa mai vẫn rung rinh những cánh vàng như nắng mới trên vùng đất đỏ. Trong mỗi cành mai vươn lên từ giá rét tôi nghe rõ những thầm thì của quá khứ, của vùng đất tôi yêu thương hết lòng. Hèn chi, bạn bè hay bảo tôi là tạng người sống với dĩ vãng.
Tôi tự nhận mình là người của hoài niệm. Khộ! Răng mà thương đến rứa khộ ơi!
Mùa nhớ
Không còn những ngày nắng non xen lẫn với ngày se se lạnh nữa. Rét nàng Bân, cái rét thương chồng của một cô gái vụng về cũng đã ở phía sau và bài thơ tôi yêu thích từ thuở còn binh nhất vẫn thấp thoáng đâu đây:
Đom đóm bay ra hoa gạo đỏ
Mẹ ở nhà đã cất áo bông
Mẹ có ra bờ sông
Qua bến đò tiễn con dạo trước
Đường xuống bến có mười sáu bậc
Mẹ nhớ thương đã bạc mái đầu…
(Hữu Thỉnh - Sức bền của đất).
Nhiều người đi qua chiến tranh chắc cũng như tôi còn nhớ những câu thơ ăm ắp tình cảm đó. Bốn mươi ba năm mang áo lính dãi dầu, sắp rời xa quân ngũ, mỗi khi tháng Năm về, lòng tôi vẫn bâng khuâng nhớ những mùa hè mình từng đi qua. Chiến tranh và hòa bình. Mùa hạ in dấu ấn vào tôi những cuộc chia tay có nước mắt và nụ cười với người thân, bạn bè, đồng đội. Mùa hạ. Mùa nhớ. Ký ức đỏ tươi hoa phượng, tím ngát hoa bằng lăng và tiếng ve sôi dưới bầu trời chói nắng.
Đâu dễ kiếm được tấm vé thời gian để trở về thời trai trẻ nhiều lãng mạn, tôi tiếp tục đi tìm cảm xúc mùa nhớ từ những người đang độ tuổi mười bảy, đôi mươi hôm nay. Các bạn khác với chúng tôi ngày xưa nhiều lắm khi đang hiện diện trong một Thế giới phẳng bao la nhưng không mấy cách xa. Dẫu vẫn bốn biển năm châu đấy nhưng Trái đất bây giờ cũng chỉ là một cái Làng lớn của nhân loại vậy. Trập trùng sông núi, bát ngát đất đai, mênh mông sa mạc, bao la biển cả… không ngăn cản được sự kết nối mau lẹ bằng vận tốc ánh sáng của những công cụ, thiết bị hiện đại. Rất nhiều câu chuyện trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông.
Chúng tôi thời bé, quanh năm ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, đầu trần chân đất đến trường. Vớ được cuốn sách nào là đọc ngấu đọc nghiến. Bù lại, đọc đến đâu nhớ mồn một đến đấy và thuộc rất nhiều thơ. Không gian của hầu hết chúng tôi có lẽ chỉ gói gọn trong lũy tre làng; xa hơn một chút là cánh đồng, bờ đê; xa hơn nữa có con đường đến trường huyện sau khi vào cấp ba. Phần đông con trai mười tám tuổi vào bộ đội, không nhiều lắm người bước tới giảng đường. Những cuộc chia tay đơn sơ, chỉ có chiếc khăn mùi soa và cuốn sổ tay giấy màu nâu tặng nhau. Chẳng được như các bạn bây giờ, chỉ cần một chiếc máy điện thoại thông minh không đắt tiền lắm là có thể “nắm” thế giới trong tay, cập nhật đủ mọi thông tin hay dở xa gần. Cơ hội để trở thành công dân toàn cầu có lẽ chẳng khó khăn mấy. Nhưng tôi tin, thời đại kỹ trị dù tối tân đến bao nhiêu cũng không chế tạo ra được cảm xúc của con người. Cảm xúc hầu như đang nằm ngoài tầm với của công nghệ. Tôi tin điều đó, tin lắm, nên mới bình tĩnh đi cùng các bạn trong những ngày khởi đầu của mùa nhớ này.
Tháng Năm về rồi đó các bạn ạ! Thôi, chúng ta cùng tạm quên đi Thế giới phẳng nhé, bỏ qua một bên những con dế thông minh mang tên Samsung có mẫu mã đẹp nhiều chức năng với hệ điều hành Android ưu việt hay Apple với biểu tượng độc nhất vô nhị là quả táo cắn dở có hệ điều hành iOS đẳng cấp hoặc Oppo được gọi là chuyên gia selfie rất hấp dẫn bạn trẻ để trở về với hoa phượng đỏ, bằng lăng tím, hoa sen hồng và tiếng ve cồn cào trên những tàng cây. Một năm học đã đi qua. Sau những ngày thi cử căng thẳng sẽ là giờ phút chia tay bịn rịn. Nuối tiếc. Nhớ nhung. Lấp lánh từng kỷ niệm trong tâm hồn.
Thời nào, chia tay cũng đong đầy thương nhớ, bíu ríu. Chia tay của những cô cậu học sinh trung học phổ thông. Chia tay của các bạn sinh viên sau mỗi năm học, khóa học. Chia tay của những chàng lính với người thân trước khi trở lại đơn vị. Bao nhiêu cuộc chia tay là bấy nhiêu níu náu dùng dằng. Có phải là thời miếng trầu đầu câu chuyện đâu để được thốt lên:
Người về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề câu thơ.
Đây nữa, cái hoang mang bối rối sắp phải xa người thương mến mới nao lòng làm sao:
Rồi mùa toóc rã rơm khô
Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm…
Câu tỏ tình thời tin học được ký tự hóa, biểu tượng hóa hiện lên trên màn hình có độ phân giải cao và rất ít bạn trẻ dùng ca dao hay thơ để nói hộ nỗi lòng mình. Thì đã sao đâu, mỗi thế hệ có cách thể hiện riêng tình cảm của họ. Con đường từ trái tim đến với trái tim mỗi thời mỗi khác nhưng bâng khuâng xao xuyến vẫn là mẫu số chung. Cái mẫu số được đo bằng rung động của tâm hồn. Tình yêu, tình bạn trong trẻo thắp sáng niềm tin cho chúng ta, chia tay hay gặp gỡ đều ánh lên vẻ đẹp nhân văn của con người. Và, tình cảm ấy chưa bao giờ chối từ sự có mặt của cỏ cây hoa lá như tháng Năm tràn trề dương khí này có phượng đỏ, bằng lăng tím…
Hoa góp vào các cuộc chia tay những ngôn ngữ riêng. Phượng gợi nhắc bao kỷ niệm học trò, sinh viên trong mùa thi. Bằng lăng tím như là điều được cất giữ bấy lâu nay sắp muốn cất lên. Những lúc đi bên nhau, ai chẳng muốn dành tặng cho nhau một cánh hoa mùa hè. Một chùm phượng. Một nhánh bằng lăng. Đỏ. Tím. Có bạn trẻ đã không ngần ngại vin cành bẻ hoa để tặng cho người song hành bên cạnh. Người tặng hoa miệng nở nụ cười tươi. Người nhận hoa ánh mắt lấp láy niềm vui. Tôi, người lính già tóc sương bước đi sau họ, đã mường tượng ra như thế. Thoạt đầu như nếm được cảm xúc yêu từ phía trước nhưng sau đó chợt nhận ra có cái gì đó sai sai. Nếu như ai cũng bẻ hoa, ngắt cành như vậy thì người đi sau lấy gì để ngắm. Sao không để phượng thắp lửa trên cành, bằng lăng dệt khăn tím bên đường. Tôi có cảm giác đang nghe một bản tình ca lỗi nhịp. Những nốt nhạc tuyệt vời bị làn sóng xấu xâm nhập làm méo mó âm sắc trữ tình.
Xin được kể lại câu chuyện của tôi. Có một lần mấy anh em nhà văn đi từ Điện Biên về Hà Nội. Đang giữa tiết xuân phơi phới, hoa ban nở tím giăng giăng trên những sườn núi hay hai bên đường cái. Thấy cây ban bên đường nở hoa đẹp quá, chúng tôi dừng xe xuống ngắm, chụp ảnh và mỗi người bẻ một cành mang về Thủ đô. Tội nghiệp cho những cành hoa vốn mang trong nó câu chuyện tình cảm động của nàng Ban và chàng trai nghèo cứ ủ rũ héo dần. Ai cũng cảm thấy ân hận về hành động của mình. Tại sao ta không để những cành hoa này nở giữa núi rừng yên tĩnh, nơi nó đã sinh ra trong rào rạt gió ngàn.
Trở lại câu chuyện của chúng ta. Tại sao trong các cuộc chia tay, không hiếm lúc chúng ta bẻ hoa phượng, hoa bằng lăng bên đường để tặng cho bạn thân hay người yêu. Có cần thiết như vậy không, các bạn? Ai cũng bẻ hoa tặng nhau như thế thì còn gì mùa hè nữa. Sao không để những chùm phượng đỏ, bằng lăng tím trên cây? Những chiếc giỏ xe có cần thiết phải được trang điểm bằng mấy chùm phượng vĩ và bằng lăng không? Tôi nghĩ và mong lắm điều này: ta sẽ hái hoa phượng đỏ, bằng lăng tím bằng mắt chứ không phải bằng tay và cất giữ nó trong trái tim mình. Mùa hè sẽ được giữ vẹn nguyên màu sắc lộng lẫy và âm thanh râm ran của nó. Bắt đầu từ tháng Năm tràn ngập ánh nắng và hoa. Cuộc sống sẽ đẹp hơn bằng những việc làm giản dị nhất. Giữ lại một chùm hoa cho người sau đến ngắm. Tại sao không, các bạn nhỉ!