Lửa từng đợt bùng lên khắp chốn
Sóc đi hoang gặm đứt thần kinh
Sa mạc đấy, yêu không cơ chứ!
SỐNG Ở ĐỜI ĐÃ HƠN BỐN NGÀN NĂM, thế mà ta vẫn còn học được rất nhiều bài học đắt giá. Ví dụ này: đừng bao giờ đi mua sắm với thần rừng.
Tìm cái cửa hàng đó còn gian nan hơn đi thỉnh kinh, bởi Grover cứ liên tục phân tâm làm chuyện khác. Cậu dừng lại trò chuyện với một cây ngọc giá. Cậu chỉ đường cho một gia đình sóc đất. Cậu đánh hơi được mùi khói, liền kéo ta chạy vòng vòng khắp sa mạc tới khi tìm thấy một mẩu thuốc lá cháy dở vứt dưới đường.
“Hỏa hoạn bắt đầu như thế đó,” cậu nói, đầy tinh thần trách nhiệm xử lý mẩu thuốc bằng cách cho nó vào mồm.
Ta chẳng nhìn ra bất cứ thứ gì trong một dặm quanh đây có thể bắt lửa. Khá chắc đá và cát không có dễ cháy vậy, nhưng ta tự biết không nên tranh cãi với những kẻ ăn thuốc lá. Cả hai lại tiếp tục hành trình đi tìm cái cửa hàng quân dụng.
Màn đêm buông xuống. Chân trời phương tây sáng rực lên, không phải ánh đèn đô thị người phàm mà là ánh lửa đỏ bừng bừng như hỏa ngục. Khói mù che khuất cả trăng sao. Nhiệt độ chẳng giảm được bao nhiêu. Không khí vẫn nồng mùi đắng ngắt và có cái gì rất khó tả.
Ta nhớ lại ngọn lửa suýt thiêu cả bọn ra tro trong Mê Cung. Luồng nhiệt ấy như mang tính người-tàn độc hận thù. Ta có thể hình dung được những làn sóng nhiệt cuồn cuộn chảy dưới bề mặt sa mạc, len lỏi khắp Mê Cung, biến vùng đất vốn đã khô cằn phía trên thành một hoang địa không ai sống nổi.
Rồi ta nghĩ đến nàng thiếu nữ trong mộng, bị xiềng xích vào bệ đá cạnh hồ dung nham. Trí nhớ hết sức tồi tàn, song ta vẫn đoan chắc đó là Nữ Tiên Tri Vùng Erythrae, nguồn Sấm Truyền tiếp theo cần được giải phóng khỏi tay đám hoàng đế. Linh tính mách bảo ta rằng nàng đang bị giam cầm ngay tại trung tâm cái… thứ tạo ra ngọn lửa ngầm này. Cái ý nghĩ đi tìm nàng ta thật không hấp dẫn chút nào.
“Grover này,” ta nói, “hồi nãy trong nhà kính cậu có nhắc đến đội tìm kiếm gì đó nhỉ?”
Cậu đưa mắt sang, nhăn mặt nuốt khan như mắc nghẹn mẩu thuốc lá. “Những thần rừng và tiên cây năng nổ nhất… họ tỏa ra khắp các hướng suốt mấy tháng nay.” Cậu dõi mắt suốt con đường. “Nhân lực của bọn tôi rất ít. Mấy vụ cháy, rồi đợt nóng…chỉ còn tinh linh xương rồng là có thể hiện thân. Cho tới hiện tại chỉ có vài người sống sót trở về. Số còn lại… bọn tôi không rõ nữa.”
“Bọn họ tìm kiếm cái gì?” Ta hỏi. “Nguồn gốc ngọn lửa? Tên hoàng đế? Sấm Truyền?”
Móng guốc của Grover tuột khỏi giày, trượt xuống mặt đường. “Tất cả đều liên quan tới nhau. Nhất định là vậy. Tới khi ngài kể tôi mới biết vụ Sấm Truyền, nhưng nếu tên hoàng đế đang nắm giữ nó thì nhất định sẽ giấu nó trong mê cung. Và mê cung là ngọn nguồn của mấy đám cháy này.”
“Cậu nói mê cung,” ta bảo, “tức là cái Mê Cung ấy á?”
“Đại loại vậy.” Môi dưới Grover khẽ run. “Hệ thống đường hầm bên dưới Nam California… chúng tôi cho rằng nó là một phần của Mê Cung, nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra với nó. Kiểu như cái phần Mê Cung này đã bị…nhiễm bệnh. Bị sốt ấy. Lửa tụ tập lại, càng lúc càng mạnh hơn. Đôi khi nó dồn ứ quá mức rồi phọt… Kìa!”
Cậu chỉ về phía nam. Cách ngọn đồi gần đó chừng một phần tư dặm, một cột lửa vàng bắn thẳng lên trời như đầu ngọn đèn hàn. Rồi nó tan biến, để lại đất đá chảy nhũn xung quanh. Ta tự hỏi mình sẽ thế nào nếu vô tình đứng ngay chỗ đó.
“Không bình thường chút nào,” ta nói.
Cổ chân ta bỗng run run như thể mình mới là người đi chân giả.
Grover gật đầu. “Bọn tôi đã có đủ chuyện ở California rồi: hạn hán, biến đổi khí hậu, ô nhiễm, mấy thứ tai họa thông thường. Nhưng ngọn lửa này…” Cậu đanh mặt. “Nó là một loại phép thuật không ai hiểu được. Gần cả năm nay tôi ở lại đây, cố tìm cho ra nguồn lửa để mà dập tắt. Bạn bè tôi đã bỏ mạng rất nhiều.”
Giọng cậu run run chực khóc. Ta hiểu cảm giác mất đi bạn bè. Suốt mấy mươi thế kỉ ta đã phải tiễn đưa biết bao phàm nhân thân thiết, nhưng vào lúc này, trí óc ta lập tức hiện lên hình ảnh điểu sư Heloise. Con điểu sư ấy đã chết ở Ga Xép trong lúc bảo vệ tổ, bảo vệ bọn ta trước cuộc tấn công của hoàng đế Commodus. Ta vẫn còn nhớ cái xác nhẹ hẫng của nó, những chiếc lông tan rã vào ruộng bạc hà mèo trong khu vườn của Emmie…
Grover quỳ xuống, chạm tay vào một nhúm cỏ dại. Những chiếc lá liền rã nát.
“Quá muộn rồi,” cậu lẩm bẩm. “Hồi còn tìm kiếm thần Pan, ít nhất tôi cũng có hy vọng. Hy vọng sẽ tìm ra thần Pan và thần sẽ cứu tất cả chúng ta. Nhưng giờ…vị thần Thiên Nhiên đã chết.”
Ta quét mắt ra Palm Springs lấp lánh ánh đèn, thử hình dung Pan sẽ như thế nào giữa khung cảnh này. Con người đã gây ra quá nhiều tác hại với môi trường. Chẳng trách Pan lại dần dần tan biến. Những gì còn lại của linh hồn ông đã được truyền cho các môn đồ - các thần rừng và tiên cây - giao phó cho họ trách nhiệm bảo vệ thiên nhiên.
Ta rất muốn nói với Pan rằng đó là một ý tưởng dở tệ. Có lần ta đi nghỉ dưỡng dài hạn và giao phó địa hạt âm nhạc cho Nelson Riddle. Vài thập kỉ sau quay lại, ta phát hiện nhạc pop đã bị tiêm nhiễm nào vĩ cầm eo éo, nào ca sĩ hát bè, còn Lawrence Welk thì chơi đàn xếp ngay trong giờ vàng trên sóng truyền hình.Cạch.Đến.Già.
“Pan sẽ tự hào trước nỗ lực của cậu,” ta bảo Grover.
Đến cả ta cũng thấy mấy lời đó đầy miễn cưỡng.
Grover đứng dậy. “Cha và chú tôi đã phải bỏ mạng để tìm kiếm thần Pan. Tôi chỉ ước tất cả chúng ta cùng chung sức thực hiện di nguyện của ngài ấy. Con người vốn chẳng thèm quan tâm. Á thần cũng vậy. Thậm chí cả…”
Cậu nín bặt, nhưng ta ngờ là cậu muốn nói Thậm chí cả thần linh.
Phải thừa nhận cậu nói không sai.
Thần linh sẽ chẳng hơi đâu thương xót cái chết của một con điểu sư, vài tiên cây hay một hệ sinh thái. Òm, bọn ta sẽ nghĩ. Chẳng liên quan gì tới ta!
Càng làm người lâu chừng nào, ta càng dễ bị ảnh hưởng bởi sự mất mát, dẫu là nhỏ nhất.
Ta ghét làm người.
Cả hai men theo con đường chạy dọc bức tường rào bảo vệ khu dân cư, xa xa kia là mấy cửa hàng treo bảng đèn neon sáng rực. Ta cẩn thận nhìn xuống nơi mình đặt chân, mỗi bước đều tự hỏi liệu có cột lửa nào phun lên biến ta thành Lester nướng.
“Cậu nói tất cả đều liên quan tới nhau,” ta nhắc lại. “Cậu cho rằng tên hoàng đế thứ ba đã tạo ra cái mê cung lửa này sao?”
Grover dáo dác nhìn quanh như sợ tên hoàng đế thứ ba sẽ nhảy ra từ sau cây cọ nào đó, đeo mặt nạ quỷ và vung vẩy rìu. Xét tới danh tính cái kẻ ta đang nghi ngờ, khả năng đó cũng không phải là thấp đâu.
“Ừ,” cậu đáp, “nhưng chúng tôi không biết tại sao hay bằng cách nào. Chúng tôi thậm chí còn không biết căn cứ của tên hoàng đế ở đâu. Theo như chúng tôi thấy thì hắn di chuyển liên tục.”
“Thế…” ta nuốt khan. “Danh tính của tên hoàng đế thì sao?”
“Bọn tôi chỉ biết hắn sử dụng biểu tượng hai chữ NH lồng vào nhau,” Grover nói. “Neos Helios.”
Xương sống ta rợn lên như bị sóc đất cào cho một đường. “Tiếng Hy Lạp. Mặt Trời Mới.”
“Đúng vậy,” Grover nói. “Không phải tên của một hoàng đế La Mã.”
Phải. Nhưng vẫn là một trong những biệt danh y thích nhất.
Ta quyết định không chia sẻ thông tin đó khi đang đi giữa bóng đêm với một cậu thần rừng yếu bóng vía. Nếu nói ra những gì mình biết, ta và Grover sẽ suy sụp tới mức ôm nhau khóc tại trận mất, mà thế thì vừa xấu hổ vừa không ích gì.
Cả hai băng qua cổng vào khu dân cư: CỌ SA MẠC. (Người ta trả công để đặt cái tên đó thật sao?) Bọn ta rẽ vào con phố thương mại gần nhất, chạy dọc hai bên là các quầy thức ăn nhanh và trạm xăng sáng đèn.
“Tôi cứ hy vọng vợ chồng Gleeson có tin gì mới,” Grover nói. “Thời gian qua họ sống ở LA với vài á thần. Tôi cứ nghĩ họ sẽ dò ra tung tích tên hoàng đế hay tìm được trung tâm mê cung.”
“Có phải tại vậy mà nhà Hedge tới Palm Springs không?” Ta hỏi. “Để đưa tin?”
“Một phần.” Giọng điệu Grover cho biết có một lí do u ám hơn cho sự có mặt của vợ chồng Gleeson, nhưng ta không hỏi tới.
Bọn ta dừng lại trước một giao lộ lớn. Bên kia đại lộ là một nhà kho treo biển neon đỏ: TRẠI LÍNH ĐIÊN NHÀ MARCO! Bãi đậu xe trống trơn, chỉ độc một chiếc Pinto vàng cũ xì đậu gần lối vào.
Ta nhìn lại bảng hiệu lần nữa. Cái tên trên đó không phải là MARCO. MACRO mới đúng. Chắc ở gần đám á thần lâu quá nên ta bị lây chứng khó đọc luôn rồi.
Trại Lính Điên nghe như cái nơi ta tuyệt đối không muốn đặt chân vào. Còn Macro, với nghĩa là vĩ mô hoặc chương trình vi tính hoặc… gì ấy nhỉ? Sao cái tên này lại làm sống lưng ta rợn lên như có cả một đàn sóc đất bò loạn như thế?
“Hình như đóng cửa rồi,” ta thấp giọng. “Chắc không phải cửa hàng này đâu.”
“Không đâu.” Grover chỉ chiếc Pinto. “Đó là xe của Gleeson.”
Tất nhiên là vậy rồi. Với cái số đỏ cỡ ta thì sao lại không chứ?
Ta muốn bỏ chạy. Ta không thích cách tấm bảng hiệu to đùng kia rọi xuống nền đường cái màu như máu đổ. Nhưng Grover Underwood đã dẫn bọn ta qua Mê Cung, và sau khi nghe cậu chia sẻ nỗi buồn mất đi bè bạn, ta sẽ không để cậu mất thêm một người nữa.
“Chậc,” ta nói, “đã thế thì vào tìm Gleeson Hedge thôi nào.”