• ShareSach.comTham gia cộng đồng chia sẻ sách miễn phí để trải nghiệm thế giới sách đa dạng và phong phú. Tải và đọc sách mọi lúc, mọi nơi!
Danh mục
  1. Trang chủ
  2. Những thử thách của Apollo - Phần 3: Địa cung rực lửa
  3. Trang 16

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 53
  • Sau

12

Pinto ôi hỡi Pinto

Màu vàng gớm guốc nhìn vô ớn liền

Thôi ta trốn ở băng sau

LẠY CÁC THẦN OLYMPUS, ta bị đày đọa thế này còn chưa đủ sao?

Nào là lái xe từ Palm Springs tới Malibu cùng Meg và Grover. Nào là băng qua mấy khu vực di tản cháy rừng với chả giờ cao điểm ở LA. Nhưng sao số ta lại thảm tới mức phải đi bằng chiếc Ford Pinto 1979 màu mù tạc của Gleeson Hedge cơ chứ?

“Đùa nhau đấy à?” Ta hỏi ngay khi thấy đồng đội đứng chờ cùng Gleeson bên cạnh chiếc xe. “Bộ mấy tiên xương rồng không còn chiếc xe nào coi đ… ờ, xe nào khác à?”

Huấn luyện viên Hedge trừng mắt. “Nhóc con phải biết ơn đi nhé. Đây là đồ cổ đó! Truyền lại từ đời ông nội ta. Ta đã giữ gìn nó rất cẩn thận, vậy nên mấy đứa liệu đừng có làm trầy đó.”

Ta thầm điểm lại mấy trải nghiệm xe cộ gần đây: cỗ xe mặt trời cắm đầu xuống hồ nước ở Trại Con Lai; chiếc Prius của Percy Jackson đâm vào giữa hai cây đào trong vườn cây ở Long Island, chiếc Mercedes ăn trộm đánh võng qua đường phố Indianapolis dưới tay lái của ba con quỷ trái cây.

“Bọn này sẽ chăm sóc nó đàng hoàng,” ta hứa.

Huấn luyện viên Hedge quay ra trao đổi với Grover, đảm bảo cậu biết đường đến nhà McLean ở Malibu.

“Cha con McLean chắc vẫn còn ở đó,” Hedge trầm ngâm. “Hy vọng là vậy.”

“Ý chú là sao?” Grover hỏi. “Sao họ lại không ở đó?”

Hedge ho khan. “Mà thôi, chúc may mắn! Gửi lời hỏi thăm Piper nếu gặp con bé. Tội con nhỏ…”

Ông quay đi, chạy ngược lên đồi.

Bên trong chiếc Pinto có mùi như nhựa cháy trộn hoắc hương, làm ta nhớ đến kỉ niệm tồi tệ với Travolta trên sàn nhảy disco. (Tin ngoài lề này: Trong tiếng Ý, họ của hắn có nghĩa là áp đảo, một từ hoàn hảo để miêu tả mùi nước hoa hắn xài.)

Grover là người lái vì Gleeson chỉ tin tưởng giao chìa khóa cho mỗi cậu ta. (Quá đáng.)

Meg ngồi ghế phụ lái, đôi giày đỏ gác lên bảng đồng hồ, tự mua vui bằng cách cho mọc bông giấy quanh mắt cá. Tinh thần cô có vẻ khá tốt, xét tới việc tối qua vừa mới ngồi chia sẻ bi kịch tuổi thơ. Ta thì không vui nổi. Chỉ nghĩ thoáng qua những mất mát cô bé phải chịu là ta đã không cầm được nước mắt.

May thay, ta có rất nhiều không gian để khóc bởi một mình hưởng hết băng sau.

Cả bọn chạy về hướng tây trên Xa Lộ Liên Bang 10. Băng qua thung lũng Moreno, ta rồi cũng nhận ra điểm bất thường: thay vì chuyển dần sang xanh, cảnh sắc ngoài kia vẫn duy trì một màu nâu như trước, nhiệt độ oi bức, không khí hanh khô, cứ như sa mạc Mojave đã quên mất biên giới mà lan ra tới tận vùng Riverside rồi vậy. Ở phía bắc đằng kia, bầu trời là một màn sương đùng đục, nhìn vào cứ tưởng cả cánh rừng San Bernardino đang bốc cháy.

Tới khi đến Pomona và hòa vào dòng xe kẹt cứng thì chiếc Pinto đã rung lên cành cạch, kêu khò khè như một con lợn rừng Phi châu sốc nhiệt.

Grover nhìn chiếc BMW sát sau lưng mình qua gương chiếu hậu.

“Xe Pinto bị đụng từ đằng sau có nổ không nhỉ?” Cậu hỏi.

“Thỉnh thoảng thôi,” ta đáp.

Hồi thời lái xe mặt trời, ngồi trên một phương tiện phát nổ chẳng là vấn đề gì với ta, nhưng sau khi nghe Grover nói vậy, ta bất giác cũng nhìn ra sau, trong đầu thầm xua chiếc BMW lùi lại.

Ta đang cần lắm một bữa sáng đàng hoàng chứ không chỉ cái phần enchiladas lạnh ngắt để qua đêm. Ta sẵn sàng san bằng cả một thành phố Hy Lạp để đổi lấy cốc cà phê ngon cùng một chuyến đi thoải mái về hướng ngược lại cái hướng đang đi.

Tâm trí ta dần trôi đi. Cũng không rõ đây là cảnh mộng bị kích thích bởi những gì nhìn thấy tối qua, hay là tiềm thức đang cố trốn chạy cái băng sau chiếc Pinto này nữa. Ta thấy mình sống lại trong kí ức về Nữ Tiên Tri Vùng Erythrae.

Giờ ta đã nhớ ra tên nàng: Herophile, bạn của người hùng.

Ta nhìn thấy quê nhà nàng, Vịnh Erythrae, tọa lạc bên bờ biển sau này sẽ là Thổ Nhĩ Kỳ. Một dãy đồi vàng lộng gió hình bán nguyệt rậm rạp những cây lá kim, thoai thoải kéo dài xuống mặt biển Aegea xanh như ngọc. Nơi miệng hang lọt thỏm trong thung lũng nhỏ, một người chăn cừu trong chiếc áo len tự dệt quỳ cạnh vợ mình, nàng thủy tiên nữ của con suối gần đó. Bà đang chuyển dạ. Ta sẽ lướt qua mấy chi tiết cụ thể giùm các người, trừ một chuyện: khi người mẹ gào lên cú rặn sau cùng, đứa bé sinh ra đã không cất tiếng khóc mà cất tiếng hát. Một giọng hát ngọt ngào vang vọng núi rừng với thanh âm của lời tiên tri.

Các người biết rồi đấy, việc đó ngay lập tức làm ta chú ý. Kể từ giây phút ấy, đứa bé nọ đã thuộc về Apollo. Ta phong nàng làm Sấm Truyền.

Ta vẫn nhớ nàng thiếu nữ Herophile đi khắp vùng Địa Trung Hải để ban phát kiến thức. Nàng hát cho bất kì ai muốn nghe - vua chúa, anh hùng, tư tế trong đền. Tất cả đều phải vất vả chép lại lời ca tiên tri. Hãy tưởng tượng phải thuộc lòng tất cả bài hát trong vở Hamilton chỉ trong một lần nghe mà không được tua lại lần nào đi nhé, các người hiểu được nỗi khổ của mấy kẻ kia rồi đấy.

Chẳng qua Herophile có quá nhiều lời khuyên muốn chia sẻ. Giọng nàng quá say đắm nên người nghe không tài nào bắt kịp tất cả chi tiết. Nàng không thể kiểm soát thời gian hay nội dung mình hát. Nàng cũng không thể lặp lại. Muốn nghe thì phải có mặt đúng lúc thôi.

Nàng dự đoán sự thất thủ của thành Troy. Nàng thấy trước sự trỗi dậy của Alexander Đại Đế. Nàng chỉ cho Aeneas nơi thành lập thuộc địa mới, vùng đất rồi sẽ trở thành Rome của ngày nay. Nhưng người La Mã có nghe hết tất cả lời khuyên của nàng không? Cẩn thận với mấy vị hoàng đế, Đừng phát cuồng với trò võ sĩ giác đấu, Áo toga không phải là một tuyên ngôn thời trang hay đâu. Không. Chúng đâu có nghe.

Trong suốt chín trăm năm, Herophile lang thang khắp nơi trên thế giới. Nàng tận tâm tận lực giúp đỡ mọi người, nhưng dù đã nhận thiên ân cũng như vài bó hoa khích lệ từ ta, nàng vẫn dần dần đâm ra nản chí. Tất cả những người quen biết thuở xưa của nàng đã chết. Nàng đã chứng kiến biết bao nền văn minh hết thịnh rồi suy. Nàng đã nghe quá nhiều tư tế lẫn anh hùng nói Hả? Khoan. Cô lặp lại được không? Đợi tôi kiếm bút đã.

Nàng trở về quê mẹ ở Erythrae. Dòng suối đã cạn khô từ mấy thế kỉ trước, linh hồn mẹ nàng cũng theo đó ra đi, nhưng Herophile vẫn ở lại trong cái hang gần đó. Nàng giúp đỡ những ai tìm đến kiến thức của nàng, nhưng giọng nàng đã không còn như trước nữa.

Giọng hát ngọt ngào ngày xưa đã mất. Là nàng mất đi tự tin, hay món quà tiên tri đã biến đổi thành một dạng lời nguyền nào đó, ta chẳng rõ. Herophile giờ nói nhát gừng, bỏ trống những từ quan trọng để người nghe tự đoán. Nhiều lúc nàng chẳng thể phát ra tiếng nào. Trong cơn ức chế, nàng viết lại những dòng tiên tri lên lá khô, để đó cho người hỏi tự sắp xếp sao cho có nghĩa.

Lần cuối ta thấy Herophile là… phải rồi, năm 1509. Ta dỗ nàng ra khỏi hang để đi thăm Rome lần cuối, Michelangelo đang ở đó vẽ chân dung nàng lên trần nhà thờ Sistine. Người ta vinh danh nàng vì lời tiên tri rất lâu về trước, khi nàng dự đoán sự ra đời của Giêsu thành Nazarene.

“Tôi không biết nữa Michael à,” Herophile nói, ngồi trên giàn giáo cạnh người họa sĩ, nhìn cậu vẽ tranh. “Bức tranh đẹp lắm, nhưng tay tôi không có...” Giọng nàng nghẹn lại. “Từ hai tiếng, bắt đầu bằng C và B.”

Michelangelo nhịp nhịp cây cọ lên môi. “Cơ bắp?”

Herophile gật đầu lia lịa.

“Tôi sẽ sửa lại,” Michelangelo hứa.

Sau đó Herophile trở về hang rồi không trở ra nữa. Phải thừa nhận là ta đã quên mất nàng. Ta cứ cho rằng nàng đã tan biến như nhiều nguồn Sấm Truyền cổ xưa khác. Thế mà giờ nàng lại ở đây, Nam California, gọn trong tay Caligula.

Lẽ ra ta phải tiếp tục gửi hoa cho nàng.

Giờ đây tất cả những gì ta có thể làm là cố bù đắp cho sơ suất ngày trước. Herophile vẫn là Sấm Truyền của ta, chẳng khác chi Rachel Dare ở Trại Con Lai hay hồn ma Trophonius đáng thương ở Indianapolis. Bẫy hay không thì ta cũng không thể bỏ mặc nàng trong căn phòng dung nham, bị trói buộc bằng những sợi xích nóng chảy. Bất giác ta tự hỏi phải chăng, phải chăng thôi nhé, Zeus đã đúng khi đày ta xuống trần, bắt ta sửa chữa những sai lầm đã cho phép xảy ra.

Ta vội vàng đẩy tư tưởng đó đi. Không. Hình phạt này là hoàn toàn phi lí. Nhưng mà… ọe. Còn gì kinh hơn nhận ra bản thân đồng tình với lão cha già cơ chứ?

Grover đánh xe vòng qua vành đai phía bắc Los Angeles, nhích từng chút theo dòng xe chậm rì chậm rịt y hệt quá trình động não của Athena.

Ta không muốn tỏ ra bất công với Nam California. Nơi này khi không xảy ra hỏa hoạn, động đất, kẹt xe, phủ đầy khói bụi, chìm dần xuống biển, thì vẫn có thứ làm ta yêu thích đấy chứ: xu hướng âm nhạc, hàng cọ, bãi biển, nắng đẹp, người xinh. Thế nhưng ta vẫn hiểu tại sao Hades lại đặt cổng vào Âm Phủ ở đây. Los Angeles là thỏi nam châm thu hút khát vọng con người. Một nơi hoàn hảo cho người phàm hội tụ, mắt mơ màng theo đuổi bả vinh hoa, rồi thất bại, rồi chết, theo đường nước thải mà trôi vào hư không.

Đấy, thấy chưa? Ta có thể nhận xét công tâm lắm chứ!

Thỉnh thoảng ta lại đưa mắt nhìn trời, hy vọng sẽ thấy Leo Valdez cưỡi con rồng đồng Festus bay ngang qua. Ta muốn thấy cậu kéo theo tấm băng rôn MỌI THỨ ĐỀU ỔN! Phải, hai ngày nữa mới tới trăng non, nhưng biết đâu Leo đã hoàn thành sớm nhiệm vụ giải cứu thì sao! Cậu có thể đáp xuống đường cao tốc, báo rằng Trại Jupiter đã được an toàn. Sau đó kêu Festus phun lửa thổi bay mấy chiếc xe trước mặt để bọn ta tăng tốc.

Nhưng thần hỡi, chẳng có con rồng đồng nào trên cao hết, cơ cũng khó nói. Cả bầu trời bây giờ chỉ có một màu đồng.

“Grover này,” ta lên tiếng sau vài thập kỉ mắc kẹt trên Xa Lộ Cao Tốc Thái Bình Dương, “cậu đã từng gặp Piper hay Jason chưa?”

Grover lắc đầu. “Nghe thì lạ thật, tôi biết. Tất cả bọn tôi đều ở Nam Cali suốt thời gian qua. Nhưng tôi bận xử lý mấy vụ cháy. Còn Jason và Piper thì lo làm nhiệm vụ, rồi học hành này nọ. Tôi không có cơ hội. Huấn luyện viên nói họ… dễ thương.”

Ta có cảm giác cậu tính nói từ gì khác chứ không phải dễ thương.

“Có vấn đề gì bọn này cần biết không?” Ta hỏi.

Grover nhịp ngón tay xuống vô lăng. “Chậc… dạo này họ phải chịu nhiều áp lực. Nào là phải tìm Leo Valdez. Rồi thực hiện mớ nhiệm vụ to nhỏ khác nhau. Rồi ông McLean bắt đầu gặp rắc rối.”

Meg đang ngồi kết vòng hoa giấy ngẩng lên. “Cha của Piper á?”

Grover gật đầu. “Ông ấy là một diễn viên nổi tiếng. Tristan McLean ấy?”

Sống lưng ta rợn lên phấn khích. Ta mê vai của Tristan McLean trong Vua Sparta lắm. Rồi cả Jake Steel 2: Steel Tái Xuất nữa chứ. Là con người mà tay ấy có cơ bụng chất không tin được.

“Rắc rối thế nào cơ?” Ta hỏi.

“Ngài không đọc tin về mấy ngôi sao,” Grover đoán.

Buồn nhưng đúng. Bận bịu chạy quanh trong lốt người phàm, giải phóng Sấm Truyền rồi chiến đấu với đám La Mã hoang tưởng tự đại, ta thật chẳng còn thời gian đâu mà theo dõi mớ tin lá cải hấp dẫn của Hollywood.

“Chia tay không êm thắm?” Ta đoán. “Phát hiện có con rơi? Hay là viết bậy bạ gì trên Twitter?”

“Không hẳn,” Grover nói. “Hãy cứ… xem mọi việc thế nào khi tới nơi đã. Chắc cũng không tệ lắm đâu.”

Cậu nói bằng cái giọng người ta vẫn nói khi dự đoán mọi việc sẽ rất tệ.

Tới khi bọn ta đến được Malibu thì đã sát giờ ăn trưa. Bao tử ta lộn ngang lộn dọc vì đói lẫn say xe. Ta, một kẻ từng phóng băng băng trên chiếc Maserati mặt trời cả ngày, lại bị say xe đó. Tại Grover hết. Cậu ta lái bằng móng guốc mà.

Ở mặt tích cực, chiếc Pinto không nổ tung, và bọn ta thuận lợi tìm được nhà McLean.

Cách con đường ngoằn ngoèo một khoảng, tòa dinh thự số 12 đường Oro del Mar dựa vào vách đá nhìn ra Thái Bình Dương. Dưới đường nhìn lên chỉ có thể thấy mỗi bức tường cao trắng toát, cánh cổng sắt cầu kì cùng lớp lớp những hàng mái ngói đỏ.

Nơi này hẳn sẽ toát lên không khí riêng tư tĩnh mịch nếu bỏ đi mấy chiếc xe tải đậu trước cửa. Cổng vào mở toang. Từng tốp người lực lưỡng khuân bàn ghế, tác phẩm nghệ thuật cỡ lớn từ trong nhà ra ngoài. Đi tới đi lui ở lối vào, bộ dạng ngơ ngẩn lôi thôi như vừa chui ra từ một vụ đụng xe chính là Tristan McLean.

Tóc ông dài hơn trên phim. Những lọn tóc đen mượt phất phơ bên vai. Ông ta đã tăng kí, không còn giống cái cỗ máy giết người rắn rỏi trong Vua Sparta nữa. Chiếc quần bò trắng lấm lem bồ hóng. Áo phông đen rách cổ. Đôi giày lười nhìn như hai củ khoai nướng quá lửa.

Nhìn sai quá đi mất. Một ngôi sao ở đẳng cấp như ông ta lại đứng trước cửa nhà ở Malibu mà không có lấy bóng dáng một vệ sĩ hay trợ lý hay người hâm mộ nào. Thậm chí không có cả đám paparazzi để săn mấy tấm ảnh đáng xấu hổ.

“Ông ta bị gì vậy?” Ta thắc mắc.

Meg nheo mắt nhìn qua cửa kính. “Thấy ổn mà.”

“Không,” ta quả quyết. “Ông ta… bình thường quá.”

Grover tắt máy xe. “Xuống chào thôi nào.”

McLean dừng bước khi trông thấy bọn ta. Đôi mắt nâu sẫm lộ vẻ đờ đẫn. “Các cháu là bạn của Piper à?”

Ta hoàn toàn cứng họng, miệng lúng búng không thành tiếng. Kể từ lần đầu gặp Grace Kelly thì ta đâu còn bị vậy nữa chứ.

“Vâng thưa bác,” Grover nói. “Bạn ấy có nhà không ạ?”

“Nhà…” Tristan McLean nếm cái từ trên đầu lưỡi. Rồi nhận thấy nó hoàn toàn đắng ngắt và chẳng có chút ý nghĩa gì. “Vào trong đi.” Ông phất tay xuống lối đi. “Chắc nó đang…” Ông lạc giọng, đưa mắt nhìn hai người khuân vác khiêng bức tượng cá trê bằng cẩm thạch ra ngoài. “Đi đi. Sao cũng được.”

Ta không rõ ông nói với bọn ta hay hai người khuân vác, nhưng cái giọng bất lực kia còn làm ta kinh ngạc hơn cả bộ dạng của ông.

Cả bọn băng qua khu vườn rộng với những hàng cây tạo hình tinh xảo cùng đài phun lấp lánh, đi qua cánh cửa gỗ sồi bóng loáng khổng lồ để bước vào trong nhà.

Sàn nhà lát gạch đỏ ánh lên loang loáng. Bức tường trắng lại càng trắng hơn ở những nơi từng treo tranh. Bên phải bọn ta kéo dài một nhà bếp sành điệu tới mức Edesia, nữ thần yến tiệc của La Mã cũng phải ngưỡng mộ. Trước mặt cả bọn là một căn phòng rộng mênh mông, trần cao chín mét bắc gỗ tuyết tùng, lò sưởi khổng lồ, cánh cửa lùa dẫn ra sân hiên nhìn xuống đại dương.

Buồn một nỗi căn phòng chỉ còn là một cái vỏ rỗng: không bàn ghế, không rèm thảm, không tranh tượng. Chỉ còn vài sợi dây điện nằm dọc tường, chổi và đồ hốt rác để dựa góc.

Một căn phòng ấn tượng thế này không nên trống không như vậy. Chẳng khác chi một ngôi đền không có tượng thờ, âm nhạc và đồ tế bằng vàng (Ôi, sao ta lại tự đi hành hạ mình bằng cái so sánh đó chứ?)

Một cô gái trẻ ngồi trước lò sưởi sắp soạn giấy tờ. Cô có nước da màu đồng, tóc tỉa xếp tầng. Chiếc áo phông màu cam của Trại Con Lai giúp ta đoán đây là Piper, con gái của Aphrodite và Tristan McLean.

Tiếng bước chân của ba người bọn ta vọng khắp không gian rộng lớn, nhưng Piper chẳng hề ngước lên. Hoặc là cô quá chú tâm vào mớ giấy tờ, hoặc là cô tưởng bọn ta là mấy người khuân vác.

“Muốn tôi đứng dậy nữa à?” Cô làu bàu. “Cái lò sưởi này không có chạy đi đâu được đâu.”

“A hèm,” ta hắng giọng.

Piper ngẩng mặt lên. Đôi mắt đa màu hắt sáng như lăng kính. Cô nhìn ta hồi lâu như không rõ đang nhìn vào cái gì (ôi chao, ta hiểu mà), rồi quay sang Meg với vẻ bối rối tương tự.

Cuối cùng cô đặt ánh mắt lên Grover, miệng liền há hốc. “Em… em biết anh,” cô nói. “Hình chụp của chị Annabeth. Anh là Grover!”

Cô đứng bật dậy, mớ giấy tờ rơi vãi xuống nền gạch. “Chuyện gì vậy? Chị Annabeth và anh Percy có sao không?”

Grover nhích lùi lại, cũng phải thôi. Cái bộ dạng hung hãn của Piper nhìn vào ai chẳng sợ.

“Họ ổn cả!” Cậu nói. “Chắc vậy. Thật ra anh đã không… ừm… gặp họ một thời gian rồi, nhưng… nhưng mà anh có mối dây linh cảm với Percy, vậy nên nếu cậu ta không ổn thì anh sẽ biết ngay…”

“Apollo.” Meg quỳ xuống. Cô nhặt một tờ giấy dưới đất lên, mặt nhăn lại còn hơn cả Piper.

Bao tử ta chính thức lộn ngược. Sao nãy giờ ta không để ý tới màu của mớ hồ sơ chứ? Toàn bộ chỗ giấy tờ này… phong thư, báo cáo đối chiếu, thư công việc… tất cả đều có màu vàng bồ công anh.

“‘Công ty Tài Chính N.H’” Meg đọc tiêu đề thư. “‘Trực thuộc Triumvirate…”

“Này!” Piper giật tờ giấy lại. “Không được đọc!” Đoạn cô quay sang nhìn ta như đang tua lại trong đầu. “Khoan. Cô ấy vừa gọi anh là Apollo à?”

“E là vậy.” Ta ngượng ngập cúi chào. “Apollo, thần thi ca, âm nhạc, cung thuật và nhiều ngành nghề quan trọng khác, hân hạnh được phục vụ. Có điều bằng lái xe của ta ghi là Lester Papadopoulos.”

Cô chớp mắt. “Hả?”

“Còn đây là Meg McCaffrey,” ta tiếp. “Con gái nữ thần Demeter. Em ấy không tính tọc mạch đâu. Chỉ là bọn ta đã từng thấy qua loại giấy này trước đây rồi.”

Mắt Piper đảo lia lịa từ ta sang Meg rồi sang Grover. Cậu thần rừng so vai như muốn nói Chào mừng đến với ác mộng đời tôi.

“Anh phải tua lại từ đầu đi,” Piper bảo.

Ta cố gắng tóm lược một cách vắn tắt nhất có thể: bị đày xuống trần, phải phục vụ Meg, hai nhiệm vụ giải phóng Sấm Truyền Dodona và Trophonius, hành trình cùng Calypso và Leo Valdez…

“LEO?” Piper tóm lấy tay ta mạnh tới mức quá nửa sẽ để lại vết bầm. “Cậu ta còn sống sao?”

“Đau quá,” ta rên.

“Xin lỗi.” Cô buông ra. “Em cần biết mọi điều về Leo. Mau.”

Ta cố hết sức làm theo, sợ rằng cô mà không vừa lòng là sẽ trực tiếp dùng tay lôi mớ thông tin khỏi não ta luôn.

“Cái đốm lửa loắt choắt đó,” cô gầm gừ. “Người ta tìm kiếm suốt mấy tháng trời, còn cậu ta cứ thế mà chạy về trại?”

“Ừ,” ta xác nhận. “Có cả một danh sách những người muốn đập cậu ta đó. Bọn này sẽ xếp chỗ cho em vào mùa thu tới. Nhưng hiện tại bọn ta cần em giúp. Bọn ta phải cứu Nữ Tiên Tri khỏi tay hoàng đế Caligula.”

Vẻ mặt Piper làm ta liên tưởng đến người tung hứng, cố gắng cùng lúc định vị mười lăm vật thể trên không.

“Biết ngay mà,” cô lẩm bẩm. “Biết ngay Jason đã không kể với mình…”

Năm, sáu gã khuân vác đột ngột ùa qua cửa chính, lao nhao với nhau bằng tiếng Nga.

Piper cau mày. “Ra sân hiên nói chuyện đi,” cô nói. “Chúng ta có thể trao đổi tin xấu với nhau.”

  • Trước
  • 1
  • More pages
  • 15
  • 16
  • 17
  • More pages
  • 53
  • Sau