Bước đến căn cứ bóng xế tà
Hoang vu đất đá, cát mênh mông
Và đây là đá, kia cũng đá
NGƯỜI TA KỂ là ta đã leo lên được tới mặt đất.
Ta chẳng nhớ.
Meg bị liệt nửa người, Grover phải cõng ta qua nửa con dốc, vậy nên thật vô lí khi ta là người ngất xỉu, nhưng biết nói gì đây? Chơi cái hợp âm Fa thứ 7 cho bài “Đồng Dâu Bất Tận” nhất định đã vắt kiệt sức ta rồi.
Nhưng mà ta nhớ cái giấc mơ.
Đứng trước ta là một nàng thiếu nữ duyên dáng có nước da ô liu, mái tóc nâu vàng búi cao trên đỉnh đầu, chiếc váy xám không tay mỏng manh như cánh bướm. Trông nàng trạc hai mươi, nhưng đôi mắt đen láy lại như hai viên ngọc trai rắn chắc - lớp vỏ dày hình thành qua bao thế kỉ, lớp vỏ bảo vệ che giấu biết bao bi ai buồn khổ không kể cùng ai. Đó là đôi mắt của một kẻ bất tử đã chứng kiến sự suy tàn của biết bao nền văn minh vĩ đại.
Bọn ta đứng trên một bệ đá bên rìa một cái hồ lớn, nhìn như bể bơi trong nhà đổ đầy dung nham. Hơi nóng gợn lên từng đợt. Tro bay vào mắt cay sè.
Nàng thiếu nữ khẩn khoản giơ hai tay lên. Cổ tay nàng bị còng bằng cái cùm sắt nóng đỏ. Sợi xích nóng chảy đóng xuống bệ đá, nhưng chỗ kim loại dường như không làm bỏng tay nàng.
“Ta xin lỗi,” nàng nói.
Vì lẽ nào đó ta biết nàng không nói với ta. Ta chỉ đang chứng kiến cảnh này qua đôi mắt của ai đó khác. Nàng vừa báo cho kẻ đó một tin xấu, rất rất xấu, nhưng là gì thì ta không rõ.
“Nếu được thì ta đã không để cậu vướng vào chuyện này rồi,” nàng nói. “Không để cô ấy vướng vào. Nhưng ta không thể. Nhắn với Apollo là ngài ấy phải tới. Chỉ có ngài ấy mới giải thoát được cho ta, mặc dù đây là một cái…” Nàng nghẹn lại như bị một mảnh thủy tinh mắc ngang họng. “Từ có ba chữ cái,” nàng khàn giọng. “Bắt đầu bằng B.”
Bẫy, ta nghĩ. Đáp án là bẫy!
Cả người ta bỗng run lên phấn khích, kiểu như theo dõi một chương trình đố vui mà biết được câu trả lời ấy. Phải chi mình là thí sinh, ngươi sẽ nghĩ, mình sẽ ẵm hết giải cho xem!
Thế rồi ta phát hiện mình không thích trò đố vui này. Nhất là khi câu trả lời là bẫy. Nhất là khi cái bẫy này là phần thưởng đang chờ đợi ta.
Bóng hình nàng thiếu nữ tan vào ngọn lửa.
Ta thấy mình đứng ở một nơi khác - một khoảnh sân có mái che nhìn ra vịnh biển dưới trăng. Lẩn khuất trong sương mù xa xa là chiếc bóng đen thẫm quen thuộc của ngọn Vesuvius, nhưng là Vesuvius trước trận phun trào năm 79 đã thổi bay cả đỉnh núi, phá hủy Pompeii và cướp đi tính mạng của mấy ngàn người dân La Mã. (Tại Vulcan hết đó. Tuần đó hắn gặp đủ thứ chuyện không vui.)
Bầu trời hoàng hôn thẫm trong sắc tím, bờ biển thắp sáng chỉ nhờ ánh đuốc với trăng sao. Dưới chân ta, mặt sàn khảm những ô vuông vàng bạc - một dạng trang trí mà rất ít người La Mã có đủ khả năng chi trả nổi. Trên tường treo những bức bích họa đủ màu lộng giữa thảm lụa, giá trị chắc cũng phải cả trăm ngàn đồng denarii. Ta đã biết đây là đâu: một tòa biệt phủ, một trong những dinh cơ nghỉ dưỡng rải rác dọc vịnh Napoli trong những ngày đầu đế chế. Thường thì những nơi như vậy phải sáng rực đèn đuốc cả đêm để phô trương tiền tài quyền lực, thế nhưng những ngọn đuốc ngoài sân này đều đã bị bọc vải đen.
Lẫn trong bóng một cây cột cao, chàng trai trẻ dáng người thanh mảnh đang đứng nhìn ra mặt biển. Không thấy được vẻ mặt y, song dáng điệu cũng đã toát lên sự sốt ruột. Y giật giật chiếc áo chùng trắng, khoanh tay trước ngực, nhịp nhịp bàn chân mang giày xăng đan xuống sàn.
Một người nữa xuất hiện, rảo bước vào sân trong tiếng giáp phục lanh canh cùng hơi thở nặng nề của một đấu sĩ. Chiếc mũ đội trưởng cấm vệ quân che khuất gương mặt.
Hắn quỳ xuống trước chàng trai trẻ. “Việc đã xong, thưa điện hạ.”
Điện hạ. Princeps trong tiếng La Tinh, có nghĩa là người đứng đầu hoặc đệ nhất công dân, một uyển ngữ đáng yêu mà các hoàng đế La Mã dùng để xoa dịu bớt thứ quyền lực tuyệt đối trong tay mình.
“Lần này có đảm bảo không đấy?” Kẻ kia cất giọng trong trẻo cao cao. “Ta không muốn có thêm bất ngờ nào nữa đâu.”
Tay đội trưởng hục hặc. “Thần xin đảm bảo, thưa điện hạ.”
Hắn chìa hai cánh tay cơ bắp rậm lông ra. Trên cẳng tay, những vết trầy xước ứa máu ánh lên dưới trăng, nhìn như dấu móng tay cào cấu trong cơn tuyệt vọng.
“Ngươi đã dùng gì?” Chàng trai trẻ thích thú hỏi.
“Gối của chính lão,” gã đàn ông to con đáp. “Dễ nhất ạ.”
Chàng trai trẻ cười phá lên. “Đáng kiếp con lợn già. Ta đã chờ lão chết suốt mấy năm nay, rồi đến khi có thể thông cáo thiên hạ rằng lão đã xuống lỗ, lão lại có gan tỉnh dậy lần nữa? Lần này thì khỏi nhé. Ngày mai sẽ là một ngày mới tươi sáng hơn cho Rome.”
Y bước ra dưới trăng, lộ rõ gương mặt. Cái gương mặt ta cứ mong sẽ không bao giờ thấy lại.
Y đẹp trai một cách góc cạnh, có điều đôi tai vểnh có hơi quá to. Nụ cười đầy quỷ quyệt. Đôi mắt ấm áp ngang ngửa mắt cá nhồng.
Độc giả thân mến, cho dù các ngươi không nhận ra kẻ này thì ta vẫn đảm bảo các ngươi đã gặp y rồi. Y chính là cái gã đại ca ưa bắt nạt ở trường nhưng lại quá giỏi giả nai nên không ai tố được; cái kẻ nghĩ ra những trò chơi khăm quái ác nhất, cho đàn em thi hành để duy trì hình tượng hoàn hảo trước mặt thầy cô. Y là cái kẻ bứt chân côn trùng, hành hạ chó mèo hoang, thế nhưng vẫn nở nụ cười hồn nhiên tới mức ai cũng nghĩ đó chỉ là trò vô hại. Y là kẻ trộm tiền trong thùng từ thiện ngay sau lưng mấy bà bác vừa khen con nhà ai mà ngoan hiền quá.
Y chính là kiểu người đó, kiểu ác quỷ đó đấy.
Và qua đêm nay, y sẽ có một danh hiệu mới, một cái danh không hề dự báo ngày mai tươi sáng cho Rome.
Tên thủ lĩnh cấm vệ quân kính cẩn cúi đầu. “Bệ hạ vạn tuế!”
Giấc mơ kết thúc, ta tỉnh dậy, run rẩy cả người.
“Vừa kịp lúc,” Grover nói.
Ta ngồi dậy. Đầu giật tưng tưng. Miệng có vị như tro cú ma.
Chỗ ta nằm là một cái chòi dựng tạm, tấm vải nhựa xanh cột vào sườn đồi làm mái che, nhìn xuống sa mạc xa xa. Mặt trời đã lặn. Meg nằm co người say ngủ cạnh bên, bàn tay đặt lên cổ tay ta. Một cử chỉ ngọt ngào, có điều ta biết rõ mấy ngón tay kia đã từng ở đâu. (Gợi ý này: lỗ mũi.)
Trên một phiến đá gần đó, Grover ngồi nhấp từng ngụm nước trong bi đông. Dựa vào dáng điệu bơ phờ của cậu, có thể đoán cậu đã phải thức canh cho bọn ta suốt thời gian qua.
“Ta ngất xỉu à?” Ta cất tiếng.
Cậu ném cái bi đông sang. “Tôi cứ tưởng mình thuộc loại ngủ say lắm rồi chứ. Ngài thăng một phát mấy tiếng luôn.”
Ta đưa bi đông lên uống, đoạn dụi mắt, ước gì có thể xua đi giấc mơ dễ dàng như vậy: người thiếu nữ xiềng xích trong căn phòng rực lửa, cái bẫy dành cho Apollo, vị hoàng đế mới đăng cơ nở nụ cười hân hoan của một kẻ tâm thần biến thái.
Đừng nghĩ nữa, ta tự nhủ. Mơ chưa chắc là thật đâu.
Phải rồi, ta tự trả lời. Chỉ có mấy giấc mơ xấu thôi. Như cái vừa rồi á.
Ta nhìn xuống Meg đang ngáy khò khò dưới bóng râm của tấm bạt. Chân cô bé đã được băng lại sạch sẽ. Một cái áo thun lành lặn mặc ngoài chiếc váy rách bươm. Ta cố gỡ tay mình ra, nhưng cô bé càng giữ chặt cứng hơn.
“Em ấy không sao đâu,” Grover trấn an ta. “Ít nhất là ở phương diện cơ thể. Vừa đặt được ngài xuống là lăn ra ngủ luôn.” Cậu cau mày. “Có điều cô bé không thích ở đây lắm. Bảo là không chịu được nơi này. Đòi đi. Suýt nữa là cô bé nhảy ngược vào Mê Cung trở lại rồi đấy, nhưng tôi ráng khuyên cô bé nghỉ ngơi chút. Tôi đã chơi vài bản nhạc để cô bé thư giãn.”
Ta quét mắt ra xung quanh một lượt, tự hỏi điều gì đã khiến Meg khó chịu đến vậy.
Trải dài trước mặt bọn ta là một vùng đất chắc chỉ thân thiện hơn Sao Hỏa được một tí. Dãy núi khô cằn vàng úa bao bọc lấy vùng thung lũng chắp vá những sân gôn xanh mướt dị thường, những đầm lầy cằn cỗi, khu dân cư lộn xộn với tường trắng ngói đỏ và bể bơi xanh. Chạy dọc theo mấy con đường là những hàng cọ èo uột trông như vết khâu phẫu thuật xấu xí. Bãi đậu xe trải nhựa ánh lên dưới cái nóng. Một quầng mây mù nâu xỉn phủ trùm lên thung lũng, nhìn như vệt nước sốt thịt khổng lồ.
“Palm Springs,” ta nói.
Ta rất thân thuộc thành phố này hồi những năm 1950. Hình như ta từng tổ chức một bữa tiệc với Frank Sinatra ngay cuối con đường kia, gần cái sân gôn đó thì phải. Cảm giác cứ như đã một kiếp khác rồi vậy. Mà có lẽ là vậy thật.
Giờ thì nơi này chẳng còn cái vẻ hiếu khách đó nữa. Trời nóng hừng hực khác hẳn nhiệt độ bình thường của một buổi chiều đầu xuân, không khí nặng nề oi bức. Có gì đó không đúng ở đây, có gì đó ta không chỉ ra được.
Ta nhìn lại khu vực lân cận. Cả bọn hạ trại trên một đỉnh đồi, khu sinh thái San Jacinto nằm ở sau lưng về phía tây, còn vùng phố thị Palm Springs thì kéo từ chân đồi trước mặt ra phía đông. Một con đường trải sỏi chạy men theo sườn đồi, dẫn tới khu dân cư gần nhất cách chừng nửa dặm. Tuy nhiên ta vẫn thấy được trên đỉnh đồi này từng tọa lạc một công trình rất lớn.
Vươn lên giữa sườn đồi lổn ngổn đá là chừng năm, sáu cái ống trụ bằng gạch rỗng ruột, đường kính mỗi cái gần mười mét, nhìn như tàn tích sót lại của một nhà máy đường. Mấy cái trụ đó cái cao cái thấp, cái hư nặng cái hư nhẹ, nhưng tất cả đỉnh trụ đều ngang bằng nhau, vậy nên ta đoán đây là những cái cột chống khổng lồ của một căn nhà sàn. Nhìn vào những mảnh vụn rải rác khắp đồi, nào gạch ngói nào kính gỗ nám đen…xem chừng căn nhà này đã cháy rụi từ nhiều năm trước.
Rồi ta nhận ra một điều: cả bọn nhất định đã thoát khỏi Mê Cung bằng cách leo ra từ một trong mấy cái trụ đó.
Ta quay sang Grover. “Bọn cú ma?”
Cậu lắc đầu. “Mấy con sống sót không dám bay ra nắng đâu, cho dù có vượt qua được mớ dâu tây đi nữa. Cái thảm cây mọc kín cả giếng rồi.” Cậu chỉ ra cái trụ gạch tít đằng xa, hẳn là lối thoát thân vừa rồi của cả bọn. “Không ai ra vào chỗ đó được nữa đâu.”
“Nhưng mà…” Ta phất tay ra khu vực hoang tàn xung quanh. “Cậu có chắc đây là căn cứ không đó?”
Ta thầm mong cậu sẽ nói. Ồ không đâu, căn cứ của chúng ta là ngôi nhà xinh xắn dưới kia kìa. Cái căn có hồ bơi chuẩn Olympic nằm kế lỗ mười lăm á!
Thế nhưng Grover lại dám cả gan bày ra bộ mặt hài lòng, “Đúng vậy. Năng lượng tự nhiên ở đây rất mạnh. Một thánh địa tuyệt vời. Ngài cảm nhận được nguồn sinh lực không?”
Ta nhặt một cục gạch cháy đen lên. “Sinh lực á?”
“Ngài sẽ thấy thôi.” Grover gỡ cái mũ xuống, gãi gãi chỏm tóc giữa hai cái sừng. “Nơi này từ lâu đã thế, tất cả tiên cây đều ngủ cho đến khi mặt trời lặn. Đó là cách duy nhất để họ sinh tồn. Nhưng cũng sắp tới giờ họ dậy rồi.”
Nơi này từ lâu đã thế.
Ta đưa mắt về phía tây. Mặt trời đã khuất núi. Những áng mây dày nửa đỏ nửa đen dát khắp nền trời, nhìn giống cảnh tượng ở Mordor1 hơn là Nam California.
1 Một vùng đất trong tiểu thuyết Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn của nhà văn J. R. R. Tolkien. Đây là một vùng đất cằn cỗi, bao trùm bởi lửa, tro bụi và khí độc, là lãnh địa của Chúa tể bóng tối Sauron. (ND)
“Ở đây đã xảy ra chuyện gì vậy?” Ta hỏi, không chắc có muốn nghe câu trả lời.
Grover buồn bã nhìn ra xa. “Ngài không xem tin tức sao? Những trận cháy rừng lớn nhất lịch sử bang. Rồi cộng thêm hạn hán, đợt nóng kéo dài, động đất.” Cậu rùng mình. “Hàng ngàn tiên cây đã chết. Hàng ngàn tiên buộc phải thu mình vào giấc ngủ. Nếu đây chỉ là thảm họa thiên nhiên bình thường thì đã kinh khủng lắm rồi, nhưng…”
Meg bỗng la lên một tiếng. Cô bật dậy, chớp mắt mơ màng. Nhìn vào vẻ hoảng loạn trong mắt cô bé, xem ra cô vừa có một giấc mơ còn tệ hơn cả ta.
“Chúng… chúng ta thật sự đã tới đây sao?” Cô hỏi. “Tôi không có mơ à?”
“Không sao đâu,” ta nói. “Em an toàn rồi.”
Cô lắc đầu, môi run run nói. “Không. Không, không an toàn đâu.”
Cô lóng ngóng đưa tay tháo cặp kính xuống, như thể khung cảnh xung quanh nhòe nhoẹt đi thì sẽ dễ ứng phó hơn. “Tôi không thể ở đây lần nữa đâu.”
“Lần nữa?” Ta hỏi lại.
Một dòng thơ trong lời tiên tri Indiana bật lên trong đầu ta: Demeter, con gái thần tìm ra quê cũ. “Em muốn nói em từng sống ở đây sao?”
Meg quét mắt qua khung cảnh hoang tàn. Cô khổ sở so vai, có vẻ muốn nói Tôi không biếthay Tôi không muốn nhắc tới thì ta chẳng rõ.
Cái sa mạc này chẳng có vẻ gì là quê nhà của Meg, một cô bé bụi đời đến từ Manhattan, được nuôi dạy trong triều đình của Nero.
Grover trầm ngâm gãi râu. “Một người con của Demeter… Có lí lắm chứ.”
Ta nhìn cậu chòng chọc. “Ở một nơi như thế này á? Con của Vulcan thì còn hợp lẽ. Hoặc Feronia, nữ thần hoang dã. Hoặc thậm chí là Mefitis, nữ thần khí độc. Nhưng Demeter sao? Con cái Demeter trồng được cái gì ở đây chứ? Đá à?”
Grover lộ vẻ tổn thương. “Ngài không hiểu gì hết. Một khi gặp được mọi người rồi…”
Meg bò ra khỏi tấm bạt, loạng choạng đứng lên. “Tôi phải đi đây.”
“Khoan đã!” Grover nài nỉ. “Bọn này cần em giúp. Ít nhất hãy nói chuyện với những người khác cái đã!”
Meg do dự hỏi lại. “Người khác?”
Grover phất tay về phía bắc. Ta không thấy cậu chỉ gì nên phải đứng lên. Đến lúc này ta mới phát hiện lấp ló dưới mớ gạch đá đổ nát là một hàng sáu khối kiến trúc hình hộp màu trắng trông như… nhà kho? Không phải. Nhà kính. Căn nằm gần đống tàn tích nhất đã cháy rụi từ lâu, hẳn cũng là nạn nhân của ngọn lửa. Đến căn thứ hai thì phần mái và vách nhựa polycarbonate đã rã nát như những quân bài vương vãi. Nhưng bốn căn còn lại vẫn nguyên vẹn. Chậu đất sét chất đống bên ngoài. Cửa vào mở rộng. Bên trong, cây cối mọc sát vào bức tường trong suốt, lá cọ trông như bàn tay khổng lồ muốn vươn ra ngoài.
Ta không hiểu thứ gì có thể sống nổi ở vùng đất khô cằn thiêu đốt này, chưa kể là bên trong một nhà kính vốn dùng để đẩy nhiệt độ lên hơn. Ta chắc chắn lại càng không muốn tới gần mấy cái hộp nóng nực kín mít bít bùng đó.
Grover mỉm cười khích lệ. “Giờ này chắc mọi người đã dậy rồi. Đi nào, để tôi giới thiệu hai người với cả hội.”