C
ho đến tận cuối đời, Harvey cũng không bao giờ quên được cảnh tượng ấy. Mặt trời sáng rõ ở đường chân trời, cảnh tượng họ đã không được chứng kiến suốt một tuần nay, và ánh sáng đỏ sậm ấy len vào giữa những cánh buồm chính của ba đoàn thuyền đang neo đậu - một ở hướng bắc, một ở hướng tây, và một ở hướng nam. Phải có đến hàng trăm chiếc thuyền, đủ mọi kích cỡ và hình dáng, ở đằng xa là một thuyền buồm xương cá của người Pháp, tất cả đang cúi mình chào những thuyền còn lại. Từ mỗi chiếc thuyền, những chiếc xuồng ba lá túa ra như ong rời tổ, tiếng người nói xôn xao, tiếng dây thừng kêu ràn rạt, và tiếng mái chèo khua bì bõm trong nước kéo dài đến hàng dặm trên mặt biển dập dềnh sóng. Các cánh buồm khoác lên mình đủ mọi màu sắc: đen, xám ngọc trai, và trắng khi mặt trời mọc; ở phía nam có thêm nhiều thuyền nữa xuất hiện sau màn sương sớm.
Các xuồng tập hợp thành từng nhóm, tách ra, rồi lại tụ lại, và lại chia nhỏ ra, tất cả đều hướng về một phía; trong khi những người đàn ông chào nhau và huýt sáo, khích đểu nhau và hát, còn mặt nước thì nổi đầy những mẩu rác họ ném xuống.
“Đây là một thị trấn.” Harvey nói. “Disko nói đúng. Đây đích thị là một thị trấn!”
“Ta từng thấy một thị trấn nhỏ hơn.” Disko nói. “Có khoảng một nghìn người ở đây, và đằng kia là vùng Virgin.” Ông chỉ về vùng biển màu xanh lá ở phía xa, nơi không có bóng một chiếc xuồng nào.
Thuyền Có chúng tôi đây! đi vòng quanh đội thuyền ở phía bắc, Disko liên tục vẫy tay chào những người bạn, và sán lại gần nhau như một chiếc thuyền đua vào cuối mùa. Đoàn thuyền thân ái chào nhau một cách lặng lẽ, nhưng có một gã vụng về đã bị cười nhạo hết thuyền này sang thuyền khác.
“Vừa kịp lúc săn cá trứng đấy!” Thuyền Mary Chilton chào đón.
“Đã ướt gần hết muối chưa?” Thuyền King Philip hỏi.
“Này, Tom Platt! Tối nay đến ăn nhé?” Thuyền Henry Clay nói. Rồi họ hỏi đáp qua lại một hồi. Họ đã từng gặp nhau trước đây, khi chèo xuồng bắt cá trong sương, và không có nơi đâu mà những lời buôn chuyện lại lan nhanh như ở giữa các đoàn thuyền vùng Bank. Có vẻ họ đều đã biết chuyện Harvey được cứu, và hỏi xem liệu cậu có đáng công họ bỏ ra để cứu cậu không. Những đứa trẻ thì tán gẫu với Dan, kẻ có cái miệng hoạt náo không kém, và cậu gọi những đứa trẻ khác bằng biệt danh về quê hương của chúng mà chúng ít thích nhất. Những đồng hương của Manuel vồ vập chào anh ta bằng thứ ngôn ngữ của riêng họ; và ngay cả người đầu bếp kiệm lời cũng đu lên trục buồm tam giác và hét lên bằng tiếng Gael với một người bạn da đen không kém gì ông ta. Sau khi họ đã gắn phao cho dây neo - vùng biển quanh Virgin đều có đá ngầm, và nếu không cẩn thận thì sẽ mất neo và giạt đi như chơi - các xuồng tiến về phía trước để gia nhập đoàn tàu neo cách đó một dặm. Các thuyền đánh cá thì trôi nổi ở một khoảng cách an toàn, như vịt mẹ quan sát lũ vịt con, trong khi các xuồng cư xử như những con vịt con nghịch ngợm.
Khi họ đi vào giữa mê cung thuyền này, các thuyền va vào nhau, tai của Harvey ong ong lên khi mọi người nhận xét cách cậu chèo xuồng. Mọi phương ngữ từ vùng Labrador đến Long Island, bằng tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Naples, tiếng nói chung châu Âu, tiếng Pháp, và tiếng Gael, trong những bài hát, những lời hò hét và thề thốt không ngừng rộ lên quanh cậu, và có vẻ cậu chính là đối tượng của tất cả bọn họ. Lần đầu tiên trong đời, cậu cảm thấy ngại ngùng, có lẽ vì cậu đã sống quá lâu trên thuyền Có chúng tôi đây!, khi xung quanh chỉ có những khuôn mặt lạ nhô lên rồi lại hạ xuống trên những chiếc thuyền nhỏ. Một con sóng nhỏ, dài hơn sáu trăm mét tính từ đầu này đến đầu kia, đội cả một đống xuồng đủ màu lên. Chúng lưu lại một giây, như một tấm khăn trùm lên đường chân trời, và những thủy thủ chỉ chỏ rồi kêu la. Chỉ một giây sau, những cái miệng đang mở ra, những bàn tay đang vẫy và những tấm ngực trần đã biến mất, trong khi một con sóng nữa lại mang đến những khuôn mặt hoàn toàn mới, như những con rối bằng giấy trong nhà hát đồ chơi cho trẻ con. Vì thế, Harvey chỉ biết giương mắt nhìn. “Cẩn thận!” Dan nói và chuẩn bị sẵn tấm lưới. “Khi nào tớ bảo thả lưới thì thả nhé. Lũ cá trứng sẽ bơi thành đàn về đây bất cứ lúc nào. Ta sẽ thả lưới ở đâu, Tom Platt?”
Vừa mở đường, tiến lên và thu dây, vừa chào những người bạn cũ và gằn giọng với các đối thủ, Đại tá Tom Platt dẫn đoàn xuồng nhỏ của mình ra ngoài rìa của đám đông, và ngay lập tức, ba hoặc bốn người đàn ông bắt đầu thu neo lên để chạy theo thuyền Có chúng tôi đây!. Nhưng có một tiếng cười ré lên khi một chiếc xuồng phóng ra từ thuyền lớn với tốc độ chóng mặt, người ngồi trên xuồng chèo một cách điên cuồng.
“Bình tĩnh xem nào!” Hai mươi giọng nói cùng rộ lên. “Cứ để nó kéo một lúc là mệt.”
“Có chuyện gì thế?” Harvey hỏi khi thấy chiếc xuồng nhỏ lao nhanh về phía nam. “Anh ta thả neo rồi phải không?”
“Đúng là đã thả neo, nhưng mỏ neo có vẻ không bám chắc.” Dan khúc khích cười. “Cá voi đã kéo nó đi... Thả lưới đi Harve! Chúng đến rồi!”
Mặt nước quanh cậu đen lại, và rồi cả một đàn cá nhỏ màu bạc lấp lánh kéo đến, trong diện tích năm hay sáu mẫu xung quanh họ, cá tuyết nhảy lên như lũ cá hồi trong các con suối tháng Năm. Đằng sau lũ cá tuyết, ba hay bốn con cá voi xám lớn đang phun nước làm mặt biển nổi bọt trắng xóa.
Rồi ai nấy đều hò reo và tìm cách thu neo để chen vào giữa đoàn thuyền, làm rối dây của thuyền bên cạnh và nguyền rủa nhau, rồi vội vàng thả lưới, rít lên mấy câu cảnh báo và khuyên nhủ những người bạn đồng hành, trong khi nước biển cứ kêu phì phì như chai soda mới bật nắp. Cá tuyết, người, và cả cá voi cùng nhào vào những con mồi xấu số. Harvey suýt nữa thì bị đánh bật khỏi thuyền do bị tay cầm của lưới quật vào. Nhưng giữa sự việc lộn xộn ấy, cậu nhận ra, và không bao giờ quên được cặp mắt nhỏ tinh quái, gần giống như mắt của một con voi trong rạp xiếc, của một con cá voi đang bơi ngay sát mặt nước, và theo lời cậu nói, nó đã nháy mắt với cậu. Đã có ba thuyền bị những kẻ săn mồi ở giữa biển này kéo dây neo đi, và bị kéo đi đến cả nửa dặm trước khi chúng thả neo ra.
Rồi đàn cá trứng đi mất, và chỉ năm phút sau, đã không còn tiếng động nào ngoại trừ tiếng té nước của những con chì bị quăng sang một bên, tiếng giãy của những con cá tuyết, và tiếng đập của những cây chùy khi các ngư dân đập cá. Quả là một vụ bắt cá tuyệt vời! Harvey có thể thấy những con cá tuyết lấp lánh bên dưới, bơi chậm rãi theo từng nhóm nhỏ, vừa bơi vừa đớp một cách đều đặn.
Luật của vùng Bank nghiêm cấm gắn nhiều hơn một lưỡi câu trên mỗi dây khi các xuồng đang ở vùng Virgin hay bờ Đông; nhưng các thuyền nằm sát nhau đến độ một chiếc lưỡi câu cũng gây nên chuyện, và Harvey đã cãi nhau nảy lửa với một quý ông râu ria xồm xoàm người Newfoundland ở một bên, và một gã người Bồ Đào Nha đang hú hét ở phía bên kia.
Đống dây neo xuồng rối rắm phía dưới mặt nước còn tệ hơn cả mê cung dây câu phía trên. Người nào cũng thả neo ở vị trí mà anh ta cho là tốt nhất, trôi đi hoặc chèo đi xung quanh điểm cố định đó. Vì lũ cá đã kén mồi hơn, mỗi người đều muốn thu neo và đến một chỗ mới tốt hơn, nhưng ai cũng nhận ra dây của mình đã vướng vào bốn hay năm dây hàng xóm bên cạnh. Việc cắt dây neo của người khác là một tội ác ở vùng Bank, nhưng người ta vẫn làm chuyện đó, ba bốn lần mỗi ngày mà không bị trừng trị. Tom Platt bắt được một gã đến từ Maine đang làm chuyện xấu và quật hắn ngã nhào khỏi mép tàu chỉ với một cú vung chèo, Manuel cũng làm điều tương tự với một gã cùng quê. Nhưng dây neo của Harvey và của Penn vẫn bị cắt, và họ được chuyển sang các xuồng chở cá về cho thuyền Có chúng tôi đây! khi các xuồng nhỏ đã đầy. Lũ cá trứng ùa đến một lần nữa vào rạng sáng, khi những tiếng náo loạn lại vang lên. Và khi mặt trời đã lặn, họ chèo xuồng về để ướp muối nhờ ánh sáng của những ngọn đèn dầu treo cạnh chậu cá.
Đó là một đống cá lớn, và họ ngủ gật trong khi làm cá. Ngày hôm sau, một vài tàu đã đánh cá ngay ở phía rìa vùng biển Virgin; và Harvey, cùng với bọn họ, nhìn xuống thảm tảo dưới chân vách đá cô đơn ấy, chúng mọc cao đến hai mươi bộ trên mặt nước. Lũ cá tuyết bơi thành từng đàn lớn, lặng lẽ diễu qua lớp tảo bẹ cứng như gỗ. Khi chúng đớp mồi, cả lũ cùng đớp, và khi một con ngừng thì cả đàn cũng ngừng theo. Có một quãng nghỉ vào buổi trưa, các xuồng bắt đầu tìm kiếm trò vui. Dan là người nhìn thấy thuyền Hy Vọng của Prague xuất hiện, và khi các xuồng của nó gia nhập vào đám xuồng ở đây, họ đã bị rào đón bởi câu hỏi: “Ai là người xấu tính nhất trong đoàn thuyền?”
Ba trăm giọng nói cùng vui vẻ đáp lại: “Nick Bra-ady.” Nghe như tiếng đàn đại phong cầm.
“Ai đã ăn cắp đống bấc đèn?” Dan hòa giọng.
“Nick Bra-ady.” Các thuyền khác đáp lại.
“Ai đã dùng nhầm muối mật để nêm món súp?” Đây là tiếng của một gã vô danh ưa dèm pha cách đó một phần tư dặm.
Tiếng đồng thanh vui vẻ lại vang lên. Brady không phải là một gã cực kỳ xấu tính, nhưng hắn ta lại bị tiếng xấu như vậy, và nhóm thủy thủ tận dụng nó một cách triệt để. Sau đó, họ phát hiện ra việc một người đàn ông trên một con thuyền Truro sáu năm trước đã bị kết án vì gắn đến năm, sáu lưỡi câu vào dây - một “kẻ vét nồi” như cách họ gọi ở vùng Shoals. Vì lẽ đó, hắn đã được đặt cho cái tên “Jim vét nồi”, và dù hắn đã trốn ở tận Georges kể từ ấy, nhưng những lời chế nhạo vẫn ở nguyên nơi này chờ hắn. Họ đồng thanh hô vang như tiếng pháo hoa nổ: “Jim! Ôi Jim! Jim! Ôi Jim! Jim vét nồi!” Điều ấy khiến ai cũng hài lòng. Và khi một người đàn ông Beverly ưa làm thơ - ông ta đã dành nguyên ngày để sáng tác, và đã kể về nó hàng tuần liền - hát: “Neo của tàu Carrie Pitmankhông giữ nổi một giây”, các xuồng đều cảm thấy họ thật may mắn. Rồi họ phải hỏi người đàn ông Beverly kia vì sao ông ta phải ra khơi, vì ngay cả lũ nhà thơ cũng không thể sống một cuộc đời ưng ý. Mọi thuyền cá và gần như mọi ngư dân đều bị hỏi đến. Nếu có một gã đầu bếp cẩu thả hay dơ dáy quanh đây, các xuồng sẽ hát về anh ta và đồ ăn anh ta làm ra. Nếu có một thuyền cá bị tìm thấy trong tình trạng tồi tệ, đoàn thuyền sẽ kể những câu chuyện dài ngoằng về nó. Nếu có người ăn trộm thuốc lá của đồng nghiệp, tên của anh ta sẽ bị réo gọi trong các buổi họp, bị đẩy từ đầu này sang đầu kia trục cuốn. Những định kiến bảo thủ của Disko, cái thuyền chở hàng của Long Jack mà ông ta đã bán nhiều năm về trước, cô bạn gái của Dan (mà Dan lại còn là một cậu nhóc dễ nổi giận nữa chứ!), vận xui của Penn với lũ neo xuồng, quan điểm của Salters về phân bón, thói mê tín của Manuel khi ở trên bờ, và cách chèo thuyền như con gái của Harvey... tất cả đều bị phơi bày trước công chúng. Và khi màn sương phủ xuống quanh họ thành từng lớp bàng bạc dưới ánh mặt trời, những giọng nói kia nghe như một bồi thẩm đoàn vô hình đang tuyên án.
Các xuồng cá cứ bơi lang thang, thả lưới và gây lộn với nhau cho đến khi thấy một con sóng lớn chạy ngầm trong lòng biển. Rồi họ tách xa nhau ra để khỏi va vào nhau, và ai đó nói rằng nếu con sóng cứ tiếp tục lớn thêm, rặng đá Virgin sẽ vỡ tung. Một gã bất cẩn người Galway cùng cháu trai của mình phủ nhận điều này, thu neo lên và chèo về phía rặng đá. Nhiều giọng nói khích lệ họ đi tiếp, trong khi những kẻ khác thách họ ở lại đó lâu hơn. Khi những kẻ khoe khoang kia đã sang được mạn phía nam, họ đưa chiếc xuồng vào trong màn sương, và thả nó vào một vùng nước xấu xí, mấp mô và cứ hút xuống. Chiếc xuồng xoay tròn quanh cái neo, chỉ cách rặng đá ngầm một hay hai bộ. Đó là một trò đùa giỡn với Tử thần chỉ để thỏa mãn lòng sĩ diện. Và trong khi các xuồng mải quan sát họ với vẻ yên lặng bồn chồn, Long Jack lặng lẽ chèo xuồng ra sau những gã nhà quê kia và cắt dây neo của họ.
“Không nghe thấy tiếng gõ à?” Ông ta dọa. “Chèo xuồng để cứu lấy cái mạng của mình đi! Chèo đi!”
Mấy gã đàn ông chửi thề và cự nự với nhau khi chiếc xuồng trôi ra xa, nhưng con sóng tiếp theo đi chéo một chút, như một người bị trượt chân trên tấm thảm. Có một tiếng thút thít cùng nhiều tiếng gào, rồi vùng Virgin tung lên mấy đợt sóng dữ, trắng xóa bọt, rộng đến cả hai mẫu, bao trùm vùng nước cạn. Rồi tất cả xuồng cùng vỗ tay khen ngợi Long Jack, và hai gã người Galway chỉ còn nước giữ im lặng.
“Thật là đoan trang phải không?” Dan nói và nhảy lên choi choi như một con rái cá. “Nó sẽ nổi sóng chừng nửa giờ một lần, trừ khi có sóng to hẳn. Chu kỳ hoạt động bình thường của nó là như thế nào, bác Tom Platt?”
“Cứ mười lăm phút một lần, chính xác đến từng giây. Harve, cậu đã thấy những điều kỳ thú nhất ở vùng Bank, và nếu không nhờ có Long Jack này thì cậu đã phải thấy cả người chết rồi.”
Rồi có một tiếng kêu vui vẻ vang lên ở vùng sương dày đặc, còn các thuyền thì đang rung chuông. Một mũi thuyền lớn thận trọng ló ra từ trong màn sương, và được đáp lại bởi những tiếng hò reo “Lại đây nào, người đẹp” của những gã người Ireland.
“Lại một gã người Pháp nữa à?” Harvey hỏi.
“Cậu không thấy à? Đó là một thuyền của Baltimore, vừa đi vừa run rẩy.” Dan nói. “Chúng ta sẽ hướng dẫn nó. Chắc đây là lần đầu tiên thuyền trưởng bên ấy gặp đoàn thuyền theo kiểu này.”
Đó là một chiếc thuyền màu đen, mũi tròn, nặng tám trăm tấn. Buồm chính của nó được cuốn vòng lên, buồm trên đỉnh bay phần phật trước cả cơn gió nhỏ. Một chiếc thuyền có nhiều hơn ba cột buồm vốn đã nữ tính hơn mọi đứa con khác của biển cả, và sinh vật cao ráo, rụt rè này, với phần chạm khắc ở mũi thuyền màu trắng và mạ vàng, trông hệt như một người phụ nữ e thẹn khẽ kéo váy lên để đi qua vũng bùn trước lũ thanh niên đang cười cợt. Đó chính là tình cảnh của con thuyền ấy. Nó biết mình đang ở đâu đó gần vùng Virgin, nghe thấy tiếng ồn phát ra quanh đó, và vì thế, nó đã hỏi đường. Đây là một phần nhỏ mà nó nghe được từ những chiếc xuồng đang nhảy nhót xung quanh: “Vùng Virgin à? Anh nói cái gì thế? Đây là Le Have vào một buổi sáng Chủ nhật. Về nhà cho tỉnh rượu đi.”
“Về nhà đi, đồ con rùa! Về nhà và nhắn với họ là chúng tôi sắp về rồi.”
Cả nửa tá giọng nói cùng vang lên, bằng vẻ hào hứng nhất có thể, khi đuôi của con thuyền chúi xuống vùng nước nhiều đá ngầm, làm bắn tung bọt lên. “A! Nó nổi giận rồi!”
“Cứng cỏi lên! Đối chọi với đời! Cậu đang làm chủ nó đấy.”
“Hạ xuống! Mạnh vào! Thả hết ra!”
“Tất cả cùng bơm nước ra nào!”
“Hạ buồm tam giác xuống!”
Tới đó thì gã thuyền trưởng mất bình tĩnh và vặc lại. Ngay lập tức, tất cả ngừng việc bắt cá để trả lời gã, và gã nghe thấy nhiều thông tin hiếu kỳ về con thuyền của mình cũng như điểm dừng tiếp theo của nó. Họ hỏi xem nó đã mua bảo hiểm chưa, và gã đã ăn cắp chiếc mỏ neo kia vào lúc nào, vì họ nói nó thuộc về tàu Carrie Pitman. Họ gọi thuyền của gã là một vũng bùn, và buộc tội gã đổ rác xuống biển khiến lũ cá hoảng sợ. Họ đề nghị được kéo thuyền của gã về và thu tiền của vợ gã. Một thanh niên mạnh bạo trườn đến gần sát mép bàn lái, đập tay lên đó và hét lên: “Tỉnh lại đi, Buck!”
Gã đầu bếp đổ cả một chảo tro lên người anh ta, và bị anh ta ném trả bằng đầu cá. Thủy thủ đoàn của con thuyền ném những viên than nhỏ từ trong bếp ra, và các xuồng khác dọa sẽ lên thuyền, cắt nó làm đôi. Họ đã có thể cảnh báo con thuyền nếu nó đang gặp nguy hiểm thực sự, nhưng khi thấy nó đã thông thuộc vùng Virgin, họ tận dụng triệt để cơ hội này. Niềm vui của họ bị dập tắt khi vách đá lại gào thét, âm thanh theo gió đi xa đến nửa dặm, và con thuyền giương mọi cánh buồm nó có lên và đi mất, nhưng các xuồng nhỏ cảm thấy phần thắng đã thuộc về họ.
Cả đêm đó, vùng biển Virgin gào thét dữ dội. Sáng hôm sau, trên mặt biển giận dữ đầy những con sóng bạc đầu, Harvey nhìn thấy đoàn thuyền với những cột buồm lung lay trong gió đang chờ một kẻ cầm đầu. Không một chiếc xuồng nào ló ra cho đến tận mười giờ, khi hai gã người Jerauld của tàu Con mắt của ngày lầm tưởng cơn gió đã lặng, dám đi tiên phong. Chỉ trong vòng một phút, nửa số xuồng đã lao ra và trôi dập dềnh trong làn gió kiêu căng, nhưng Troop yêu cầu tất cả thủy thủ đoàn của thuyền Có chúng tôi đây! ở lại làm cá. Ông thấy không cần thiết phải mạo hiểm, và khi cơn bão ngày một mạnh hơn, tối đó, họ được tiếp đón nhiều vị khách lạ mừng húm khi tìm được chỗ trú trong cơn bão. Hai đứa bé đứng cạnh đống xuồng, tay cầm đèn, các thủy thủ lớn tuổi sẵn sàng kéo dây, một mắt vẫn canh chừng những con sóng lớn xô đến làm họ đánh rơi mọi thứ để bám lấy cái mạng sống của mình. Từ trong bóng tối, có tiếng hét lên “Xuồng, xuồng!”, và họ sẽ quăng móc ra mà kéo vào một người đàn ông ướt nhẹp cùng nửa con xuồng đã chìm, cho đến khi boong của họ trĩu xuống ngang mặt nước vì kéo theo quá nhiều xuồng, còn các khoang thì đầy những người. Năm lần, trong ca trực của mình, Harvey cùng Dan đã nhảy lên mấu trước của thuyền, dùng cả hai tay, hai chân, thậm chí cả răng để bám vào dây thừng, mái chèo cùng các tấm vải dầu ướt đẫm khi con sóng lớn trùm lên toàn bộ boong. Một chiếc xuồng bị sóng đánh vỡ tan tành, và biển đẩy người đàn ông kia chúi đầu lên boong, khiến đầu anh ta nứt toác. Gần sáng, khi biển lấp lánh những gợn sóng viền trắng, một người đàn ông khác, đã tái xanh và khiếp đảm, trèo lên với một bàn tay đã bị gãy, hỏi thăm tin tức về anh trai của gã. Có thêm bảy cái miệng ăn tất cả vào bữa sáng hôm ấy: một gã người Thụy Điển; một thuyền trưởng người Chatham; một cậu bé đến từ Hancock, Maine; một cậu bé khác từ Duxbury; và ba người Provincetown.
Ngày hôm sau, trong đoàn thuyền diễn ra một màn kiểm người và phân loại; và dù không ai nói câu gì, ai nấy đều cảm thấy ăn ngon miệng hơn khi các xuồng lần lượt báo cáo đã về đầy đủ. Chỉ có hai người Bồ Đào Nha và một ông già người Gloucester bị chết đuối, nhưng rất nhiều người bị thương hoặc bầm dập, hai thuyền cá đã bị đứt lìa dàn pa lăng và bị thổi về phía nam mất ba ngày đường. Một người đã chết trên thuyền của người Pháp, đó chính là con thuyền chở hàng đã đổi thuốc lá cho thuyền Có chúng tôi đây!. Nó lặng lẽ trôi ra xa vào một buổi sáng ẩm ướt, đầy sương trắng, đến một vùng nước sâu hơn, những cánh buồm của nó đều rũ xuống, và Harvey đã quan sát tang lễ ấy qua chiếc ống nhòm của Disko. Họ chỉ thấy một bó nhỏ và thuôn dài trượt trên một tấm ván dẫn xuống nước. Dường như họ không thực hiện nghi thức nào, nhưng vào ban đêm, khi đã thả neo, Harvey nghe thấy tiếng họ vọng sang từ phía bên kia mặt nước đen tuyền như nhung. Họ hát một khúc nhạc gì đó nghe như một bài Thánh Ca, rất chậm rãi.
Thuyền buồm hai cột xoay mình, trôi dập dềnh, ngả nghiêng như xe lửa. Ôi, Đức Mẹ Maria, con cầu nguyện với Đức Chúa Trời! Tạm biệt, Tổ quốc, Quebec, xin tạm biệt!
Tom Platt đã sang thăm họ, vì như ông ta nói, người đã chết chính là một người anh em của ông trong Hội Tam Điểm. Thì ra một con sóng đã quật kẻ xấu số vào chân rầm néo buồm và làm gãy lưng anh ta. Tin tức ấy truyền đi nhanh như chớp, vì, trái với lệ thường, những thủy thủ người Pháp đã tổ chức một cuộc đấu giá đồ nghề của người đã quá cố - anh ta không có bạn bè nào ở St. Malo hay Miquelon - và các món đồ được bày ra phía trên buồng lái, từ cái mũ len đỏ đến cái thắt lưng da có gắn một con dao có bao đựng ở phía sau. Dan và Harvey chèo ra đến vùng nước sâu hai mươi sải trên xuồng Hattie S., và cứ thế hòa vào đám đông. Chúng chèo đi khá xa, và ở lại khá lâu để Dan mua con dao, tay cầm bằng đồng của nó trông là lạ. Khi về lại xuồng và chèo đi trong làn mưa phùn và sóng dập dềnh, chúng nhận ra mình đang vướng phải rắc rối vì đã quên đường về.
“Chắc là làm ấm người một chút thì không hại gì đâu.” Dan nói, run lên dưới lớp áo vải dầu, và chúng chèo xuồng vào giữa một vùng sương trắng, như thường lệ, ập đến mà không có dấu hiệu nào báo trước.
“Có quá nhiều đợt thủy triều ở quanh đây, không thể dựa vào bản năng của cậu được đâu.” Cậu ta nói. “Quăng neo xuống đi, Harve, và chúng ta sẽ câu cá một lúc cho đến khi sương tan. Uốn đầu chì nặng nhất ấy. Cá nặng ba pound thì không thiếu trong vùng nước này. Thấy dây neo căng thế nào chưa?
Có ít bọt nổi lên ở mũi xuồng, những dòng chảy vô trách nhiệm của vùng Bank giữ cho dây neo của chiếc xuồng căng lên thẳng đứng, nhưng chúng không hề thấy nguyên một tàu cá nào trong tầm mắt. Harvey dựng cổ áo lên và co người lại quanh cuộn dây câu, thở dài như một hoa tiêu dày dạn sương gió. Sương mù không phải mối đe dọa lớn nhất với cậu lúc này. Chúng câu cá một lúc trong yên lặng, và lũ cá tuyết đớp mồi khá nhiều. Rồi Dan lôi con dao ra và thử lưỡi dao bằng cách cứa vào mạn xuồng.
“Nó đẹp thật!” Harvey nói. “Sao cậu mua được giá hời thế?”
“Vì họ là mấy gã theo Cơ Đốc giáo mê tín.” Dan nói trong khi khua khua lưỡi dao sáng bóng. “Họ không thích lấy món đồ gì bằng sắt của người đã chết, đại loại vậy.
Thấy mấy gã người Pháp vùng Arichat lùi cả lại khi tớ ra giá không?”
“Nhưng bán đấu giá thì đâu phải là cướp đồ của người chết đâu. Công việc làm ăn thôi mà.”
“Chúng ta biết là không phải như vậy, nhưng đã là mê tín thì họ đâu cần biết lý lẽ nữa. Đó cũng là cái lợi khi sống ở một đất nước tiến bộ.”
Và Dan bắt đầu huýt sáo.
Ôi, Double Thatcher, em có khỏe không? Giờ thì Cực Đông đã ở trước mắt. Ta sẽ sớm gặp các cô bé, cậu bé, ở ngoài khơi Cape Ann!
“Sao gã người Eastport kia không ra giá? Ông ta đã mua đôi ủng. Vùng Maine thì có tiến bộ không?”
“Vùng Maine ấy à? Ối dào! Họ không biết nhiều lắm, hoặc là họ không có đủ tiền để sơn nhà của họ ở Maine. Tớ đã nhìn thấy họ. Ông người Eastport kể rằng con dao này đã được dùng - ấy là ông ta nghe thuyền trưởng người Pháp kể lại - được dùng ở trên bờ biển nước Pháp năm ngoái.”
“Để chém người à? Cá lớn quá kìa!” Harvey kéo con cá lên, gắn mồi lại và quăng lưỡi câu xuống.
“Giết nó đi! Dĩ nhiên rồi, khi nghe thấy chuyện ấy, tớ càng quyết tâm mua nó hơn.”
“Chúa ơi! Tớ không biết đấy.” Harvey nói rồi quay người lại. “Tớ sẽ trả cậu một đô la khi nào tớ có lương. Mà không, tớ sẽ đưa cậu hai đô la.”
“Thật không? Cậu thích nó đến thế cơ à?” Dan nói rồi đỏ mặt. “Chà, nói thật là tớ mua nó để tặng cậu, nhưng tớ định bụng không nói gì cho đến khi biết cậu có thích nó không. Nó là của cậu đấy, Harve, đừng ngại, vì chúng ta là bạn cùng xuồng, bây giờ và mãi mãi về sau. Đỡ lấy này!”
Cậu tung cả cái thắt lưng ra.
“Nghe này, Dan, tớ không nghĩ là...”
“Cứ nhận đi. Nó chẳng có ích gì cho tớ. Tớ muốn cậu giữ nó.” Sức hút của món đồ thật khó cưỡng.
“Dan, cậu thật tử tế!” Harvey nói. “Tớ sẽ giữ nó chừng nào còn sống.”
“Nghe hay đấy!” Dan nói và cười một cách hài lòng, nhưng rồi, cậu vội vàng chuyển chủ đề: “Này, hình như dây câu của cậu mắc phải thứ gì đó.”
“Chắc là bị mắc rồi.” Harve nói rồi giật dây. Trước khi kéo dây lên, cậu buộc chặt cái thắt lưng quanh người, và sung sướng khi nghe thấy đầu vỏ bọc con dao va vào mạn xuồng đánh “cách” một cái. “Quan sát nó mà xem!” Cậu thốt lên. “Cứ như là đang ở trên vùng nước toàn dâu tây ấy. Dưới này toàn cát, phải không?”
Dan nhoài sang và giật thử dây để đánh giá. “Lũ cá chim có thể làm thế nếu chúng đỏng đảnh. Không có dâu tây dưới ấy đâu. Giật mạnh một hai lần xem. Chắc chắn nó sẽ phải đầu hàng. Có lẽ chúng ta nên kéo lên cho chắc.” Cả hai cùng kéo, thay nhau chặn đe để giữ dây, và vật nặng bí ẩn kia chậm chạp trồi lên.
“Trúng lớn rồi! Kéo đi!” Dan hô lên, nhưng tiếng hô đã nhanh chóng biến thành tiếng thét ghê sợ, vì từ dưới mặt nước nhô lên cái xác của gã người Pháp được an táng cách đó hai ngày! Lưỡi câu đã móc phải phần bên dưới nách phải của ông ta, rồi ông ta xoay xoay trong nước, thẳng đơ và rúm ró, đầu và vai ở trên mặt nước. Hai tay ông ta bị buộc vào hai bên hông, và khuôn mặt đã biến dạng. Hai cậu bé ngã vào nhau trong lòng xuồng, và nằm đó trong khi cái xác nổi lập lờ bên cạnh, bị treo vào sợi dây đã bị thu ngắn.
“Nước triều, nước triều đã đưa ông ta đến đây!” Harvey run lập cập trong khi lóng ngóng sờ lên cái thắt lưng.
“Ôi Chúa ơi! Ôi, Harve!” Dan rên rỉ. “Lẹ lên. Ông ta đến đòi đồ đấy. Trả cho ông ta đi. Thả nó xuống.”
“Tớ không muốn có nó! Tớ không muốn có nó!” Harvey khóc. “Tớ không tìm thấy cái khóa.”
“Nhanh nào, Harve! Ông ta vướng vào dây của cậu!”
Harvey ngồi dậy để gỡ thắt lưng ra, đối mặt với khuôn mặt đã biến dạng dưới mớ tóc lòa xòa. “Ông ta bị vướng vào dây.” Cậu thì thầm với Dan. Cậu lôi một con dao khác ra và cắt dây, trong khi Harvey quăng cái thắt lưng ra xa. Cái xác rơi tõm xuống, và Dan thận trọng đứng dậy, mặt trắng bệch như cái xác.
“Ông ta đến tìm đồ đấy. Đến tìm con dao. Tớ đã từng thấy người khác kéo lưới lên được một cái xác cũ mèm và tớ không bận tâm lắm, nhưng lần này ông ta đến tìm đích danh chúng ta.”
“Ước gì... ước gì tớ không nhận con dao. Để ông ta không vướng vào dây của cậu.”
“Như vậy thì cũng có khác gì đâu. Chúng ta đều sợ phát khiếp lên được. Ôi, Harve, cậu có thấy đầu ông ta không?”
“Có chứ. Làm sao mà quên được. Nhưng mà nghe này, Dan, chuyện không như ta nghĩ đâu. Chỉ là do nước triều thôi.”
“Triều cái gì! Ông ta đến đòi đồ, Harve. Họ thả ông ta xuống biển cách đoàn thuyền sáu dặm về phía nam, và ta đang ở cách nơi nó buông neo hai dặm. Họ kể là còn buộc vào cái xác thêm sải rưỡi dây xích để kéo nó xuống đáy mà.”
“Không biết ông ta đã làm gì với con dao ở bờ biển nước Pháp?”
“Một điều gì đó rất tệ. Có lẽ ông ta phải mang theo nó để đến nghe Chúa trời phán xử, thế nên... Cậu làm gì với lũ cá thế?”
“Ném chúng xuống biển.” Harvey nói.
“Để làm gì? Làm thế thì sao ăn được nữa.”
“Tớ không cần biết. Tớ đã phải nhìn gương mặt ông ta trong lúc gỡ cái thắt lưng ra. Cậu cứ giữ đống cá của cậu lại nếu muốn. Tớ thì không cần số cá này nữa.”
Dan không nói thêm gì, nhưng cũng ném đống cá xuống biển.
“Có lẽ tốt hơn hết là cứ thận trọng.” Cậu lẩm bẩm. “Tớ sẽ trả cậu một tháng tiền lương nếu đám sương mù này tan ngay lập tức. Ở trong sương thì có những chuyện mà cậu không nhìn rõ như khi trời quang - lũ ma quỷ và đại loại vậy. Cũng may là ông ta xuất hiện theo cách đó thay vì đi bộ trên mặt nước. Ông ta có thể làm vậy lắm chứ.”
“Đừng có nói dại, Dan! Chúng ta đang ở ngay phía trên ông ta đấy. Ước gì tớ đang được an toàn ở trên thuyền, kể cả có bị bác Salters cho ăn đập đi chăng nữa.”
“Chắc là họ sắp đi tìm chúng ta đấy. Đưa tớ cái còi.” Dan cầm cái còi hiệu bằng nhôm lên, nhưng lại ngập ngừng trước khi thổi.
“Thổi đi!” Harvey nói. “Tớ không muốn ở đây cả đêm đâu.”
“Vấn đề là ông ta nghe thấy thì sao? Có một người đàn ông ở mạn bờ biển kể cho tớ rằng, ông ấy từng ở trên một con thuyền mà họ không bao giờ thổi còi để gọi các xuồng khác, vì ông thuyền trưởng, không phải cái người mà ông ta đang đi cùng, mà là một thuyền trưởng khác đã lái con thuyền trước đó năm năm, đã làm một cậu bé chết đuối trong lúc ông ta say. Và kể từ đó, thằng bé đó cứ trôi dọc theo thuyền của ông ta và hét lên “Xuồng ơi, xuồng ơi!” với những người còn lại.”
“Xuồng ơi! Xuồng ơi!” Một giọng nói nghèn nghẹt vọng ra từ màn sương. Cả hai lại co rúm vào, cái còi rơi ra khỏi tay của Dan.
“Bình tĩnh nào!” Harvey nói. “Là ông đầu bếp mà.” “Không hiểu sao tớ lại nghĩ đến câu chuyện ngớ ngẩn kia nữa.” Dan nói. “Đúng là bác sĩ rồi.”
“Dan! Danny! Ôi, Dan! Harve! Harvey! Ôi, Haarveee!”
“Chúng cháu ở đây.” Cả hai cậu bé đồng thanh hô. Chúng nghe thấy tiếng mái chèo, nhưng lại không nhìn thấy gì cho đến khi ông đầu bếp, mắt sáng lấp lánh và người nhỏ nước tong tỏng, chèo đến gần chúng.
“Có chuyện gì thế?” Ông ta hỏi. “Về đến nơi thì hai cậu ăn đòn.”
“Đó là thứ chúng cháu muốn. Chúng cháu thà như thế còn hơn.” Dan nói. “Về đến thuyền là tốt rồi. Ở đây chúng cháu gặp một anh bạn không lấy gì làm vui vẻ.” Khi ông đầu bếp đưa dây cho hai đứa, Dan kể chuyện cho ông ta.
“Phải rồi! Anh ta đến tìm con dao.” Đó là tất cả những gì ông ta nói vào lúc cuối.
Chưa bao giờ mà thuyền Có chúng tôi đây! trôi dập dềnh trên nước trông lại thân thương đến thế khi mà ông đầu bếp vượt màn sương chèo thuyền đưa hai đứa trở về. Một thứ ánh sáng ấm áp tỏa ra từ cabin, mùi đồ ăn thơm ngon ở phía trước, và thật tuyệt vời khi được nghe giọng Disko và những người khác, còn sống và khỏe mạnh, nhướn ra ngoài lan can và thề sẽ cho hai đứa ăn no đòn. Nhưng ông đầu bếp là một người da màu bậc thầy về chiến thuật. Ông ta không cho xuồng lên thuyền cho đến khi đã kể cho những người khác nghe những phần giật gân nhất của câu chuyện, nhảy tới nhảy lui sau bàn lái để giải thích Harvey - linh vật của thuyền - đã tiêu hủy các vận xui định kéo đến ra sao. Vì thế, hai đứa bé lên thuyền với tư thế của những anh hùng có một không hai, và ai ai cũng hỏi han chúng thay vì nện cho chúng một trận vì tội gây rắc rối. Penn bé nhỏ đã thuyết giảng cho chúng một bài về tính mê tín, nhưng ý kiến chung lại phản đối anh ta và đứng về phía Long Jack, người kể ra những câu chuyện ma quỷ kinh hoàng nhất cho đến tận gần nửa đêm. Theo đó, không ai trừ Salters và Penn còn phàn nàn gì về “việc thờ cúng” nữa, khi người đầu bếp mang ra một cây nến, làm một chiếc bánh từ bột mì và nước, vẩy một nhúm muối lên tấm ván, và thả chúng xuống nước ở đuôi tàu để bịt miệng gã người Pháp, phòng khi hắn vẫn cảm thấy chưa thể yên nghỉ. Dan thắp nến vì cậu đã mua cái thắt lưng, và ông đầu bếp gầm gừ, rì rầm mấy lời khấn gì đó cho đến khi thấy ngọn nến chìm hẳn.
Harvey nói với Dan, khi cả hai về khoang đi ngủ sau ca trực: “Vậy cậu nói thế nào về sự tiến bộ và thói mê tín của Công giáo đây?”
“Hừ! Tớ đoán là tớ cũng tiến bộ và hiểu biết như những người xung quanh thôi, nhưng khi một gã người St. Malo đã chết mò lên xuồng để dọa hai thằng bé tội nghiệp chỉ vì một con dao đáng giá ba mươi xu thì tớ ủng hộ ông đầu bếp hoàn toàn. Tớ không tin lũ người ngoại quốc, dù còn sống hay đã chết.”
Sáng hôm sau, trừ người đầu bếp, ai nấy đều cảm thấy xấu hổ về cái nghi thức kia, và làm việc hăng hái từ sáng đến khuya, hiếm khi mở miệng nói chuyện với nhau.
Thuyền Có chúng tôi đây! đang hăng hái thả lưới để lấp đầy một vài thùng cá cuối cùng trong cuộc đua tranh với thuyền Parry Norma. Cuộc đua sát sao đến độ cả đoàn thuyền đã chia phe và đặt cược bằng thuốc lá. Tất cả đều luôn tay buông lưới hoặc ướp cá cho đến khi ngủ gật ngay tại vị trí đứng - họ bắt đầu làm việc trước khi mặt trời mọc và kết thúc khi trời đã tối như hũ nút. Họ còn gọi cả ông đầu bếp vào để ném cá, và đẩy Harvey vào trong khoang để vận chuyển muối, trong khi Dan giúp một tay làm cá. May sao một thủy thủ thuyền Parry Norman bị trật mắt cá chân do ngã xuống mũi tàu, và thuyền Có chúng tôi đây! có thêm lợi thế. Harvey không biết phải nhồi thêm bất kỳ con cá nào khác vào chỗ nào trên thuyền, nhưng Disko và Tom Platt cứ thế kéo lưới lên, và chèn đống thùng xuống bằng những tảng đá lớn vốn dùng để dằn thuyền, và lúc nào cũng nói: “Chỉ cần làm thêm một ngày nữa thôi.” Disko không nói gì với họ khi đống muối đã hết. Ông chui xuống cái ụ nhỏ phía sau cabin và bắt đầu kéo tấm buồm chính lên. Đó là vào lúc mười giờ sáng. Đến trưa thì buồm điều hướng đã được hạ xuống, buồm chính và buồm trên đỉnh được giương lên, và các xuồng chèo đến quanh mạn thuyền, mang theo những lá thư nhờ họ gửi về nhà, và ghen tỵ với vận may của họ. Cuối cùng, họ dọn boong, giương cờ lên - với tư cách là con thuyền đầu tiên rời vùng Bank - thu neo và bắt đầu di chuyển. Disko vờ như đang muốn giúp đỡ những người chưa kịp gửi thư về, nên cho thuyền lượn một cách duyên dáng từ tàu này sang tàu khác. Thật ra, đó là cách ăn mừng chiến thắng nho nhỏ của ông, và năm thứ năm liên tiếp ông đã chứng tỏ được mình là một thủy thủ tài ba ra sao. Tiếng đàn accordion của Dan và vĩ cầm của Tom Platt phụ họa cho những lời ca thần kỳ mà họ chỉ được phép hát khi muối đã ướt hết:
Hey! Yah! Yoho! Gửi thư của các bạn đi! Muối của chúng tôi đã hết, neo đã được kéo lên!
Giương buồm chính lên, chúng tôi sắp về Yankee - với một trăm năm mươi tấn cá, và một trăm năm mươi tấn cá, thêm mười nghìn nữa trên cùng, từ sông Ouareau và vùng Grand.
Những cánh thư cuối cùng được chất lên boong, bọc quanh những miếng than, và những người Gloucester hô vang những lời muốn nhắn gửi về cho vợ, họ hàng và ông chủ của mình, trong khi thuyền Có chúng tôi đây! kết thúc chương trình hòa nhạc vòng quanh đội thuyền, buồm mũi của nó rung rung như bàn tay một người giơ lên để vẫy chào từ biệt.
Harvey sớm phát hiện ra rằng thuyền Có chúng tôi đây!, với phần buồm điều hướng, thả bộ từ vùng cá này đến vùng cá khác, và thuyền Có chúng tôi đây! tiến về phía tây nam dưới ngọn cờ quê hương làm bằng vải dầu, là hai con thuyền rất khác nhau. Bánh lái bị ì và bật lại ngay cả khi trời êm bể lặng, cậu cảm nhận được trọng lượng chết trong khoang chồm về phía trước mỗi lần gặp sóng cao, và lớp bọt phun ra không dứt ở hai bên mạn thuyền khiến cậu hoa cả mắt.
Disko liên tục giao việc vuốt thẳng các lá buồm cho họ, và khi lũ buồm đã phẳng phiu như buồm của một chiếc thuyền đua, Dan phải ngồi chờ trên đỉnh buồm nóc, vì nó cần được buộc cố định bằng tay mỗi lần giương lên. Đôi lúc, họ phải bơm nước ra ngoài, vì lũ cá nhỏ ra nước muối, và thứ ấy không tốt cho khoang hàng. Nhưng vì không phải bắt cá nữa, Harvey có thời gian để quan sát đại dương từ một góc nhìn khác. Loại thuyền mạn thấp là loại có mối liên hệ mật thiết với môi trường xung quanh. Họ vẫn nhìn thấy được một phần đường chân trời trừ khi sóng cao quá, và thường thì con thuyền sẽ trườn, trèo và bò một cách chậm rãi qua những con sóng xanh xám, hoặc những hố nước đen nằm rải rác dưới mặt nước, với những dải bọt trắng theo sau; hoặc là mài thân thuyền một cách bất cẩn dọc theo sườn của một số cột nước lớn hơn. Như thể nó đang nói: “Cậu sẽ không làm đau tôi, phải không? Tôi chỉ là chiếc thuyền nhỏ Có chúng tôi đây! thôi mà.” Rồi nó sẽ chạy đi, thầm cười khúc khích cho tới khi gặp phải một chướng ngại vật mới. Những con người tẻ nhạt sẽ không thể nhìn ra điều ấy sau nhiều giờ, nhiều ngày nếu không để ý đến nó. Và Harvey, vốn không phải là loại người tẻ nhạt chút nào, bắt đầu hiểu được và trân trọng những điệp khúc khô khan của các ngọn sóng lật mình liên tục, cứa vào thuyền; những ngọn gió hối hả thổi qua những khoảng trống và lùa những bóng mây màu xanh và tím; cảnh vầng dương đỏ ối nhô lên lúc bình minh; màn sương sớm thu mình lại và rời đi theo từng cuộn lớn nối tiếp nhau dọc theo những tấm thảm trắng; những buổi trưa oi nồng vị muối và có chút gió hây hây; cái chạm nhẹ của những giọt mưa khi vừa rơi xuống, những vùng biển bằng phẳng, tĩnh lặng như tờ; bóng tối dần bao phủ mọi thứ vào cuối ngày; và hàng triệu nếp gấp của mặt biển dưới ánh trăng, khi trục buồm tam giác nghiêm trang đứng canh những vì sao, và Harvey đi xuống để lấy một cái bánh rán vòng từ chỗ người đầu bếp.
Nhưng trò vui nhất là khi hai cậu bé được cùng đứng sau bánh lái, Tom Platt đứng gần đó, và con thuyền ôm cua xuống sát mặt biển, nước bắn lên tạo thành cầu vồng phía trên trục cuốn. Rồi hàm của những trục đỡ cọ vào các cột buồm, và các tấm gỗ kêu kẽo kẹt, các tấm buồm thì rống lên; và khi con thuyền trượt vào vùng đáy biển trũng xuống, nó nổi giận như một người phụ nữ gạt phăng tấm áo lụa của mình, rồi lại trồi ra khỏi đó, buồm tam giác ướt quá nửa, rên rỉ và tìm kiếm hai cột đèn đôi của đảo Thatcher.
Họ rời vùng biển xám xịt, lạnh lẽo của vùng Bank, thấy những tàu chở gỗ đến Quebec theo đường eo biển St. Lawrence, các thuyền chở muối đến Jersey từ Tây Ban Nha và đảo Sicily. Họ tìm thấy một con thuyền thân thiện khởi hành từ phía đông bắc bờ sông Artimon, đưa họ đến trước ngọn hải đăng Phương Đông của đảo Sable - một cảnh tượng mà Disko không muốn nhớ lâu, đi cùng họ quá Cực Đông và Le Have, đến rìa phía bắc của George’s. Từ đó, họ đi vào vùng nước sâu hơn, và vui vẻ từ biệt con tàu kia.
“Tớ nhớ Hattie da diết.” Dan thú nhận với Harvey. “Hattie và mẹ tớ. Chủ nhật tới, cậu sẽ phải thuê một đứa bé hất nước lên cửa sổ thì mới ngủ ngon được. Chắc là cậu sẽ ở với chúng tớ cho tới khi người nhà cậu đến. Cậu biết điều tuyệt nhất khi được về bờ là gì không?”
“Được tắm nước nóng à?” Harvey hỏi. Lông mày cậu trắng xóa những bọt biển khô.
“Thứ đó cũng tốt, nhưng được mặc đồ ngủ còn tốt hơn. Tớ đã mơ về bộ đồ ngủ từ khi giương buồm chính lên rồi. Khi ấy, cậu có thể ngọ nguậy các ngón chân. Mẹ tớ sẽ mua cho tớ một bộ mới, giặt sạch và mềm mại. Như thế mới là nhà, Harve ạ. Đó mới là nhà! Cậu ngửi được mùi của nó trong không trung. Chúng ta đang đi vào vùng đệm của một đợt khí nóng, và tớ ngửi thấy mùi quả thanh mai. Ta có về kịp bữa tối không nhỉ? Món bánh đựng trong cốc ấy mà.”
Những cánh buồm ngần ngừ quật qua lại và chao đảo trước luồng gió khi mặt biển phẳng hơn, xanh hơn và bóng những vệt dầu quanh họ. Khi chúng huýt sáo gọi gió, chỉ thấy mưa nặng hạt xối xuống, tạo thành bong bóng, vỗ đồm độp lên sàn thuyền, và sau màn mưa là sấm chớp giữa tháng Tám. Họ nằm trên boong, để chân và tay trần, kể cho nhau nghe xem sẽ gọi món gì cho bữa ăn đầu tiên khi về bờ; bởi vì bây giờ đất liền đã ở ngay trước mắt họ. Một thuyền săn cá kiếm của Gloucester trôi dạt tới bên cạnh, một người đàn ông đứng trên sàn rầm néo đang nâng niu cây lao của anh ta, cái đầu trần bị ép nhẹp xuống vì ướt. “Mọi chuyện ổn cả chứ!” Anh ta cất giọng vui vẻ, như thể anh ta là bảo vệ trên một cái tàu lớn. “Wouverman đang chờ anh đấy, Disko. Có tin gì của đoàn thuyền nào?”
Disko hô đáp trả, trong khi cơn bão mùa hè ập đến và chớp lóe lên dọc các mũi đất ở bốn góc cùng một lúc. Nó chiếu sáng vòng cung núi thấp quanh cảng Gloucester, đảo Mười Pound, các lều cá, những dãy mái nhà đứt đoạn và từng mái chèo cùng những cái phao trên nước, nó như thể những ánh sáng chói mắt chớp nháy lúc chụp những bức ảnh liên hoàn khi con thuyền Có chúng tôi đây! bò vào dòng nước lũ, với chiếc phao không ngừng rên rỉ, than khóc sau lưng nó. Rồi cơn bão tan đi thành những vệt khói dài, cách xa nhau, trông như những ngọn lửa màu xanh trắng, theo sau là tiếng rền như tiếng của một cái súng cối, và không khí như run rẩy dưới bầu trời sao sau khi đã lấy lại được sự yên lặng.
“Lá cờ, lá cờ!” Disko đột nhiên nói và chỉ lên phía trên.
“Làm sao thế?” Long Jack hỏi.
“Otto ấy mà! Treo cờ rủ thôi[12]. Họ có thể nhìn thấy ta từ trên bờ rồi.”
[12] . Họ có tập tục treo cờ rủ (cột lại một nửa) để thông báo ai đó đã qua đời.
“Tôi quên béng mất. Cậu ta không có người quen ở Gloucester nhỉ?”
“Có một cô bé mà cậu ta chuẩn bị cưới vào mùa thu này.”
“Đức Mẹ Mary, xin hãy rủ lòng thương cô ấy!” Long Jack nói và hạ lá cờ xuống một chút để tưởng nhớ Otto, người đã bị sóng cuốn khỏi thuyền trong một cơn bão ngoài khơi Le Have ba tháng trước.
Disko lau nước mắt và hướng thuyền Có chúng tôi đây! về bến tàu của Wouverman, thì thầm ra lệnh cho mọi người, trong khi con thuyền xoay tròn kéo neo và những người gác biển đêm chào họ từ các cầu cảng tối đen như mực. Từ trong bóng tối và quãng đường bí ẩn, Harvey có thể cảm nhận được vòng tay của đất liền đang thu lại dần quanh cậu, với hàng nghìn người đang say trong giấc nồng, mùi của đất sau mưa, và tiếng ồn ã quen thuộc của xe chở đồ trên bãi chứa hàng. Tất cả những điều ấy khiến tim cậu đập mạnh và cổ họng cậu khô khốc khi đứng cạnh hốc trong mũi thuyền. Họ nghe thấy tiếng ngáy của người gác neo trên một tàu kéo, thò mặt vào trong bóng tối, nơi mà một chiếc đèn tỏa sáng lờ mờ ở cả hai bên. Ai đó càu nhàu thức dậy, ném cho họ sợi dây, và họ buộc chặt nó vào một cầu tàu mà hai bên là những ván bằng sắt tỏa ra một cảm giác ấm áp trống rỗng, nằm yên đó mà không tạo thêm tiếng động nào.
Rồi Harvey ngồi xuống cạnh bánh lái, khóc nức nở như thể trái tim cậu vừa tan vỡ. Một người phụ nữ cao ráo, người vẫn ngồi chờ nãy giờ trên một cái cân tải trọng lớn, xuống thuyền và hôn lên má Dan. Đó chính là mẹ của cậu, và bà đã nhìn thấy thuyền Có chúng tôi đây! khi những tia chớp lóe lên. Bà không để ý đến Harvey cho tới khi cậu đã bình tĩnh lại và Disko kể cho bà câu chuyện của cậu. Rồi họ cùng nhau về nhà của Disko khi trời vừa rạng sáng. Cho đến khi văn phòng điện tín mở cửa và cậu có thể nhắn tin cho gia đình, có lẽ Harvey Cheyne là cậu bé cô đơn nhất trên toàn nước Mỹ. Nhưng có một điều lạ lùng là Disko và Dan không hề khó chịu khi cậu cứ khóc mãi như vậy.
Wouverman vẫn chưa đồng ý với cái giá mà Disko đưa ra, cho tới khi Disko, dám chắc rằng thuyền Có chúng tôi đây! về trước bất kỳ con thuyền Gloucester nào khác ít nhất một tuần, cho ông ta một vài ngày để cân nhắc và nhận ra điều đó. Vì thế tất cả ở lại chơi vài ngày trong thị trấn, và Long Jack đã chặn chuyến tàu điện Rocky Neck lại, với yêu sách là trưởng tàu phải cho ông ta đi miễn phí. Nhưng Dan thì cứ hếch cái mũi đầy tàn nhang lên trời, ra vẻ bí ẩn và ngạo mạn với gia đình của cậu.
“Dan, ta sẽ phải cho con một trận nếu con cứ cư xử như vậy đấy.” Troop ra chiều suy tư. “Kể từ khi về bờ lần này, con có vẻ ngông nghênh quá đấy.”
“Tôi sẽ cho nó một trận ngay bây giờ nếu nó là con tôi.” Bác Salters chua chát nói. Ông ấy và Penn đi theo gia đình nhà Troop.
“Ô hô!” Dan vừa nói vừa kéo đàn accordion quanh sân sau, sẵn sàng đáp trả nếu kẻ thù tiến tới. “Dan, mi cứ việc nhìn người theo cách của mi, nhưng hãy nhớ rằng ta đã nhắc nhở mi rồi đấy. Chính người thân của mi đã nhắc rồi đấy! Sẽ không phải là lỗi của ta nếu mi nhìn nhầm người đâu, nhưng ta sẽ dõi theo mi cẩn thận. Còn về phần bác, bác Salters, tổng quản của Pharaoh cũng không theo phe bác lần này đâu! Bác cứ chờ mà xem. Bác sẽ phải cúi mình như lũ cỏ ba lá ở bên dưới, nhưng còn cháu, Dan Troop này, sẽ vươn cao như một cái cây nguyệt quế xanh, vì cháu không bị định kiến của cá nhân che mờ mắt.”
Disko đang lấy lại vẻ nghiêm trang khi về bờ, trong khi chân thì đi đôi dép bông trong nhà rất đẹp. “Con đang trở nên điên loạn y như Harvey tội nghiệp đấy. Hai đứa cứ đi khắp nơi, cười đùa và trêu ghẹo nhau, đá chân nhau dưới bàn, làm loạn cả nhà lên.” Ông nói.
“Với một vài người thì... họ đang mất đi một vài thứ đấy.” Dan trả lời. “Bố cứ chờ mà xem.”
Cậu và Harvey đi xe điện nhỏ về hướng đông Gloucester, nơi hai đứa đạp qua mấy bụi cây thanh mai để đến ngọn hải đăng. Hai đứa nằm trên một phiến đá lớn màu đỏ và cười đùa đến khi đói ngấu. Harvey cho Dan xem một bức điện, và cả hai cùng hứa sẽ giữ yên lặng cho đến khi mọi chuyện sáng tỏ.
“Người nhà của Harve à?” Dan nói với vẻ mặt điềm nhiên sau bữa tối. “Chà, con đoán là họ cũng không giàu có gì lắm, nếu không thì ta đã nghe được tin gì đó từ phía họ rồi. Bố của cậu ấy có cửa hàng gì đó ở miền Tây. Có lẽ ông ấy sẽ trả cho bố tận năm đô la đấy.”
“Ta đã nói gì nào?” Salters nói. “Đừng có mà quá ngạo mạn, Dan ạ.”