Xương rồng sơ cứu
Chữa trị cho ta!
(Nhưng đừng xài nhớt)
GROVER DẪN BỌN TA vào căn nhà kính nguyên vẹn đầu tiên, bên trong tỏa mùi như hơi thở Persephone.
Không phải khen đâu nhé. Nàng Công Nương Mùa Xuân ấy thường ngồi kế ta trong mấy bữa ăn gia đình, vô tư ban phát hơi thở hôi rình trong miệng. Tưởng tượng mùi của một cái thùng chứa chất mùn ẩm trộn phân giun đất đi nhé. Phải, yêu mùa xuân lắm cơ.
Cây cối đã xâm chiếm toàn bộ khu vực bên trong nhà kính. Đáng sợ lắm chứ, bởi hầu hết những cây này là xương rồng. Án ngữ gần cửa vào là một cây xương rồng gối quỷ, kích cỡ ngang ngửa thùng rượu với những chiếc gai vàng dài bằng que xiên thịt nướng. Sát góc nhà là một cây Joshua oai vệ, cành cây xù xì vươn cao tới tận nóc. Ở bức tường đối diện, một cây xương rồng lê gai khổng lồ trổ hoa rực rỡ, hàng chục phiến lá điểm xuyết thứ quả tim tím trông rất hấp dẫn, có điều mớ quả này còn lắm gai hơn cây chùy yêu thích của Ares. Những chiếc bàn kim loại oằn mình dưới sức nặng của đủ loại xương rồng: lê mộc, sao gai, Cholla và hàng chục cây nữa ta không biết tên. Vây quanh bởi cả đống hoa cỏ gai góc trong cái nóng hầm hập thế này, ta bỗng hồi tưởng lại buổi biểu diễn của Iggy Pop trong lễ hội âm nhạc Coachella năm 2003.
“Tôi về rồi đây!” Grover kêu lên. “Tôi dẫn bạn theo nữa này!”
Im lặng.
Mặt trời đã lặn, nhưng nhiệt độ trong này vẫn nóng đến kinh hoàng, không khí oi bức tới độ ta quá nửa sẽ ngất vì sốc nhiệt trong bốn phút nữa. Mà ý là ta từng là thần mặt trời đấy nhé.
Cuối cùng, một tiên cây cũng xuất hiện. Một quả bóng đầy gai phình lên bên hông cây lê gai rồi vỡ tung thành làn sương xanh lục. Những hạt sương tụ lại thành một cô gái nhỏ có nước da lục bảo, mái tóc vàng lỉa chỉa, chiếc váy dài viền gai xương rồng. Ánh mắt cô sắc nhọn chẳng kém chiếc váy trên người. May thay ánh mắt đó hướng vào Grover chứ không phải ta.
“Anh đã đi đâu vậy hả?” Cô hỏi.
“À.” Grover hắng giọng. “Tôi bị triệu hồi. Chút nữa sẽ kể lại hết cho. Nhưng mà này, tôi dẫn Apollo tới này! Và Meg nữa, con gái nữ thần Demeter đó!”
Cậu vung tay chỉ vào Meg như khoe phần thưởng lớn nhất trong chương trình Hãy chọn giá đúng.
“Hừm,” nàng tiên cây nói. “Con gái nữ thần Demeter thì tốt thôi. Tôi là Lê Gai. Gọi Lê thôi cho gọn.”
“Chào,” Meg yếu ớt nói.
Nàng tiên cây nheo mắt nhìn sang ta. Với cái váy tua tủa thế kia, ta thật mong cô không phải dạng tiên ưa ôm ấp. “Còn đây là Apollo trong thần Apollo ấy á?” Cô hỏi. “Thật không tin được.”
“Có những ngày ta cũng không tin nổi,” ta thừa nhận.
Grover nhìn khắp phòng. “Những người còn lại đâu rồi?”
Vừa dứt lời, một quả bóng gai nữa póc ra từ một cây xương rồng. Nàng tiên cây thứ hai xuất hiện - một thiếu nữ cao lớn trong chiếc váy muumuu2 tựa như vỏ cây atisô. Tóc cô là những chiếc lá tam giác xanh thẫm rậm rạp như rừng. Mặt và hai tay bóng nhẫy như thoa dầu. (Hy vọng là dầu thật chứ không phải mồ hôi.)
2 Loại váy suôn rộng nhiều màu, thường mặc ở Hawaii (ND).
Vừa thấy tình trạng thê thảm của bọn ta, cô liền kêu lên. “Ôi chao! Mọi người bị thương sao?”
Lê trợn mắt. “Tém lại chút đi chị Hội.”
“Nhưng bọn họ hình như bị thương thật mà!” Hội lướt tới trước. Cô nắm lấy tay ta. Bàn tay lạnh ngắt, nhớt nhợt. “Chí ít hãy để tôi chữa mấy vết thương này. Grover, sao cậu không chữa cho họ?”
“Tôi cố rồi!” Cậu thần rừng cãi lại. “Chỉ là họ bị thương khắp người!”
Nghe như khẩu hiệu đời ta ấy: Ngài ấy bị thương khắp người.
Hội vuốt ngón tay qua mấy vết cắt trên tay ta, để lại vệt nhầy như dịch ốc sên. Cảm giác không dễ chịu gì, nhưng cơn đau đúng là giảm hẳn.
“Cô là Lô Hội,” ta vỡ lẽ. “Ta từng dùng cô làm thuốc mỡ trị thương.”
Cô cười thật tươi. “Ngài ấy nhớ tôi! Apollo nhớ tôi kìa!”
Ở cuối phòng, tiên cây thứ ba hiện ra từ thân cây Joshua. Một tiên nam, hiếm à nha. Nước da cậu nâu như thân cây, mái tóc xanh ô liu dài rối bù, quần áo bằng vải kaki bạc màu. Nhìn như một nhà thám hiểm ở trên rừng mới xuống vậy.
“Tôi là Joshua,” cậu nói. “Chào mừng đến Aeithales.”
Ngay đúng lúc đó, Meg McCaffrey quyết định lăn đùng ra xỉu.
Chắc ta phải nói với cô bé là ngất xỉu trước mặt một anh chàng đẹp trai không hay tí nào đâu. Ta áp dụng chiến thuật đó mấy ngàn năm rồi mà không một lần có tác dụng. Nhưng vì là bạn tốt với nhau, ta vẫn đưa tay đỡ trước khi cô đập mặt xuống lớp sỏi.
“Ôi, cô bé đáng thương!” Lô Hội lại ném cho Grover cái nhìn trách móc. “Cô bé bị kiệt sức và sốc nhiệt. Cậu không để cô bé nghỉ ngơi à?”
“Em ấy ngủ cả chiều rồi ấy chứ!”
“Chậc, thiếu nước rồi.” Lô Hội đặt tay lên trán Meg. “Cô bé cần nước.”
Lê khịt mũi. “Có ai ở đây không như vậy.”
“Đưa cô bé xuống Thủy Thất đi,” Lô Hội nói. “Mellie chắc cũng dậy rồi. Chút nữa tôi xuống ngay.”
Grover ngẩng đầu lên. “Cô Mellie cũng ở đây sao? Họ tới được rồi à?”
“Cả nhà mới tới hồi sáng nay,” Joshua đáp.
“Thế mấy đội tìm kiếm thì sao?” Grover hỏi tới. “Có tin gì không?”
Các tiên cây khó xử nhìn nhau.
“Tin không tốt lắm,” Joshua bảo. “Tới giờ chỉ có một đội trở về, còn…”
“Xin lỗi nhé,” ta vội cắt ngang. “Ta không biết các người đang nói cái gì, nhưng Meg nặng lắm đấy. Ta đặt cô bé ở đâu đây?”
Grover quay sang. “À vâng. Xin lỗi, để tôi dẫn đường.” Cậu quàng tay trái Meg qua vai mình, đỡ lấy nửa phần trọng lượng. Đoạn cậu nhìn lại các tiên cây. “Mọi người hãy xuống Thủy Thất ăn tối nhé? Có nhiều chuyện cần bàn lắm đấy.”
Joshua gật đầu. “Để tôi báo với mấy nhà kính kia. Mà Grover này, anh đã hứa là đem enchiladas3 về. Từ ba ngày trước.”
3 Món ăn phổ biến khắp Mexico và Tây Mỹ, là một tortilla ngô cuộn xung quanh và bao phủ bằng nước sốt ớt. Enchiladas có thể được làm đầy với một loạt các thành phần, bao gồm các loại thịt khác nhau, pho mát, đậu, khoai tây, rau hoặc kết hợp. (ND)
“Tôi biết.” Grover thở dài. “Để tôi mua thêm.”
Hai người bọn ta cùng nhau dìu Meg ra khỏi căn nhà kính.
Trên đường đỡ cô qua sườn đồi, ta không nhịn được hỏi ra cái điều cứ canh cánh trong lòng. “Tiên cây ăn enchiladas sao?”
Cậu làm mặt bị xúc phạm. “Tất nhiên rồi! Ngài tưởng họ chỉ ăn phân bón à?”
“Ờ thì… phải.”
“Thiển cận,” cậu lầm bầm.
Và đó là dấu hiệu cho ta đổi đề tài.
“Có phải là ta tưởng tượng không hay Meg ngất xỉu vì nghe thấy tên nơi này nhỉ? Aeithales. Nhớ không nhầm thì nghĩa là thường xanh trong tiếng Hy Lạp cổ.”
Một cái tên lạ lùng để đặt cho một nơi nằm giữa sa mạc. Nhưng cũng chẳng thể lạ bằng mấy tiên cây ăn enchiladas.
“Bọn tôi thấy cái tên khắc trên một khung cửa cũ,” Grover nói. “Bọn tôi không biết nhiều về khu tàn tích này, nhưng tôi nói rồi đó, ở đây có một nguồn năng lượng tự nhiên rất lớn. Cái người đã sống ở đây và xây dựng mấy nhà kính này…người đó hiểu chuyện lắm đấy.”
Ước gì ta cũng được vậy. “Không phải mấy tiên cây đó sinh ra trong nhà kính à? Họ không biết ai đã trồng mình sao?”
“Hầu hết đều còn rất nhỏ lúc ngôi nhà gặp hỏa hoạn,” Grover nói. “Mấy cây già thì biết nhiều hơn, nhưng họ chìm vào giấc ngủ hết rồi. Hoặc…” cậu hất đầu về phía hai căn nhà kính đổ sập, “… không còn ở với chúng tôi nữa.”
Bọn ta lặng đi một lúc để tưởng niệm những cây xương rồng đã khuất.
Grover dẫn cả bọn tới cái trụ gạch lớn nhất. Dựa vào kích cỡ cũng như vị trí trung tâm, ta đoán cái trụ này là cây cột chính cho công trình. Ở ngang mặt đất, những ô cửa hình chữ nhật bọc vòng quanh thân trụ như cửa sổ lâu đài thời trung cổ. Bọn ta dìu Meg qua một cửa, bước vào khoảng không giống hệt cái giếng có bọn cú ma.
Miệng giếng mở ra bầu trời cao. Con dốc xoắn ốc dẫn xuống lòng đất, nhưng may là từ đây xuống đáy chỉ tầm có sáu mét. Nằm chính giữa mặt sàn bụi bặm là một hồ nước xanh thẫm, nhìn như cái lỗ rỗng của bánh vòng. Không khí nhờ đó mà dịu mát đi, cảm giác cũng thoải mái thân thiện hơn. Bày xung quanh hồ là một mớ túi ngủ. Xương rồng nở hoa khắp các hốc tường.
Thủy Thất chẳng phải một nơi sang trọng gì. Không như sảnh ăn ở Trại Con Lai, không như Ga Xép ở Indiana, nhưng ngay lập tức đã cho ta cảm giác khỏe khoắn an toàn. Ta bỗng hiểu ra điều Grover nói nãy giờ. Nơi này quả thật lan tỏa một luồng năng lượng vô cùng dễ chịu.
Bọn ta đưa Meg xuống tới đáy giếng mà không trượt chân vấp ngã lần nào, kể như là thành công rất lớn. Đặt cô xuống một cái túi ngủ, đoạn Grover quét mắt quanh phòng.
“Mellie?” Cậu cất tiếng gọi. “Gleeson? Cô chú có ở đây không?”
Cái tên Gleeson nghe quen quen, nhưng như thường lệ, ta chẳng nhớ ra nổi.
Không có quả bóng diệp lục nào póc ra từ mấy cái cây. Meg trở người nằm nghiêng, lẩm bẩm gì đó nghe như Peaches. Thế rồi bên mép hồ, một làn khói trắng bắt đầu tụ tập lại. Làn khói cô đặc thành hình một người phụ nữ nhỏ nhắn trong chiếc váy bạc. Mái tóc đen dài nổi bồng bềnh như ngâm trong nước, để lộ đôi tai thon nhọn. Vai bà đeo một cái địu, bên trong là một đứa bé chừng bảy tháng tuổi đang say ngủ. Nó có đôi chân móng guốc và cặp sừng dê bé tí trên đầu. Gò má bầu bĩnh dựa vào vùng xương quai xanh của mẹ. Miệng chảy nước dãi ròng ròng.
Nữ thần mây (rõ ràng là thế) mỉm cười với Grover. Đôi mắt nâu đỏ ngầu vì thiếu ngủ. Bà đưa ngón tay lên môi, ý nói đừng đánh thức đứa bé. Có thể hiểu. Mấy bé thần rừng ở tuổi này to mồm kinh khủng, và khi đã ngứa răng thì có thể nhai nát cả chục vỏ lon một ngày.
Grover hạ giọng bảo, “Cô Mellie, cô tới được rồi!”
“Grover cưng ơi.” Bà nhìn xuống Meg đang nằm ngủ dưới sàn, đoạn nghiêng đầu sang ta. “Cậu là… cậu là ngài ấy sao?”
“Nếu bà muốn nói Apollo,” ta bảo, “thì e là đúng vậy đấy.”
Mellie mím môi. “Tôi nghe được mấy lời đồn nhưng vẫn không tin. Tội nghiệp ngài. Ngài không sao cả chứ?”
Trong quá khứ ta sẽ cười khẩy vào mặt bất kì nữ thần sông suối nào dám tội nghiệp ta. Và tất nhiên cũng chẳng có mấy nàng quan tâm ta kiểu đó. Thường thì họ chỉ lo cắm đầu chạy trốn ta thôi. Giờ đây sự quan tâm của Mellie khiến cổ họng ta nghẹn lên đắng ngắt. Ta thật muốn gục đầu xuống vai bà mà khóc cho thỏa lòng.
“Ta… ta ổn,” ta gượng nói. “Cám ơn.”
“Còn cô bé đang ngủ này thì sao?” Bà hỏi.
“Kiệt sức thôi, chắc vậy.” Ta không nghĩ đó là tất cả vấn đề với Meg. “Lô Hội nói sẽ xuống ngay để chăm sóc cô bé.”
Mellie lộ vẻ lo lắng. “Được rồi. Tôi đảm bảo sẽ không để Hội chữa quá tay.”
“Quá tay?”
Grover ho hắng. “Chú Gleeson đâu rồi ạ?”
Mellie đưa mắt quanh phòng như giờ mới nhận ra cái người tên Gleeson không có mặt. “Cô không biết. Vừa tới nơi là cô ngủ ngay. Ông ấy nói muốn xuống phố mua một ít dụng cụ cắm trại. Mấy giờ rồi vậy?”
“Tối rồi,” Grover đáp.
“Vậy lẽ ra ông ấy phải về rồi chứ.” Cơ thể Mellie run lên vì lo lắng, trở nên mờ ảo tới mức ta sợ đứa bé sẽ rơi xuyên qua người bà luôn.
“Gleeson là chồng bà à?” Ta đoán. “Một thần rừng?”
“Phải, Gleeson Hedge,” Mellie đáp.
Giờ thì ta mang máng nhớ được rồi. Vị thần rừng đã đồng hành cùng các người hùng á thần trên con tàu Argo II. “Bà có biết ông ta đi đâu không?”
“Lúc lái xe tới đây chúng tôi có chạy ngang một cửa hàng quân dụng ngay dưới chân đồi. Ông ấy thích mấy chỗ bán vũ khí lắm.” Mellie quay sang Grover. “Chắc là ông ấy ham vui quên về rồi, nhưng mà… cháu có thể đi kiểm tra giùm cô để đảm bảo an toàn không?”
Vào lúc ấy ta nhận ra Grover Underwood đã kiệt sức đến mức nào. Mắt cậu đỏ còn hơn Mellie. Hai vai trĩu xuống. Cây sáo quạt tòn ten trước ngực không chút sức sống. Không như Meg và ta, từ tối qua tới giờ cậu không hề chợp mắt. Cậu đã sử dụng tiếng hét của Pan, đưa cả bọn tới nơi an toàn, ngồi canh gác cả ngày cho hai chủ tớ bọn ta và chờ các tiên cây thức dậy. Giờ thì cậu lại bị nhờ đi kiếm Gleeson Hedge.
Tuy nhiên cậu vẫn gượng mỉm cười. “Được thôi ạ.”
Mellie hôn phớt lên má cậu. “Cháu là vị Chúa Tể Tự Nhiên tuyệt vời nhất đấy!”
Grover đỏ mặt. “Cô trông chừng Meg McCaffrey tới khi tụi này về nhé? Đi nào Apollo. Đi mua sắm thôi.”