T
iếng chuông cửa làm cả hai giật mình.
- Mấy giờ rồi anh? – Samantha hỏi.
- Bốn giờ rưỡi. – Matthew liếc nhìn chiếc đồng hồ Rolex. – Muốn anh ra mở cửa không?
- Cảm ơn anh.
Chuông cửa lại reo.
- Chờ chút. – Matthew vừa đi ra cửa vừa nói. – Tôi đến đây. Bộ không ai biết là cứ tự nhiên đẩy cửa bước vào quán trọ hay sao? - Anh mở cửa và mỉm cười. Là dì Allyson Husson.
- Quán trọ còn phòng nào trống không?
- Dì Ally. Cuối cùng dì đã tới.
- Ừ, dì đã tới, chàng trai trẻ à. Và bây giờ con có thể bắt đầu buổi tiệc được rồi đấy.
- Vẫn là dì Allyson ngày nào. - Đoạn anh nhìn xuống đôi bốt da màu đỏ chót rồi ngước lên nhìn chiếc mũ rộng vành màu hồng bằng vải lụa bóng xếp li, đính trên cùng là một chiếc nơ trắng lóng lánh mấy hạt kim cương giả. Matthew nghĩ bụng nó trông như đồ trang trí nắp ca-pô xe và định nói đùa với bà dì như thế, nhưng anh biết thể nào tí nữa Malcolm cũng chọc ghẹo y như vậy. Matthew ngưỡng mộ mái tóc bạch kim óng ánh của dì Allyson lộ ra bên dưới vành mũ. Người em gái sáu mươi mốt tuổi của Laurel vẫn mặc quần jeans trắng kết hợp với chiếc áo vải bông chéo, thêm chiếc áo choàng giả lông thú kẹp dưới cánh tay phải.
Allyson Husson và chị mình lớn lên ở Hampton Roads, Virginia, chỉ cách bờ biển vài cây số. Ai cũng biết sự ra đời của Allyson là kết quả của một vụ bể kế hoạch tuyệt vời, mặc dù bố mẹ cô chưa bao giờ thừa nhận điều này. Bố mẹ họ ly hôn trong khi hai cô con gái còn đang tuổi cắp sách đến trường: lúc ấy Laurel đang học lớp mười một còn Allyson học lớp hai. Mặc dù thuận tình ly hôn, nhưng sau đó mẹ của họ trượt dài trong nỗi thất vọng còn nặng nề hơn cả bầu không khí ẩm ướt miền biển vùng Hampton Roads. Bà khuyến khích các cô con gái học ăn kiêng, giữ cho thân hình mảnh mai, tô son trát phấn, học nấu ăn sao cho ngon hơn bà, và phải tìm cho mình một nơi để sống trong thế giới này. Nhiều năm sau vụ chia ly đó, Allyson quyết định nơi cô sẽ sống là bất cứ đâu trên thế giới ngoại trừ Virginia. Cô đã nung nấu ý định và không ngừng nài nỉ để được về sống với bố, nhưng cả bà mẹ lẫn bà chị Laurel không đời nào cho phép cô ở lại căn hộ của ông bố ở Williamsburg cách nhà họ hơn bảy mươi cây số quá một hoặc hai ngày. Laurel cùng em gái chỉ đến thăm bố rồi về và từ chối ở lại qua đêm. Những lúc từ chối như thế, cô thường phải nói với bố: “Mẹ ở đâu thì con ở đó”.
Bất chấp khao khát được rời khỏi Hampton Roads và theo đuổi việc học ở một nơi khác, sau khi tốt nghiệp trung học, Laurel quyết định nghỉ học để kiếm tiền nuôi Allyson và mẹ. Cô làm việc tại một trạm bán hàng cho quân đội đặt bên trong một căn cứ hải quân, từ nhà đến sở làm cô có thể đi bộ băng qua một khu vực toàn những người da trắng thuộc tầng lớp trung lưu sinh sống, rất an toàn.
Những lúc Laurel không phải làm việc, cô lại nghiền ngẫm Kinh thánh và chia sẻ những câu chuyện trong ấy với mẹ. Mỗi ngày cô dành hàng giờ liền để đọc cho mẹ nghe và họ đã cùng nhau tìm ra được một đức tin vốn không được phép tồn tại trong nhà họ trước khi bố mẹ cô ly hôn.
Allyson lại có một nhiệm vụ khác. Mỗi đêm trước khi đi ngủ cô giúp mẹ giải khuây bằng những điệu nhảy ngớ ngẩn và những màn độc thoại. Laurel đã từng bảo Allyson rằng mỗi câu chuyện cười cô kể hằng đêm đã giúp mẹ của họ sống lâu thêm một tuần nữa. Mẹ của họ qua đời với một nụ cười trên môi ở tuổi 101, hai mươi hai năm sau cái chết của ông chồng nát rượu.
Allyson rèn giũa các kỹ năng của một người làm trò tiêu khiển ở các vỉa hè gần nhà. Suốt mấy tháng trời, cả chị lẫn mẹ cô không ai biết rằng những buổi trưa, Allyson thường lang thang bên ngoài căn cứ hải quân để kể chuyện cười cho các quân nhân nghe khi họ ra vào khu này. Chưa đầy mười lăm tuổi, Allyson đã biểu diễn ở những câu lạc bộ của địa phương vào dịp cuối tuần và được quảng cáo là nữ diễn viên hài trẻ tuổi nhất ở bờ biển phía Đông. Không biết có phải thực vậy không nhưng có vẻ như Allyson cũng không muốn giải thích gì thêm. Sau khi cô bỏ học nửa chừng vào năm 1944, Allyson đã đưa ra một quyết định mà bấy lâu nay đã luôn ám ảnh cô và đồng thời cũng khiến trái tim chị cô tan nát: cô sẽ đến tận Bờ biển phía Tây để tìm kiếm cơ hội cho sự nghiệp của mình.
Trước khi chị cô biết chuyện thì Allyson đã ở châu Âu, hát cho các quân nhân trong một chuyến lưu diễn của Tổ chức Liên minh Quân sự Mỹ. Khi cô đang biểu diễn tại Luân Đôn vào ngày 7 tháng Năm, 1945 với bài hát “Những Giấc Mơ Của Tôi Đang Ngày Càng Đẹp Hơn” của Doris Day thì đột nhiên một nhà báo người Mỹ lao vào như một cơn lốc, nhảy lên sân khấu báo tin quân đội Đức đã đầu hàng. Rồi anh ta hôn lên môi Allyson. Họ cưới nhau ở Los Angeles sáu tuần sau đó.
Allyson trở lại cuộc sống độc thân vào năm 1949. Năm 1952 cô kết hôn với một nam diễn viên hạng B; ly hôn vào năm 1954; năm 1958 cô cưới một nam ca sĩ lang thang; lại ly hôn vào năm 1963; mãi đến năm 1969 cô kết hôn lần cuối cùng với tình yêu đích thực của cuộc đời mình, một nhà thầu xây dựng các sòng bạc. Câu chuyện hôn nhân của cô kết thúc năm 1979 tại Las Vegas, chồng cô bị một quả tạ phá nhà va phải khi ông đang ngồi trong toa xe lưu động tại công trường.
Đó cũng là năm tới lượt cô tìm đến Chúa.
Matthew không biết làm gì khác ngoài việc nở một nụ cười. – Chà, dì...trông dì tuyệt lắm. - Vừa nói anh vừa chú ý đến chiếc áo lông trên người bà dì.
- Đừng lo. - Allyson nhanh chóng trấn an. – Không phải lông thú thật đâu. Áo giả lông chồn thôi mà.
- Nếu thật vậy thì mời dì vào. - Matthew toan xách mớ hành lý của bà dì.
- Để xuống đã. - Allyson ra lệnh và Matthew tuân theo. – Ôm dì một cái đã nào. - Anh lại làm theo răm rắp. – Cháu đúng là con trai của Jack Cooper, không nghi ngờ gì nữa. Ông ấy cũng chả bao giờ ôm dì trước nếu dì không yêu cầu.
- Cháu xin lỗi. - Matthew đáp, tâm trí vẫn nghĩ về Malcolm.
- Giờ thì buông dì ra nào, cháu có vợ rồi...và hãy mang hành lý vào nhé.
Trong lúc Matthew khệ nệ mang hành lý của dì Allyson vào nhà thì Allyson đã đi được nửa đường vào đại sảnh.
- Samantha, Malcolm, dì đến rồi đây.
- Cháu đang ở phòng ăn đây ạ. - Samantha vẫy tay ra hiệu.
- Cô diễn viên bé nhỏ của dì đây rồi. - Allyson vừa nói vừa bước vào phòng. – Ôm dì coi nào.
Samantha đứng dậy và cũng ngoan ngoãn tuân theo.
- Dì thật sự rất xót xa cho các cháu.
- Ôi Dì Ally, chúng cháu không sao đâu ạ. Tất cả chúng cháu vẫn ổn mà.
- Ừm. - Bà ngập ngừng. - Không, các cháu chẳng ổn tí nào. Không ai cùng một lúc mất cả bố lẫn mẹ mà lại thấy ổn cả. Các cháu thật sự không ổn nhưng có dì bên cạnh để giúp các cháu đây. – Bà càng ôm Samantha chặt hơn nữa.
- Dì thật tốt và cháu cũng thấy tiếc cho dì. Dì đã mất đi một người chị tốt.
- Đúng vậy. Nhưng một ngày nào đó dì sẽ gặp lại chị ấy. Đã năm năm rồi từ khi dì rời khỏi đây và ở độ tuổi này thì có thể dì sẽ gặp chị ấy sớm hơn nếu chúng ta cứ tiếp tục bàn về mặt trái của vấn đề khó khăn này.
Samantha mỉm cười nhưng lại trào nước mắt. – Cháu thật sự rất nhớ dì. - Đoạn cô buông một cánh tay ra để chùi mũi.
- Ấy ấy, dùng chiếc áo này của dì nè. Đó là lý do tại sao dì mặc nó. Cháu đã bao giờ ăn tiệc tự chọn chưa?
Samantha lại cười và dời chồng thư ở chiếc ghế gần nhất qua một bên. Allyson ngồi xuống và cởi bỏ chiếc mũ khổng lồ của mình, mắc nó lên chiếc ghế bên cạnh. – Vậy chúng ta tới đâu rồi?
- Chúng ta tới đâu rồi là sao? – Samantha ngạc nhiên hỏi lại.
- Chương trình tang lễ tới đâu rồi, cháu cưng à. Việc sắp phải làm là gì đây?
- À, chốc nữa chúng ta sẽ tham dự lễ viếng và phải có mặt ở Edinburg trước 6 giờ, chỉ mất vài phút là tới. Tiếp theo là một buổi hòa nhạc ở nhà thờ vào sáng mai và sau đó là một buổi tiệc trưa thân mật không thể thiếu sự có mặt của dì và cuối cùng, đám tang sẽ diễn ra vào chiều mai ở phía sau nhà thờ.
- Cháu cất hành lý của dì trong phòng ngủ lớn trên lầu, được chứ? - Matthew vừa trở lại phòng ăn và ngồi lại vào chỗ của mình. Allyson trông có vẻ bối rối. – Dì không định ở lại đây à?
- Không. À có, - bà sửa lại, - dĩ nhiên là dì ở lại. Dì chỉ nghĩ là cháu nên xếp dì vào một phòng khác thôi.
- Đó là phòng đẹp nhất của Nhà Nghỉ đấy dì Ally. Mẹ và bố cháu chắc cũng muốn dì ở đó.
Chợt Allyson hạ giọng.
- Vậy thì cảm ơn nhé, Matt. Cảm ơn rất nhiều. - Bà đưa tay chùi một giọt nước mắt đọng trên gò má rồi cầm lên một lá thư lấy ra từ chồng thư trên bàn. – Tất cả thứ này là gì thế?
Matthew lặng im nhìn Samantha.
- Dì có biết là bố cháu đã viết thư tình cho mẹ cháu không? – Samantha hỏi bà dì.
Matthew làm điệu bộ với cả hai tay để minh họa cho câu hỏi của em gái.
- Ồ, cháu muốn nói đến Những Lá Thư Ngày Thứ Tư phải không?
- Dì biết à?
- Dì vừa là bạn thân nhất vừa là em gái của mẹ các cháu; dĩ nhiên là dì biết. Mẹ cháu đã gọi cho dì ngay trong tuần trăng mật và đọc cho dì nghe lá thư đầu tiên của họ. Ước gì người chồng đầu tiên của dì cũng làm được điều tuyệt vời giống vậy. Một người tự nguyện thổ lộ trọn hết tấm lòng ư? Khá là hiếm. - Allyson chăm chú nhìn vào tên của Laurel trên một chiếc phong bì màu xanh nhạt. – À, dì có trải qua nhiều cuộc hôn nhân, và cuối cùng dì cũng tìm được một người, và dì sẽ mang họ của ông ấy xuống mồ. - Allyson ngắm nghía chiếc nhẫn cưới lần thứ tư và là chiếc nhẫn kim cương thật đầu tiên mà bà từng được đeo.
- Không phải lá thư nào mẹ các cháu cũng nói cho dì nghe đâu, toàn là những chuyện riêng tư mà, nhưng thi thoảng bà vẫn điện thoại để đọc cho dì nghe những lá thư hay. Mẹ các cháu yêu những lá thư này lắm và bà đã rất tự hào khi bố các cháu viết thư cho bà. Dì tưởng như có đến hàng núi kho báu vô giá ẩn chứa trong những lá thư này, đó là những lời thì thầm, những câu chuyện đầy phiêu lưu mà các cháu không bao giờ biết, và thậm chí là những câu chuyện tầm phào nhưng không kém phần lý thú.
Allyson với lấy chiếc phong bì gần nhất và lôi ra một lá thư được viết trên giấy của Hãng hàng không Trans-World. - 23 tháng Bảy, 1969. - Bà đọc to. - Laurel yêu quý, em có tin là tuần này con người đã đi bộ trên mặt trăng rồi không? Thật là một điều kỳ diệu! Không biết liệu một ngày nào đó đời con cái chúng ta có được chứng kiến cảnh con người sống trên đó không nhỉ? Anh nghĩ là sẽ có đấy. Nếu chúng ta đã đưa được Neil Armstrong lên mặt trăng thì chúng ta có thể làm được nhiều điều gì khác chứ. - Chợt Allyson ngừng đọc và nhanh chóng xem lướt qua phần cuối của lá thư rồi cất nó lại vào phong bì.
- Cả hai đã sống một cuộc sống thật ý nghĩa. - Bà trầm ngâm. – Những mẩu giấy này đã từng cứu vãn cuộc hôn nhân của họ, không chỉ một lần...
Allyson nhìn Samantha và rồi nhìn chăm chăm Matthew đang ngồi bên kia bàn. Đôi mắt màu ô liu của anh dán chặt vào bà. Bà lại nhìn sang Samantha.
- Dì tự hỏi liệu những lá thư như thế này có thể cứu vãn được cuộc hôn nhân đầu tiên của dì hay không. Các cháu này, đã bao giờ dì kể với các cháu về người chồng đầu tiên của dì chưa, dượng Darwin ấy? – Không đợi câu trả lời, bà nói tiếp. – Ông ấy là một người đàn ông tốt. Thế nhưng vì lý do nào đấy mà ông ấy không còn yêu dì nữa. Thật sự thì dì không biết chắc lý do. Dì luôn cho rằng mình không đủ thông minh để hiểu được ông. Thế nhưng dì đã từng nói với các cháu rằng dì đã không, thực sự không hối hận về những năm tháng đó. Dì đã học hỏi được ở ông ấy rất nhiều. Các cháu biết đấy, ông ấy là một nhà báo, làm việc cho thời báo New York, thậm chí ông từng đạt vài giải thưởng trong sự nghiệp viết lách của mình. Dì và dượng gặp nhau ở nước ngoài khi Thế Chiến thứ II vừa kết thúc. Chính nhờ Darwin dì đã hiểu thêm nhiều điều về cuộc chiến thảm khốc ấy và tại sao chúng ta phải chiến đấu. Dì học được nhiều điều về văn chương cũng như biết thêm nhiều vùng đất trên thế giới mà dì thậm chí còn không biết là nó có tồn tại. Trước khi quen biết Darwin, dì không biết sự khác nhau giữa William Shakespeare và Charles Schulz. Dì cũng từng học phổ thông, mẹ các cháu biết mà, nhưng đầu óc dì không ở trong lớp.
Dì đã vinh hạnh được gặp Charles Schulz một lần, dì đã nói với các cháu chưa nhỉ? Mẹ các cháu cũng gặp rồi đấy. Charles cũng tham gia chiến đấu, mà hình như thời đó hầu như tất cả mọi người đều tham gia chiến đấu. Ngoại trừ bố các cháu. Dì nghĩ có lẽ ông ấy đã chiến đấu trong một cuộc chiến khác. Dù sao thì lúc đó Darwin và dì đang sống ở New York. Khi ấy là năm 1948 hay 49 gì đó, không lâu trước khi dì ly hôn. Cũng không lâu sau khi bố mẹ cháu kết hôn. Mẹ các cháu ghét điều đó, các cháu biết đấy, cảm giác hơi khó xử khi dì chuẩn bị ly hôn mà bà lại kết hôn.
Darwin đã viết một câu chuyện cho tờ Times về những người vẽ tranh biếm họa đầy triển vọng và ông có nghe về một gã ở Minnesota khi ấy đang làm việc cho một tờ báo ở St. Paul, dì nghĩ là vậy, đó là người đã vẽ cột tranh vui tên gọi Li’l Folks. Câu chuyện cười của anh bạn này có một con chó và một cậu bé tên là Charlie Brown. Nghe quen quen đúng không? Và các cháu có biết không, - bà quay sang Matthew, - người đàn ông đó, Schulz, đã lưu giữ lại toàn bộ những bức hình biếm họa mà ông có được vào ngày 6/6 mỗi năm. Ông dành tình cảm đặc biệt cho những cột báo này. Ông cất giữ để vinh danh những người đồng đội.
- Là trận Normandy. - Matthew cắt ngang.
- Đúng vậy, Matthew. - Bà gật đầu. – Là trận Normandy. Các cháu có biết là bố các cháu đã tiếc nuối đến nhường nào vì đã không có mặt trong trận chiến hôm đó. Mãi sau này ông vẫn còn ân hận.
- Ở Normandy à? - Samantha hỏi lại.
- Lúc bấy giờ, ông ấy được chỉ định đến một xưởng đóng tàu ở Portsmouth để làm việc và dì nghĩ bây giờ người ta gọi nó là Xưởng Hải quân Norfolk. Bố các cháu có một đôi tay với kỹ thuật điêu luyện. Ông có bộ óc của một kỹ sư, ông có thể thấy mọi thứ và cái cách chúng hoạt động như thế nào. Ông có thể thấy những việc mà người khác không thể. Thế nhưng bố các cháu luôn cảm thấy tội lỗi sau khi chiến tranh kết thúc. Điều đó thật sự ám ảnh ông và thậm chí đôi khi ông còn làm mẹ các cháu hoảng sợ.
Jack biết có nhiều cậu thanh niên đã hy sinh trong cuộc chiến, đã chết trên vùng biển ngày ấy. - Allyson rời mắt khỏi chồng thư một lúc. – Dì biết chú Joe của các cháu cũng đã chứng kiến một vài cuộc giao tranh, một vài trận đánh từng được nhắc đến thế nhưng chú ấy đã không ở đó lâu. Chú ấy đã nghiện rượu kể từ thời điểm đó. - Đột nhiên Allyson chuyển ánh nhìn sang Matthew.
- Jack luôn luôn nghĩ mọi người nhìn ông bằng một con mắt khác vì đã không tham gia chiến đấu. Ông không bao giờ hiểu rằng công việc của ông trên những chiếc tàu cũng quan trọng không kém gì chuyện cầm súng ra trận. Ông đã làm việc trên một vài chiếc tàu trong số những chiếc tàu đã chở những cậu thanh niên ấy ra vùng biển. Dì nhớ mẹ các cháu đã gọi cho dì sau khi họ cưới nhau được vài tháng. Đó là khi nào nhỉ, khoảng năm 48 thì phải? Qua đó dì biết bố các cháu thường gặp những cơn ác mộng kinh hoàng dẫu ông chưa một lần bước chân khỏi mảnh đất Hoa Kỳ, chưa bao giờ chứng kiến cảnh tượng một người bị giết trong suốt thời gian ông phục vụ. Tất cả những gì ông thấy chỉ là những hình ảnh trong phim thời sự. Ông cứ xem đi xem lại những thước phim ấy ngay cả khi cuộc chiến đã chấm dứt từ lâu. Thực ra ông cũng có vài người bạn đã trở về nhà bình an sau cuộc chiến tuy nhiên họ đã khác xưa. Họ ra đi với gương mặt của những chàng trai mười chín tuổi và trở về trong bộ dạng của những người đàn ông bốn mươi tuổi. Và Jack không biết phải nói gì khi gặp họ. Dù vậy ông vẫn giữ liên lạc với vài người trong nhóm bạn. Dì vẫn nhớ một người trong số đó vì ông ấy bị mất một cánh tay. Có một năm bố mẹ các cháu đã mời ông ấy đến dự lễ Tạ ơn và dì nghĩ khi ấy Matthew vẫn còn là một chú bé sơ sinh thôi.
Vài người - cụ thể là một trong những người anh em họ của bố các cháu ở Chicago - nghĩ rằng bố các cháu chỉ... may mắn thôi. Ông ấy chơi bóng chày hồi trung học. Dì cược là các cháu biết chuyện đó. Ông ấy rất khoái chơi bóng chày. Vào năm cuối cấp đội bóng chày của ông đã giành được giải vô địch của bang. Đó là những năm 36 hay 37 gì đó, hoặc thậm chí là năm 38. Dì nhớ mẹ các cháu còn bảo Jack là một tay bắt bóng cừ khôi và có thể đánh bóng bằng cả hai tay mà không hề có một sự khác biệt nào cả.
Các cháu có biết là Jack vẫn còn giữ một tấm hình của đội bóng chày đó không? Dì tin là bây giờ nó vẫn ở đâu đó trong phòng ông ấy. Mẹ các cháu kể rằng đằng sau bức hình, bố các cháu đã viết tên của từng người trong đội bóng và ngày họ qua đời.
Đúng vậy, mọi người bảo Jack Cooper là một người may mắn, rằng anh ấy là chàng trai vàng, rằng anh ấy đã may mắn vì không bao giờ phải mắc kẹt trong một cái dù hay chạy thục mạng trên bãi biển, không bao giờ phải bước qua xác của những người đồng đội như họ đã phải trải qua. Bất cứ khi nào họ tụ tập lại và nói về chiến tranh, bất kể là cuộc chiến nào - Triều Tiên, Việt Nam, không quan trọng - thì họ đều nhìn nhau như thể đó là một câu lạc bộ đặc biệt không dành cho bố các cháu vì ông đã không chiến đấu.
Bố các cháu không tham gia chiến đấu không phải vì ông không muốn, mà vì ông được trời phú một đôi tay và đôi mắt để có thể làm và thấy được những việc người khác không thể. Dẫu vậy cả đời ông ấy vẫn phải gánh chịu nhiều điều từ chiến tranh. Ông ấy đã trải qua vài chuyện, không dễ dàng đâu. – Giọng Allyson chợt run lên. – Thực sự là vậy. – Nói rồi bà đưa tay dụi mắt.
Samantha và Matthew cùng đứng dậy đi đến bên dì Allyson. Họ quỳ xuống bên cạnh, người bên trái, người bên phải, mỗi người quàng một cánh tay mình qua vai bà. Allyson áp hai tay vào má Matthew và hôn lên trán anh. Anh vòng hai tay ôm bà một lần nữa trước khi trở lên lầu.
Samantha và Allyson cầm tay nhau cho đến khi Matthew trở xuống với một tấm ảnh trắng đen khổ 20 x 25 chụp mười tám chàng cầu thủ bóng chày trong trang phục áo len trắng với chữ C’s thiệt bự trên ngực áo và trên những chiếc mũ lưỡi trai đồng bộ. Họ đứng tụm vào nhau quanh một chiếc cúp lớn bằng bạc hình một cầu thủ bóng chày cao ba mươi xăng đang vác chiếc gậy đánh bóng trên vai. Matthew và Samantha nhận ra và ngắm nhìn bố mình một cách thích thú, ông đang ngồi một cách rất tự hào ngay giữa hàng dưới cùng và chỉ vào máy ảnh với cả hai tay.
Matthew lật mặt sau của bức ảnh. Có mười tám cái tên được viết lên đó. Cạnh bên chín cái tên là ngày 6/6/1944 được viết một cách ngay ngắn bằng bút bi đen. Ba người khác qua đời trước thời điểm cuối năm 1945. Hai người mất vào cuối những năm 60 và hai người nữa mất khoảng giữa những năm 70. Duy chỉ có Jack và người em song sinh, Joe, một cầu thủ ném bóng siêu sao trong mùa giải đó, là không có ngày tháng được viết cạnh tên họ.
Matthew rút từ trong túi áo sơ mi ra một cây bút và lấy tay lau sạch mặt sau bức ảnh. Tiếp đó, cạnh bên tên của bố anh, anh đã đặt bút viết dòng chữ nhỏ và cẩn thận: 13 tháng Tư, 1988.