D
ù đang gặp phải nỗi buồn riêng tư nào, một triệu phú, giống như bao người lao động khác, cũng cần phải tỉnh táo trong công việc. Harvey Cheyne Bố đã đi về miền Đông vào khoảng cuối tháng Sáu để gặp một người phụ nữ gần như mất trí, suy sụp, ngày đêm không ngừng mơ tưởng đến đứa con trai bị chết đuối ngoài biển của mình. Ông cho mời bao nhiêu là bác sĩ, y tá lão luyện, những nhân viên mát xa, và cả những người bạn đầy tinh thần lạc quan đến cho vợ mình, nhưng họ đều bó tay. Bà Cheyne chỉ nằm đó và than khóc, hoặc kể chuyện hàng giờ liền về con trai mình cho bất cứ người nào chịu lắng nghe. Bà đã mất hết hy vọng, và không ai có thể mang điều đó đến cho bà. Tất cả những gì mà bà cần là một lời đảm bảo rằng chết đuối thì không đau đớn tẹo nào, và chồng của bà phải luôn canh chừng bà, phòng trường hợp bà tự mình xuống nước để kiểm chứng điều đó. Bản thân ông lại không mấy khi than thở về chuyện đó, vì chính ông cũng không nhận ra hết mức độ nghiêm trọng của mọi chuyện cho đến khi ông nhận ra mình vừa tự hỏi quyển lịch trên bàn làm việc: “Tiếp tục để làm gì cơ chứ?”
Trong thâm tâm, ông luôn có suy nghĩ rằng, một ngày nào đó, khi đã lo liệu xong mọi mặt của công việc và cậu bé đã học xong đại học, ông sẽ tâm sự một cách chân thành với cậu và đưa cậu đến với gia tài của mình. Rồi thì cậu bé đó, ông tự nhủ - giống như những người cha bận rộn vẫn làm, sẽ ngay lập tức trở thành một người bạn, đồng nghiệp và đồng minh của ông, và họ sẽ cùng nhau làm việc ăn ý suốt nhiều năm liền - cái đầu nhiều kinh nghiệm sẽ ở sau tư vấn cho ngọn lửa non trẻ kia. Giờ thì cậu bé ấy đã chết - mất tích ngoài biển, giống như số phận của một thủy thủ người Thụy Điển trên một trong những con tàu vận chuyển chè của Cheyne; còn vợ ông thì sống dở chết dở, bản thân ông thì bị hàng tá phụ nữ, bác sĩ, hầu gái và người ở vây quanh; lo lắng quá sức chịu đựng trước tâm trạng thất thường của vợ mình; và tuyệt vọng, không còn tâm trạng đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh.
Ông đã đưa vợ mình đến căn biệt thự mới xây của mình ở San Diego, nơi bà và những người chăm sóc cho bà chiếm hết một cánh lớn của căn biệt thự, và Cheyne, trong một căn phòng thông ra hiên nhà, ngồi giữa một viên thư ký và một người đánh máy, đồng thời cũng là một điện tín viên, làm việc trong tâm trạng ủ dột hết ngày này qua ngày khác. Đang có một trận chiến giá cả giữa bốn hãng đường sắt phía tây mà lẽ ra ông rất quan tâm đến; một vụ đình công lùm xùm đã nổ ra ở trại gỗ của ông tại Oregon, và những nhà lập pháp của bang California, những kẻ không có chút tình yêu nào dành cho người đã tạo ra nó, đang chuẩn bị một cuộc chiến chống lại ông.
Thường thì ông sẽ chấp nhận cuộc chiến nếu họ thách đấu, và đã chi tiền cho một chiến dịch thảnh thơi và khá cẩu thả. Nhưng giờ, ông chỉ ngồi đó thừ người ra, cái mũ đen mềm kéo xuống trùm qua mũi, thân hình to lớn của ông co rúm lại trong những bộ quần áo đã trở nên rộng thùng thình, nhìn chăm chăm vào đôi bốt hoặc thuyền của người Hoa ở ngoài vịnh, và trả lời một cách vô hồn trước những câu hỏi của tay thư ký khi ông mở bức thư ngày thứ Bảy.
Cheyne tự hỏi sẽ phải mất bao nhiêu tiền để từ bỏ mọi thứ và rút vốn về. Ông có một khoản bảo hiểm khổng lồ, có thể mua cho mình các khoản niên kim hoàng gia. Và giữa một trong những ngôi nhà của ông ở Colorado và cái xã hội nhỏ (phục vụ cho bà vợ) ở Washington và các đảo phía nam Carolina, một người có thể sẽ quên mất các kế hoạch được vạch ra chẳng để phục vụ mục đích gì. Mặt khác...
Tiếng gõ của người đánh máy ngừng lại, cô gái ấy đang nhìn viên thư ký, mặt trắng bệch.
Anh ta đưa cho Cheyne một bức điện được nhắc lại từ San Francisco:
Được một tàu cá tên là “Có chúng tôi đây!” vớt, đã ngã xuống biển nhiều lần ở vùng Bank trong lúc đánh cá. Mọi việc đều ổn. Đang chờ Gloucester Mass thanh toán tiền cho Disko Troop hoặc lo liệu bằng cách khác và mẹ có khỏe không ạ?
Harvey N. Cheyne.
Người cha đánh rơi tờ giấy, gục đầu xuống bàn và thở một cách nặng nhọc. Viên thư ký chạy đi tìm bác sĩ của bà Cheyne và thấy ông Cheyne cứ đi tới đi lui không ngừng.
“Anh nghĩ sao về chuyện này? Nó có phải thật không? Có ý nghĩa gì không? Tôi không thể hiểu nổi chuyện này.” Ông ta thốt lên.
“Tôi thì hiểu được.” Ông bác sĩ nói. “Tôi đã mất bảy nghìn đồng một năm, vậy thôi.” Ông ta nghĩ đến cái phòng khám ở New York mà ông ta đã phải bỏ rơi để đi theo lời mời có phần cưỡng ép của Cheyne, và trả lại bức điện cùng một tiếng thở dài.
“Ta nên nói cho bà ấy chứ? Có thể là một trò lừa?”
“Động cơ là gì mới được?” Vị bác sĩ tỉnh bơ trả lời. “Nó đã tìm đúng đến ta. Chắc chắn đó là thằng bé.”
Một cô hầu gái người Pháp đi vào với vẻ bất cẩn, giống như những gã người hầu chỉ ở lại làm việc vì tiếc khoản tiền công kếch xù.
“Bà Cheyne nói ông cần đến gặp bà ngay. Bà ấy nghĩ ông đang bị ốm.”
Ông chủ của gia tài ba mươi triệu đô la lẳng lặng cúi đầu và đi theo Suzanne. Một giọng nói mỏng và cao vút ở chiếu nghỉ trên của cái cầu thang làm bằng gỗ sơn trắng vang lên: “Có chuyện gì thế? Đã có chuyện gì?”
Không cánh cửa nào ngăn được tiếng thét chói tai vang vọng khắp ngôi nhà một giây sau đó, khi người chồng buột miệng kể lại tin vừa rồi.
“Và mọi chuyện vẫn ổn.” Vị bác sĩ bình thản nói với người đánh máy. “Phát ngôn tiểu thuyết duy nhất có phần đúng đắn về mặt y học, đó là niềm vui thì không thể gây chết người, cô Kinzey ạ.”
“Tôi biết, nhưng chúng ta có hàng tá việc cần làm trước tiên.” Cô Kinzey đến từ Milwaukee, giọng cô hơi nặng; và vì quay sang chờ ý kiến của viên thư ký, cô đã biết sắp tới có nhiều việc cần phải lo liệu. Anh ta đang nhìn chăm chú vào tấm bản đồ nước Mỹ trên tường.
“Milsom, chúng ta sẽ đến thẳng đó. Đi bằng xe riêng đến thẳng Boston. Sửa đường dây đi.” Cheyne hét vọng xuống lầu.
“Tôi đã nghĩ như vậy.”
Viên thư ký quay sang người đánh máy, ánh mắt họ gặp nhau (và một câu chuyện khác đã sinh ra từ đó, nhưng không liên quan gì đến câu chuyện này). Cô ra vẻ thắc mắc, nghi ngờ sự hoạt bát của anh ta. Anh ta đề nghị cô ngồi vào máy điện tín, giống như một đại tướng chỉ huy các lữ đoàn ra trận. Rồi anh ta lùa bàn tay vào mái tóc với vẻ rất nghệ thuật, nhìn lên trần nhà, và bắt đầu phân công công việc, trong khi các ngón tay trắng ngà của cô Kinzey gửi điện đi toàn châu Mỹ.
“K. H. Wade, Los Angeles. Xe Constance đang ở Los Angeles, phải không, cô Kinzey?”
“Vâng.” Cô Kinzey gật đầu trong lúc vẫn đang đánh máy, và viên thư ký nhìn đồng hồ.
“Sẵn sàng chưa? Hãy điều xe Constance, xe riêng, đến đây, và sắp xếp để nó rời chỗ này vào Chủ nhật và kịp lên chuyến New York Limited ở phố 16, Chicago, thứ Ba tuần sau.”
Tiếng gõ vang lên không ngừng. “Không nhanh hơn được sao?”
“Với tình trạng này thì không. Họ có sáu mươi tiếng để đi từ đây đến Chicago. Họ sẽ không thu được gì từ việc bắt chuyến tàu đặc biệt ở phía đông. Sẵn sàng chưa? Cũng sắp xếp với Lake Shore và Michigan Southern để đưa xe Constance trên tàu New York Central và Hudson River Buffalo đến Albany, và B. và A. tương tự từ Albany đến Boston. Đảm bảo là tôi sẽ đến được Boston vào tối thứ Tư. Hãy đảm bảo là không có trở ngại nào. Cũng đã gọi cho Canniff, Toucey, và Barnes. Ký tên, Cheyne.” Cô Kinzey gật đầu và viên thư ký tiếp tục.
“Giờ thì... Canniff, Toucey, và Barnes, tất nhiên rồi. Sẵn sàng chưa? Canniff, Chicago. Hãy đón xe Constance của tôi từ Santa Fe, phố 16, chiều thứ Ba tuần sau, trên tàu N. Y. Limited đến Buffalo, và chuyển N. Y. C. cho Albany. Cô đã đến New York bao giờ chưa, cô Kinzey? Một ngày nào đó chúng ta sẽ đi. Sẵn sàng chưa? Đưa Buffalo đến Albany trên tàu Limited, chiều thứ Ba. Đó là việc dành cho Toucey.”
“Tôi chưa từng đến New York, nhưng tôi biết nơi đó!” Cô nghiêng đầu sang một bên.
“Sao cơ? Giờ thì, Boston và Albany, Barnes, chỉ thị giống hệt như vậy từ Albany đến tận Boston. Khởi hành lúc 3 giờ 45 phút chiều (cô không cần gõ cái đó); đến 9 giờ 45 phút tối thứ Tư. Đó là tất cả những gì Wade sẽ làm, nhưng nó cũng sẽ đánh thức các viên quản lý.”
“Tuyệt lắm!” Cô Kinzey nói với vẻ ngưỡng mộ. Đây chính là mẫu đàn ông mà cô hiểu được và trân trọng.
“Cũng không tệ.” Milsom nói một cách khiêm tốn. “Giờ thì, bất kỳ ai ngoài tôi cũng sẽ mất ba mươi giờ, và phải làm việc khi đi trên đường, thay vì gửi ông ấy lên chuyến tàu Santa Fe đến thẳng Chicago.”
“Nhưng nhìn xem, chuyến tàu New York Limited đó. Chauncey Depew cũng không dám cho xe của ông ta lên tàu.” Cô Kinzey gợi ý và ngồi thẳng người dậy.
“Phải, nhưng đây không phải là Chauncey. Đó là Cheyne, ông ấy đi nhanh như chớp.”
“Ngay cả vậy đi chăng nữa. Có lẽ ta nên nhắn lại cho cậu bé. Anh đã quên mất chuyện đó.”
“Tôi sẽ hỏi lại.”
Khi anh ta trở lại cùng lời nhắn của người cha, yêu cầu Harvey gặp họ ở Boston vào một giờ nhất định, anh ta thấy cô Kinzey đang cười bên bàn phím. Rồi Milsom cũng phá ra cười khi đọc được những dòng hài hước đến từ Los Angeles: “Chúng tôi muốn biết tại sao, tại sao, tại sao? Ai nấy đều đang cảm thấy hoang mang.”
Mười phút sau, đầu Chicago trả lời cô Kinzey như sau: “Nếu có tội ác thế kỷ nào đang hình thành, hãy cảnh báo bạn bè kịp thời. Chúng tôi đều đang tìm nơi trú ẩn.”
Còn đây là lời nhắn từ Topeka (và Topeka đang lo lắng điều gì thì ngay cả Milsom cũng chẳng đoán được): “Đừng bắn, Đại tá. Chúng tôi sẽ đầu hàng.”
Cheyne nở một nụ cười ảm đạm trước những lời lẽ lo lắng từ phía các đối thủ cạnh tranh khi những bức điện được đặt trước mặt ông. “Họ tưởng chúng ta đang tuyên chiến. Hãy nói với họ rằng chúng ta không có tâm trạng cạnh tranh lúc này, Milsom. Hãy cho họ biết mục đích của ta. Tôi nghĩ là anh và cô Kinsey nên đi cùng, dù có vẻ tôi cũng không định bàn chuyện công việc trên đường đi. Hãy cho họ biết sự thật, chỉ một lần này thôi.”
Vì vậy họ đã nói ra sự thật. Cô truyền đi dòng tin cảm động kia trong lúc viên thư ký bổ sung thêm một câu đáng nhớ - “Xin hãy để chúng tôi được yên” và trong những phòng họp cách đó hai ngàn dặm, đại diện của các nhà đầu tư cho những tuyến đường sắt trị giá sáu mươi ba triệu đô la thở phào nhẹ nhõm. Cheyne đang trên đường đến gặp người con trai duy nhất của ông, người vừa được trả lại cho ông một cách nhiệm màu. Con gấu chỉ đi tìm đứa con của mình, không phải là đi săn bò tót. Những người đàn ông cứng rắn vốn giương sẵn gươm giáo để tiếp chiến vì những đồng tiền của họ đã cất vũ khí và cầu cho ông ta gặp may mắn, trong khi cả tá công nhân đường sắt đang hoảng loạn nghển cổ lên và nói về những điều kỳ diệu họ đã có thể làm nếu Cheyne không đình chiến và tỏ rõ thiện chí trước.
Đó là một tuần bận rộn của những máy điện tín, vì giờ đây, khi mối lo đã được dẹp bỏ, các nhân viên và các thành phố khẩn trương thu xếp cho chuyến đi của ông Cheyne. Los Angeles gọi cho San Diego và Barstow để các kỹ sư miền nam California được biết và chuẩn bị sẵn sàng từ trong các nhà để đầu máy; Barstow chuyển lời đến vùng Đại Tây Dương và Thái Bình Dương; và đầu Albuquerque quản lý suốt dọc Atchinson, Topeka, và Santa Fe, thậm chí đến cả Chicago. Một cỗ xe, kết hợp xe hơi với đầu kéo, và chiếc xe cá nhân Constance mạ vàng sắp được “kéo đi” qua hai nghìn ba trăm năm mươi dặm. Đoàn tàu này sẽ được ưu tiên trước cả một trăm bảy mươi bảy cuộc họp; người điều hành và công nhân trên từng chuyến tàu này phải được thông báo trước. Mười sáu đầu máy, mười sáu động cơ, và mười sáu công nhân xúc than sẽ được huy động, chọn lựa từ những nguồn tốt nhất. Họ sẽ có hai phút rưỡi để thay động cơ, ba phút để đổ nước, và hai phút để xúc than. “Nhắc nhở các công nhân, sắp xếp các xe chứa nhiên liệu và dù một cách thuận tiện; vì Harvey Cheyne đang rất vội, rất vội, rất vội...” Dòng điện tín ngân nga. “Dự kiến bốn mươi dặm một giờ, và các giám thị bộ phận sẽ theo sát chuyến đi này từ các phòng ban của họ. Từ San Diego đến đường số 16, Chicago, hãy trải tấm thảm ma thuật ra. Khẩn trương lên! Ôi, khẩn trương lên!”
“Trời sẽ nóng đấy!” Cheyne nói khi họ rời San Diego vào sáng sớm ngày Chủ nhật. “Chúng ta sẽ đi rất vội, mẹ nó ạ, nhanh hết mức có thể. Nhưng anh thực sự không nghĩ mẹ nó cần đội mũ và đeo găng vội đâu. Em cứ nằm nghỉ và uống thuốc đi. Anh sẽ chơi cờ domino với em nếu hôm nay không phải là Chủ nhật.”
“Em ổn mà. Chúa ơi, em sẽ ổn thôi. Chỉ là... nếu cởi mũ ra, em sẽ thấy sốt ruột vì quãng đường dài lắm.”
“Hãy cố ngủ một chút đi, mẹ nó ơi, và chúng ta sẽ đến Chicago trước khi mẹ nó nhận ra.”
“Nhưng đây mới là Boston, bố nó à. Anh bảo họ đi nhanh lên đi.”
Những chiếc xe dài sáu bộ đang chầm chậm đi đến San Bernardino và sa mạc Mojave, nhưng ở đây thì không đi nhanh được, mà phải chờ quãng đường sau đó. Cái nóng vùng sa mạc tiếp nối cái nóng của vùng núi khi họ rẽ về phía đông để đến rặng Needles và sông Colorado. Hơi nóng hầm hập và ánh sáng chói chang ập vào trong xe, họ phải chườm đá vụn lên cổ bà Cheyne, và lết qua những quãng đường dài, qua Ash Fork, về phía Flagstaff, nơi có những cánh rừng và các hầm đá dưới bầu trời lồng lộng, không khí thì khô hạn. Cây kim tốc độ cứ giật tới giật lui, đám than xóc tung trên nóc, và một đám bụi bốc lên sau các bánh xe. Đám thợ xe ngồi trong khoang của họ, mồ hôi chảy ròng ròng từ cánh tay áo ra, còn Cheyne ngồi giữa bọn họ, kể những câu chuyện đã cũ về ngành đường sắt mà bất cứ người công nhân nào cũng biết, giọng ông gào to hơn cả tiếng của động cơ. Ông kể cho họ về con trai ông, việc biển khơi đã trả lại mạng sống cho cậu, và họ đều gật đầu, vỗ tay để chia vui với ông, hỏi thăm vợ ông và liệu bà có chịu đựng được nếu họ cho “động cơ” ra ngoài một chút không, và Cheyne nghĩ là được. Do đó, động cơ đốt than được cho ra ngoài từ Flagstaff đến Winslow, cho đến khi một người giám thị bộ phận phản đối.
Nhưng bà Cheyne, trong khoang riêng của mình, cùng cô hầu người Pháp, mặt trắng bệch đi vì sợ, bám chặt lấy tay nắm cửa bằng bạc, chỉ ca cẩm một chút và nài chồng mình kêu họ đi nhanh hơn. Vậy là họ bỏ lại những sa mạc khô cằn và những dãy núi kỳ dị của bang Arizona phía sau, lầm lũi tiến về phía trước cho đến khi các khớp nối kêu khùng khục và dây phanh ken két cho họ biết họ đang ở Coolidge, cạnh khu vực Continental Divide.
Ba người đàn ông nghiêm trang và dày dạn kinh nghiệm - khi mới khởi hành thì rất tự tin, nhưng khi kết thúc ca làm thì mặt đã trắng bệch, run rẩy và ướt đầm. Họ đã đưa chiếc xe qua rặng núi cao từ Albuquerque đến Glorietta, quá cả Springer, lên mãi hầm Raton nằm trên đường quốc lộ, ở đó họ rẽ vào La Junta và đã nhìn thấy Arkansaw, đi dọc theo rặng núi dài để đến thành phố Dodge, và ở đó ông Cheyne cảm thấy thoải mái trở lại khi cho đồng hồ chạy sớm một tiếng.
Họ nói chuyện rất ít trên xe. Viên thư ký và người đánh máy ngồi cạnh nhau trên những chiếc ghế da Tây Ban Nha cạnh cửa sổ có gắn kính ở phía sau xe, quan sát những rặng núi nhô lên và gợn sóng phía sau họ, và họ tin rằng mình đang cố gắng ghi nhớ cảnh vật ấy. Cheyne di chuyển một cách bồn chồn giữa chiếc xe sang trọng của mình và đầu lái trần trụi, ngậm một điếu xì gà chưa châm lửa giữa hai hàm răng, cho đến khi đám nhân công quên mất rằng ông là kẻ thù của họ, và tìm mọi cách để mua vui cho ông.
Ban đêm, những ánh đèn điện soi sáng cho cung điện sang trọng mà ủ dột kia, và họ ăn bữa tối thịnh soạn, trong khi bên ngoài, những mái nhà dột nát cứ trôi vụt qua trước mặt họ.
Giờ thì họ nghe thấy tiếng xuỵt của một thùng nước, giọng nheo nhéo của một người Trung Hoa, tiếng búa đập thình thịch để kiểm tra các bánh xe bằng thép của Krupp, và mấy câu thề thốt của một gã lang thang bị đuổi ra ngoài sân ga; rồi đến tiếng than bị nghiền khi bị tống vào trong lò; và tiếng nói chuyện đáp trả lại khi họ đi qua một đoàn tàu đang chờ. Họ nhìn ra ngoài vùng đất rộng lớn, thấy giá đỡ bên dưới xe rung lên khe khẽ, hoặc nhìn lên những dãy núi đã chặn mất một nửa số sao trên trời. Giờ thì các con suối và khe núi đã trở lại thành những dãy núi mấp mô ở đường chân trời, hạ thấp dần thành những ngọn đồi, và cuối cùng là đến vùng đồng bằng.
Ở thành phố Dodge, một người lạ mặt đã mang đến cho họ một tờ báo Kansas, trong đó có đăng bài phỏng vấn Harvey, và được chuyển đến qua điện tín từ Boston. Phóng viên vui vẻ kia đã chứng minh đó chính là con trai của họ, và điều này khiến bà Cheyne an lòng được thêm một chút. Từ duy nhất bà thốt ra “Nhanh lên!” được nhân viên trên tàu chuyển đến các kỹ sư ở Nickerson, Topeka, và Marceline, nơi đường đi dễ dàng hơn, và họ đã bỏ xa vùng Continent ở phía sau. Các thị trấn và làng mạc đã nằm san sát nhau hơn, và một người có thể cảm nhận được mình đang di chuyển giữa những người khác.
“Em không nhìn rõ con số, và mắt em đau quá. Ta đang làm gì đây?”
“Những gì tốt nhất có thể, mẹ nó ạ. Nếu ta đến đó trước chuyến tàu Limited thì không được ích gì đâu. Chúng ta phải chờ thôi.”
“Em không cần biết. Em cần cảm thấy mình đang di chuyển. Ngồi xuống đây và cho em biết quãng đường đã đi nào.”
Cheyne ngồi xuống và đọc số dặm cho bà (và có một vài dặm đường đã trở thành kỷ lục cho đến tận ngày nay), nhưng đoàn xe dài bảy mươi bộ không thay đổi cách di chuyển như con tàu hơi nước của mình, lướt qua cái nóng với tiếng kêu rầm rầm như một con ong khổng lồ. Nhưng tốc độ ấy vẫn chưa đủ đối với bà Cheyne, và cái nóng không thương tiếc của tháng Tám khiến bà càng bứt rứt, kim đồng hồ cứ như ngừng chạy, và khi nào thì họ mới đến Chicago đây?
Có một tin đồn không đúng sự thật, là khi họ thay đầu máy ở pháo đài Madison, Cheyne đã quyên tặng Hội anh em kỹ sư đầu máy hợp nhất một khoản đủ để họ đứng lên chống lại ông và những đồng nghiệp của mình một cách công bằng từ đó về sau. Ông tỏ ra biết ơn các kỹ sư, lính cứu hỏa như cái cách mà ông tin là họ đáng được tôn trọng, và chỉ có nhà băng mới biết ông đã tặng những gì cho các công nhân, những người đã an ủi ông. Sự việc chỉ được ghi nhận lại rằng nhóm người cuối cùng đã đảm nhận toàn bộ việc đổi đầu máy ở phố 16, vì lúc cuối, bà vợ tỏ ra khá uể oải, bất kỳ ai làm phiền bà đều sẽ gặp rắc rối nặng nề.
Những chuyên gia được trả lương cao, những người đã lái tàu qua Lake Shore đưa tàu Michigan Southern Limited từ Chicago đến Elkhart khá là độc đoán, và anh ta không thích bị điều khiển trong việc làm thế nào để bảo dưỡng cho một cái xe. Tuy thế, anh ta tiếp nhận xe Constance như thể nó là một đống thuốc nổ, và khi đoàn người quở trách anh ta, họ cũng chỉ dám thì thầm, ra hiệu.
“Xì!” Những người Atchinson, Topeka, và Santa Fe tranh luận về cuộc đời: “Chúng ta đâu có chạy đua để phá kỷ lục. Vợ của Harvey Cheyne, bà ấy vốn đã bị bệnh, và chúng ta không muốn làm phiền bà ấy. Nghĩ mà xem, thời gian ta chạy từ San Diego đến Chicago là 57 giờ 54 phút. Anh cứ kể với những tàu ở miền Đông xem. Khi nào chúng ta muốn chạy để phá kỷ lục, ta sẽ cho họ biết.”
Trong mắt những người miền Tây (dù từ này không làm hài lòng cả hai thành phố ấy), Chicago và Boston nằm sát cạnh nhau, và một vài hãng đường sắt khuyến khích thêm cái ý tưởng ấy. Tàu Limited đưa chiếc Constance đến Buffalo cũng như đến với tàu New York Central và sông Hudson (những đại gia có tiếng, với bộ râu trắng và những sợi dây đồng hồ mạ vàng đã đi chuyến tàu này đến đây để bàn chút chuyện công việc với Cheyne), thứ đã duyên dáng chở nó đến Albany, nơi tàu Boston và Albany hoàn thành chuyến đi từ đông nam Virginia đến đông bắc Carolina - tổng thời gian là 87 giờ và 35 phút, tức là 3 ngày, 15 giờ và 30 phút. Harvey đang chờ họ.
Trải qua những làn sóng cảm xúc mãnh liệt, người ta thường cảm thấy đói. Họ đãi người vừa trở về một bữa thịnh soạn phía sau những tấm rèm, cảm thấy hạnh phúc đến tột cùng, trong khi các con tàu vẫn rì rầm vào ra quanh họ. Harvey ăn, uống và kể về chuyến phiêu lưu của mình liền một hơi, cứ khi nào ngơi tay ra là mẹ cậu lại cầm lấy và vuốt ve. Giọng cậu đã trầm xuống do sống lâu ngoài trời và thứ không khí đầy muối; bàn tay cậu thô ráp và cứng, hai cổ tay đầy những vết rộp; và mùi cá tuyết cứ thoang thoảng tỏa ra từ đôi ủng cao su và cái áo len màu xanh.
Người cha, vốn đã quen với việc nhìn nhận con người, nhìn cậu với vẻ thích thú. Ông không biết cậu bé có phải trải qua thương tổn dài lâu nào không. Thật ra, ông đã nhận ra mình biết rất ít về đứa con trai này, nhưng ông vẫn nhớ rõ một thanh niên bất cần, khuôn mặt bồng bột, kẻ có thú vui “chỉ trích ông già” và khiến mẹ mình phải khóc, kẻ mua vui trong các nhà hàng hoặc sảnh khách sạn, nơi mà lũ con của những người giàu chọc ghẹo hoặc quở trách mấy anh chàng khuân vác đồ. Nhưng chàng ngư dân trẻ tuổi và đứng đắn này không hề vặn vẹo người, nhìn ông với đôi mắt kiên định, trong sáng và không e dè, nói bằng giọng dõng dạc, thậm chí là sang sảng và đầy tôn trọng. Trong giọng nói của cậu cũng chứa đựng sự thay đổi mà theo ông là có triển vọng sẽ tồn tại lâu dài, và con người mới này của Harvey sẽ ở lại cùng họ.
“Ai đó đã đưa nó vào nền nếp.” Cheyne nghĩ. “Constance sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó. Có lẽ châu Âu cũng không thể dạy dỗ nó tốt hơn được.”
“Tại sao con không nói cho người đàn ông tên Troop ấy biết con là ai?” Người mẹ hỏi lại, khi Harvey đã thêm mắm thêm muối cho câu chuyện ít nhất hai lần.
“Disko Troop, mẹ à. Thủy thủ tốt nhất trên đời. Con không cần biết ai đứng thứ nhì.”
“Sao con không kêu ông ta đưa con về bờ? Con biết là bố sẽ trả cho ông ta gấp mười lần mà.”
“Con biết, nhưng ông ấy cho rằng con bị mất trí. Con e là con từng đổ cho ông ấy tội ăn cắp, vì con đã không tìm thấy cọc tiền trong túi.”
“Một thủy thủ đã tìm thấy cuộn tiền cạnh cột cờ vào...
vào đêm hôm đó.” Bà Cheyne sụt sùi.
“Thì ra là như vậy. Con không hề đổ lỗi cho ông Troop. Con chỉ nói là con sẽ không làm việc - lại là cho thuyền cá ở vùng Bank nữa - và dĩ nhiên ông ấy đã đấm vào mũi con, ối giời, con chảy máu như một con lợn rừng bị trúng mũi tên vậy.”
“Con trai bé bỏng tội nghiệp! Chắc là họ đã hành hạ con một cách kinh khủng lắm.”
“Con cũng không biết nữa. Nhưng sau chuyến này, con đã nhìn ra ánh sáng.”
Cheyne vỗ đánh đét lên đùi và bật cười. Đây sẽ là một cậu bé dám đi theo những gì trái tim khao khát. Ông chưa từng nhìn thấy thứ ánh sáng ấy trong mắt Harvey trước kia.
“Và ông ấy trả công cho con mười đồng rưỡi một tháng, ông ấy đã trả cho con một nửa, con đã gửi cho Dan giữ. Con vẫn chưa làm được việc của người lớn, nhưng con có thể lái xuồng gần thạo bằng Dan, và con không còn sợ sương mù... quá nhiều. Con có thể lái thuyền trong khi có gió nhẹ, mẹ à... và con gần như đã thạo việc gắn mồi cho lưới, thuộc tên các loại dây thừng, dĩ nhiên rồi. Con có thể ném cá suốt cả ngày, và cũng đã thuộc cả cuốn Josephus, con sẽ chỉ cho mẹ cách lọc cà phê với một mẩu da cá, và... con nghĩ là con sẽ uống thêm một cốc nữa được không? Bố mẹ không biết để kiếm được mười đồng rưỡi một tháng thì phải làm nhiều việc thế nào đâu!”
“Ta đã bắt đầu với mức tám đồng rưỡi đấy, con trai.” Cheyne nói.
“Vậy sao? Bố không bao giờ kể cho con chuyện đó.”
“Con có bao giờ hỏi đâu, Harve. Một ngày nào đó bố sẽ kể cho con, nếu con muốn nghe. Ăn quả ô liu nhồi thịt đi.”
“Troop nói điều thú vị nhất trên thế giới là tìm ra cách mà người bên cạnh ta kiếm được đồng tiền. Thật tốt khi lại được ăn một bữa thịnh soạn. Chúng con vẫn được ăn uống đầy đủ. Khác với những tàu còn lại ở vùng Bank. Disko cho con ăn rất sang. Ông ấy rất tuyệt vời. Và Dan, con trai của ông ấy, Dan là bạn của con. Còn có cả bác Salters cùng các loại phân bón, và bác ấy cũng đọc Josephus. Bác ấy nghĩ con chắc chắn bị điên. Và rồi có cả Penn bé nhỏ tội nghiệp, chú ấy bị loạn trí. Bố không được nhắc đến Johnstown với chú ấy, bởi vì... À, phải rồi, bố cần gặp Tom Platt, Long Jack và Manuel. Manuel đã cứu con. Con rất tiếc chú ấy là người Bồ Đào Nha nên không nói chuyện nhiều lắm, nhưng chơi nhạc thì hay quên sầu. Chú ấy thấy con trôi nổi trên biển, và đã kéo con về xuồng.”
“Ta không biết liệu có phải dây thần kinh lo lắng của con đã tê liệt hoàn toàn rồi không nữa.” Bà Cheyne nói.
“Sao cơ, mẹ? Con đã làm việc quần quật như trâu, ăn thì như hổ và ngủ như chết.”
Chuyện ấy quả là quá sức chịu đựng của bà Cheyne, người bắt đầu hình dung ra cảnh một cái xác trôi dật dờ trên mặt biển.
Bà trở về phòng riêng, còn Harvey ngồi cuộn mình bên cạnh bố, nói về những ân huệ mà cậu muốn trả cho những người trên thuyền Có chúng tôi đây!.
“Con có thể tin tưởng là bố sẽ làm tất cả những gì có thể cho họ, Harve ạ. Theo lời con kể thì họ có vẻ là người tốt.”
“Tốt nhất trong đội thuyền. Bố cứ hỏi những người ở Gloucester thì biết.” Harvey nói. “Nhưng Disko vẫn tin là ông ấy đã chữa cho con khỏi bị loạn trí. Dan là người duy nhất nghe con kể về bố, về mấy chiếc xe hơi và những điều còn lại, và con cũng không chắc là cậu ấy tin con. Con muốn làm họ bất ngờ vào ngày mai. Họ không lái xe Constance đến tận Gloucester được nhỉ? Trông mẹ thì không đủ khỏe để đi tiếp, và trong ngày mai chúng con phải chuyển xong đống cá. Wouverman đã nhận mua cá của chúng con. Bố thấy đấy, chúng con là thuyền đầu tiên rời vùng Bank mùa này, với bốn trăm hai mươi lăm tấn cá. Chúng con chờ đến khi ông ấy trả tiền. Họ thì muốn mua bán nhanh.”
“Vậy là ngày mai con vẫn làm việc hả?”
“Con đã nhận lời với Troop. Con lo việc cân cá. Con đã mang bảng ghi chép theo mình.” Cậu nhìn quyển sổ nhớp nhúa bằng vẻ nghiêm túc đến độ bố cậu phải kinh ngạc. “Còn đến ba trăm, hai trăm chín mươi tư hoặc lăm nghìn con nữa, theo con đoán.”
“Hãy thuê một người khác làm thay con.” Cheyne đề nghị, để xem Harvey sẽ nói gì.
“Không được đâu, bố ạ. Con là người kiểm cá trên thuyền. Troop nói con tính toán giỏi hơn Dan. Troop là người cực kỳ công tâm.”
“Chà, cứ cho là bố sẽ không chạy xe Constance đêm nay, con sẽ làm thế nào?”
Harvey nhìn đồng hồ, lúc ấy đang chỉ 11 giờ 20 phút.
“Vậy thì con sẽ ngủ ở đây đến ba giờ sáng và bắt chuyến tàu lúc bốn giờ. Họ cho những ngư dân trong đoàn thuyền đi miễn phí, vì thỏa thuận là như thế.”
“Đó cũng là một ý kiến. Nhưng bố nghĩ là xe Constance có thể khởi hành cùng giờ với chuyến tàu của con đấy. Con nên đi ngủ đi thì hơn.”
Harvey duỗi mình trên ghế, tháo giày ra và ngủ trước khi bố cậu kịp tắt bớt đèn. Ông Cheyne ngồi đó quan sát gương mặt cậu bé dưới cánh tay đang vắt trên trán, và giữa nhiều suy nghĩ ngổn ngang trong đầu ông lúc này, ông chợt nhận ra có lẽ là ông đã quá thờ ơ với con trai mình bấy lâu.
“Chẳng ai biết khi nào thì họ trải qua điều mạo hiểm nhất trong đời.” Ông lẩm bẩm. “Chuyện có thể đã còn tệ hơn so với việc nó bị chết đuối, nhưng tôi không nghĩ là như thế. Nếu không, tôi không biết phải trả ơn Troop sao cho đủ. Tôi không nghĩ là chuyện đã có thể tệ hơn.”
Cơn gió biển tươi mát buổi sáng lùa vào cửa sổ, xe Constance đang đỗ cạnh những xe chở hàng ở Gloucester, và Harvey đã bắt tay vào làm việc.
“Rồi nó sẽ lại ngã xuống biển và chết mất.” Bà mẹ cay đắng nói.
“Ta sẽ đến đó và quan sát, sẵn sàng quăng dây cho nó nếu cần thiết. Bà chưa bao giờ thấy nó làm việc để kiếm miếng ăn mà.” Người cha nói.
“Thật vớ vẩn! Cứ như người ta sẽ mong nó...”
“Chà, người thuê nó đã nghĩ vậy đấy. Có lẽ ông ấy đã đúng.”
Họ đi xuống giữa những nhà kho đầy áo vải dầu cho ngư dân, đến cầu tàu của Wouverman, nơi thuyền Có chúng tôi đây! đang đậu, lá cờ vùng Bank của họ vẫn tung bay. Mọi người đang tất bật làm việc trong ánh nắng ban mai rực rỡ. Disko đứng cạnh khoang chính, giám sát Manuel, Penn, và bác Salters ở dàn pa lăng. Dan thì chuyển những thùng cá vào trong, sau khi Long Jack và Tom Platt đổ đầy chúng, và Harvey, với cuốn sổ trên tay, trình bày về những tính toán của thuyền trưởng trước mặt viên thu ngân trên bờ cầu tàu bám đầy muối.
“Sẵn sàng chưa!” Những giọng nói vọng lên từ bên dưới. “Kéo đi!” Disko hô lớn. “Này!” Manuel nói. “Ở đây!” Dan đáp lại trong khi đẩy cái giỏ. Rồi họ nghe thấy giọng Harvey, trong trẻo và dõng dạc, đang kiểm tra khối lượng.
Những con cá cuối cùng đã được đưa ra ngoài, và Harvey nhảy từ con thuyền dài sáu bộ lên thang dây, cách nhanh nhất để đưa Disko cuốn sổ, và hô vang: “Hai trăm chín mươi bảy, và khoang đã trống trơn!”
“Tổng cộng là bao nhiêu, Harve?” Disko hỏi.
“Tám trăm sáu mươi lăm tấn. Ba nghìn sáu trăm năm mươi bảy đô la và hai mươi lăm xen. Ước gì ngoài lương cháu còn được hoa hồng.”
“Chà, ta sẽ không nói là cậu không xứng đáng với thành quả ấy, Harve. Cậu có muốn lên văn phòng của Wouverman và đưa ông ấy bản kiểm kê không?”
“Cậu bé kia là ai?” Ông Cheyne hỏi Dan, kẻ đã quen với mọi kiểu câu hỏi từ những vị khách du lịch mùa hè ngờ nghệch.
“Chà, cậu ấy là một kiện hàng đặc biệt.” Dan trả lời. “Chúng tôi vớt được cậu ấy ở vùng Bank. Cậu ấy nói là bị ngã khỏi tàu chở khách. Cậu ấy là khách trên thuyền của chúng tôi, nhưng giờ thì cậu ấy giống một ngư dân rồi.”
“Cậu ấy có đáng công mọi người cứu không?”
“Có chứ. Bố ơi, người này muốn biết Harve có đáng công ta cứu không. Ngài có muốn lên thuyền không?
Chúng tôi sẽ bắc thang cho bà đây.”
“Tôi rất muốn được lên thuyền đấy. Sẽ không có vấn đề gì đâu, mẹ nó ạ, và bà sẽ được chứng kiến tận mắt.”
Người phụ nữ mà một tuần trước đây còn không thể nhấc đầu dậy giờ đang trèo xuống bậc thang, đứng thất thần trước đống đồ lộn xộn ở boong sau.
“Ông quan tâm đến Harve à?” Disko hỏi.
“Ồ, vâng.”
“Cậu ấy là một cậu bé ngoan, và làm việc tử tế đúng như đã hứa. Ông đã nghe chuyện chúng tôi tìm thấy cậu ấy như thế nào chưa? Tôi đoán là cậu ta đã bị suy nhược nặng, hoặc là bị đập đầu vào đâu đó khi chúng tôi kéo cậu ấy lên thuyền. Giờ thì cậu ấy ổn rồi. Phải, đây là cabin. Không được gọn gàng lắm, nhưng ông cứ tự nhiên nhìn quanh. Đây là những vết khứa của cậu ấy trên ống khói bếp, nơi chúng tôi ghi lại số cá.”
“Nó đã ngủ ở đây sao?” Bà Cheyne hỏi rồi ngồi xuống một cái rương màu vàng và xem xét những cái hốc lộn xộn.
“Không. Cậu ấy ngủ ở đằng trước, thưa bà, chỉ vì cậu ấy và con trai tôi muốn đi ăn trộm bánh bột mì rán và cà phê vào những lúc mà đáng ra chúng nên đi ngủ rồi. Ngoài ra, tôi không thấy cậu ấy có gì đáng trách cả.”
“Không có gì đáng trách ở Harve hết.” Bác Salters nói và trèo xuống thang. “Cậu ấy treo ủng của tôi lên cột buồm chính, và cậu ấy đã tỏ ra kính trọng người khác hết mức có thể, đặc biệt là về việc đồng áng, nhưng chủ yếu là cậu ấy bị Dan dắt mũi.”
Trong lúc ấy, Dan, vốn được Harvey nhấm nháy từ sớm hôm ấy, đang nhảy nhót trên boong. “Tom, Tom!” Cậu thì thầm xuống dưới khoang. “Bố mẹ cậu ấy đã đến, và Bố cháu vẫn chưa biết gì, họ đang nói chuyện trong cabin. Bà ấy rất đẹp, còn ông ấy đúng như những gì Harve đã nói, cứ nhìn là biết.”
“Thánh thần ơi!” Long Jack thốt lên và trèo ra ngoài, người dính đầy muối và da cá. “Cháu có tin chuyện nó kể về thằng bé có cái xe bốn ngựa kéo là thật không?”
“Cháu vốn biết từ đầu mà.” Dan nói. “Đến mà xem bố cháu đã nhìn nhầm cậu ấy ra sao.”
Họ phấn khởi tiến lại gần, vừa kịp lúc nghe thấy ông Cheyne nói: “Tôi cũng mừng vì nó tốt tính, bởi vì... nó là con trai tôi.”
Disko há hốc mồm - Long Jack cứ luôn miệng thề rằng ông ta đã nghe thấy tiếng hàm răng của Disko kêu đánh “cách” một cái, và Disko hết nhìn người đàn ông lại sang người phụ nữ.
“Tôi nhận được điện của nó ở San Diego bốn ngày trước, và chúng tôi đã đến đây.”
“Bằng một chiếc xe riêng ạ?” Dan hỏi. “Cậu ấy nói ông sẽ làm thế.”
“Vâng, dĩ nhiên là bằng xe riêng.”
Dan nhìn bố mình và không ngừng nháy mắt một cách khiếm nhã.
“Có một chuyện cậu ấy kể về cỗ xe bốn ngựa kéo của riêng cậu ấy.” Long Jack cất tiếng. “Chuyện ấy có thật không?”
“Có thể lắm.” Ông Cheyne nói. “Đúng vậy không hả mẹ nó?”
“Nó có một cái xe kéo nhỏ hồi ở Toledo, em nghĩ vậy.” Bà mẹ nói.
Long Jack huýt sáo. “Ôi, Disko!” Và đó là tất cả những gì anh ta nói.
“Tôi đã... Tôi nhìn nhầm cậu ấy. Còn tệ hơn cả những người ở Marblehead nữa.” Disko nói, như thể những từ ấy đang miễn cưỡng tuôn ra khỏi miệng ông. “Tôi không ngại nếu phải xin lỗi anh, anh Cheyne, vì tôi đã nghĩ thằng bé bị loạn trí. Cách cậu ấy nói năng về tiền bạc thật kỳ cục.”
“Nó cũng đã kể với tôi như vậy.”
“Cậu ấy còn nói gì nữa không? Vì tôi đã nện cho cậu ấy một lần.” Lúc này thì Disko nhìn sang bà Cheyne với vẻ bồn chồn.
“Ồ, vâng.” Ông Cheyne đáp lời. “Tôi phải nói rằng việc đó đã khiến nó tốt hơn so với nhiều thứ khác trên đời.”
“Tôi đã cho rằng việc đó là cần thiết, nếu không thì tôi đã không làm. Tôi không muốn ông bà nghĩ rằng lũ trẻ bị bạo hành trên thuyền.”
“Tôi không nghĩ như vậy đâu, thưa ông Troop.”
Bà Cheyne nãy giờ vẫn quan sát những khuôn mặt xung quanh, từ khuôn mặt cứng rắn, nhẵn nhụi và ngà vàng của Disko; bác Salters với bộ râu quai nón đặc trưng của nông dân; vẻ đơn giản, dè dặt của Penn; nụ cười lặng lẽ của Manuel; tiếng cười vui vẻ của Long Jack, và vết sẹo của Tom Platt. Hiển nhiên trông họ thật dữ dằn trong mắt bà, nhưng bà cũng có linh tính của một bà mẹ, và đã đứng dậy chìa tay ra để chào họ.
“Ồ, anh giới thiệu mọi người đi nào.” Bà nói, giọng nghẹn ngào. “Tôi muốn cảm ơn và chúc phúc cho mọi người, tất cả các anh.”
“Đức tin đã cứu tôi cả trăm lần.” Long Jack nói.
Disko giới thiệu từng người một cách lịch thiệp. Thuyền trưởng của một chiếc thuyền Trung Quốc ngày xưa cũng không thể nào làm tốt hơn như vậy, và bà Cheyne lắp bắp chào lại. Bà gần như đã nhào đến ôm chầm lấy Manuel khi biết anh ta là người đầu tiên tìm thấy Harvey.
“Làm sao mà tôi có thể để cậu ấy trôi dạt như thế được chứ?” Manuel nói. “Bà sẽ làm gì nếu bà thấy một người trên biển như vậy nào? Cậu ấy rất ngoan và tôi rất hài lòng khi biết cậu ấy là con trai bà.”
“Và nó nói Dan là bạn của nó!” Bà nức nở. Dan vốn đã đỏ bừng mặt, lúc này lại đỏ rần cả người khi bà Cheyne hôn lên cả hai má cậu trước mặt cả thủy thủ đoàn. Rồi họ dẫn bà ấy ra đằng trước mũi thuyền, và bà lại khóc lần nữa. Bà phải xuống khoang để nhìn thấy cái hốc dành riêng cho Harvey, và ở đó, bà nhìn thấy người đầu bếp đang cọ rửa bếp lò. Ông ta gật đầu chào bà như thể bà là người mà ông ta đã mong chờ được gặp nhiều năm nay. Họ thay nhau giải thích cho bà về cuộc sống thường ngày trên thuyền, và bà ngồi cạnh cái cột, đôi tay đeo găng đặt trên cái bàn nhơm nhớp, bật cười với đôi môi run run và khóc trong khi mắt vẫn lấp lánh hạnh phúc.
“Còn ai dám dùng thuyền Có chúng tôi đây! sau việc này nữa?” Long Jack nói với Tom Platt. “Tôi có cảm tưởng bà ấy đã biến nơi này thành một nhà thờ rồi.”
“Nhà thờ à!” Tom Platt khịt mũi. “Ồ, nếu đây là thuyền của Hiệp hội đánh cá thay vì cái thuyền tồi tàn này. Giá mà ta có thời gian để thuê thêm mấy thằng nhóc chạy việc khi biết bà ấy sắp lên thuyền! Bà ấy sẽ phải trèo lên thang như một con gà, và chúng ta... chúng ta sẽ phải đo trục buồm!”
“Vậy là Harvey không hề điên.” Penn chậm rãi nói với ông Cheyne.
“Không, quả thực là thế, ơn Chúa!” Vị triệu phú đáp lại, rồi dịu dàng cúi xuống.
“Chắc là việc bị mất trí không lấy gì làm dễ chịu. Trừ việc bị mất con, tôi không tưởng tượng được ra điều gì tệ hơn thế. Nhưng con của ông đã trở lại phải không? Hãy cảm ơn Chúa vì điều đó.”
“Xin chào!” Harvey nói và nhìn xuống tất cả bọn họ từ trên cầu tàu.
“Ta đã nhầm, Harve. Ta đã nhầm.” Disko nói thật nhanh và giơ một tay lên. “Ta đã bị định kiến che mắt. Cậu không cần giả vờ nữa.”
“Cứ để con lo việc đó.” Dan thì thầm.
“Bây giờ thì cậu sẽ rời khỏi đây phải không?”
“Chà, không thể thiếu chỗ tiền lương của tớ được, trừ khi cậu muốn tớ ám thuyền Có chúng tôi đây!.”
“Ra là vậy. Ta quên béng mất đấy!” Ông đếm những đồng tiền còn lại. “Cậu đã làm tất cả những việc được giao, Harve; và cậu đã làm việc chăm chỉ như thể cậu được nuôi nấng...” Tới đây thì Disko ngừng lại. Ông không biết nên kết thúc câu ấy như thế nào.
“Bên ngoài một cái xe hơi sang trọng ạ?” Dan gợi ý vẻ láu cá.
“Thôi nào, tớ sẽ chỉ cho cậu xem.” Harvey nói.
Cheyne ở lại để nói chuyện cùng Disko, những người còn lại thì đi về phía nhà kho, và bà Cheyne dẫn đầu. Cô hầu người Pháp ré lên khi thấy đoàn người, và Harvey để họ chiêm ngưỡng chiếc Constance mà không nói thêm lời nào. Họ lặng lẽ quan sát nó - từ chiếc ghế bọc da, tay cầm mở cửa bằng bạc, rèm nhung, cửa kính, bánh xe mạ thiếc, đồng và nội thất bằng gỗ hiếm.
“Cháu đã nói mà.” Harvey đắc ý. “Cháu đã nói mà.” Đây chính là một sự trả thù ngọt ngào và hết sức rộng lượng.
Bà Cheyne mời họ ăn tối, và để không bỏ sót bất cứ chi tiết nào trong câu chuyện Long Jack kể sau đó, bà đã ngồi đợi họ ăn xong. Những người vốn quen ngồi ăn trên những chiếc bàn nhỏ, trong các hốc, có lối hành xử hết sức lịch thiệp và gọn gàng, nhưng bà Cheyne thì không biết điều đó và đã vô cùng ngạc nhiên. Bà những muốn mời Manuel làm quản gia, vì anh ta di chuyển giữa đống đồ ăn bằng thủy tinh hoặc bạc tinh tế và dễ vỡ một cách hết sức nhẹ nhàng, không gây chút tiếng động nào. Tom Platt thì nhớ lại những ngày huy hoàng trên tàu Ohio và cung cách của những vị tướng người nước ngoài ăn tối cùng các sĩ quan; còn Long Jack, vì là người Ireland, đã kể những câu chuyện phiếm để khiến mọi người đều cảm thấy thoải mái.
Trong cabin của thuyền Có chúng tôi đây!, hai người bố trò chuyện cùng nhau phía sau những điếu xì gà. Cheyne đủ tinh tường để nhận ra một người đàn ông không thể bị mua bằng tiền; và ông cũng biết không có món tiền nào là đủ để trả cho những gì Disko đã làm. Ông cứ giữ kín suy nghĩ của mình và chờ lời mở đầu từ người kia.
“Tôi chưa từng làm gì với con trai anh, hoặc làm gì cho cậu ấy, trừ việc bắt cậu ta làm việc một chút và dạy cho cậu ta cách dùng thước đo phần tư.” Disko nói. “Cậu ta có cái đầu nhạy bén với số liệu hơn con trai tôi nhiều lần.”
“Nhân tiện...” Cheyne thong thả chen vào. “... anh nghĩ con trai anh có giá thế nào?”
Disko gỡ điếu xì gà ra và vẩy tay khắp cabin. “Dan là một thằng bé đơn giản, và nó không cho phép tôi can thiệp vào đầu óc nó. Nó sẽ thừa hưởng con tàu nhỏ này khi tôi nghỉ hưu. Nó không định bỏ ngang nghề của cha ông. Tôi biết như vậy.”
“Ừm! Anh đã bao giờ về miền Tây chưa, anh Troop?”
“Tôi từng đi thuyền đến New York một lần. Tôi không đi tàu hỏa. Dan cũng vậy. Nước biển là đủ với người nhà Troop rồi. Tôi đã đi gần hết mọi nơi, dĩ nhiên là theo đường biển.”
“Tôi có thể để cậu bé ở trên biển bao lâu tùy thích, cho đến khi cậu ấy trở thành một thuyền trưởng.”
“Ý anh là sao? Tôi tưởng anh là ông vua đường sắt. Harve đã nói với tôi điều đó khi mà... tôi vẫn còn hiểu nhầm cậu ấy.”
“Chúng ta ai chẳng có lúc mắc lỗi. Tôi đoán có lẽ anh biết tôi sở hữu một tuyến vận chuyển chè theo đường biển - San Francisco đến Yokohama - sáu chiếc trong đó là bằng sắt, mỗi chiếc nặng chừng một nghìn bảy trăm tám mươi tấn.”
“Quỷ sứ! Thằng bé chẳng bao giờ nói cả. Chuyện ấy thì tôi sẽ nghe, thay vì những chuyện về đường xe lửa và mấy chiếc xe ngựa kéo.”
“Nó không biết đấy mà.”
“Những chuyện nhỏ như thế thì có lẽ nó không muốn để tâm.”
“Không, tôi mới chỉ... tiếp quản các tàu vận chuyển Blue M., tuyến cũ của Morgan và McQuade vào mùa hè này.” Disko ngồi phịch xuống phía sau cái bếp.
“Lạy Chúa tôi! Tôi đã lầm hết lần này đến lần khác. Phil Airheart đã ra khơi từ chính thị trấn này sáu năm về trước, không, là bảy năm chứ, và ông ấy lấy vợ ở San Jose, hai mươi sáu ngày nữa là về đất liền. Chị gái của ông ấysống ở ngay đây, và bà ấy vẫn đọc thư của ông ấy cho vợ tôi nghe. Ông ấy sở hữu những con tàu Blue M. sao?” Cheyne gật đầu.
“Nếu biết, tôi đã đưa thuyền Có chúng tôi đây! về cảng ngay khi vừa nghe cậu ấy nói.”
“Có lẽ như thế lại không phải là điều tốt nhất cho Harvey.”
“Giá mà tôi biết! Giá mà nó nói về những con tàu vận chuyển ấy, tôi đã hiểu ngay! Tôi sẽ không thể tin tưởng vào khả năng nhìn người của mình nữa. Đó là những tàu rất tử tế. Phil Airheart đã nói như vậy.”
“Tôi rất mừng khi được nghe nhận xét tốt từ một người trong ngành. Airheart đang là thuyền trưởng của tàu San Jose. Điều tôi muốn biết là liệu anh có vui lòng cho tôi mượn Dan một hoặc hai năm không, rồi xem cậu ấy sẽ trở thành người như thế nào. Anh có tin tưởng Airheart không?”
“Việc đưa một thằng bé chưa hiểu gì theo là rất mạo hiểm...”
“Tôi biết một người đã từng làm nhiều hơn thế cho tôi.”
“Chuyện đó thì khác. Nghe này, tôi không đề cao Dan vì nó là con tôi. Tôi biết vùng Bank thì không hợp với các tàu tốc độ cao, nhưng nó cũng không cần dạy nhiều quá đâu. Nó có thể lái thuyền giỏi hơn nhiều cậu bé khác, và những kiến thức khác đã có sẵn trong máu nó. Nhưng tôi chỉ ước sao nó đừng có kém trong khoản định vị như thế.”
“Airheart sẽ lo khoản đó. Anh ta sẽ đưa thằng bé theo trong một hai chuyến, và chắc chắn thằng bé sẽ khá hơn. Mùa đông này cứ để cậu bé ra khơi cùng anh, và đầu xuân tôi sẽ đón cậu ấy. Tôi hiểu biển Thái Bình Dương từ xưa...”
“Ôi dào! Những người nhà Troop, còn sống hay đã chết, đã đi vòng quanh trái đất, tất cả đại dương của nó.”
“Nhưng tôi muốn anh biết rằng... và điều này thì tôi nói thật, bất cứ khi nào anh muốn gặp thằng bé, cứ nói cho tôi viết, tôi sẽ lo khoản đi lại. Anh sẽ không phải tốn một xu nào.”
“Nếu anh chịu khó đi bộ một lúc cùng tôi, chúng ta sẽ đến nhà tôi và nói chuyện với vợ tôi. Tôi đã quá ngớ ngẩn trong việc nhìn người, và chuyện này đối với tôi quá khó tin.”
Họ đi dọc con đường đầy những cây cải xoong để tới căn nhà màu trắng trị giá một nghìn tám trăm đô la của Troop, một chiếc xuồng đã không còn được dùng đến đặt ở sân trước và phòng khách kéo kín rèm là một bảo tàng toàn những món đồ nhỏ liên quan đến đại dương. Một người phụ nữ cao lớn ngồi đó, lặng lẽ và u sầu, đôi mắt nheo lại nhìn về phía đại dương để chờ những người thân yêu trở về.
Cheyne tự giới thiệu tên với bà, và bà quay lại, vẻ mặt rầu rĩ.
“Chúng tôi mất một trăm người mỗi năm, chỉ riêng ở Gloucester thôi, anh Cheyne ạ.” Bà nói. “Một trăm cậu bé và người đàn ông, tôi đã căm ghét biển đến độ coi nó như một thực thể sống và biết lắng nghe. Chúa không tạo ra biển khơi để con người neo vào. Những tàu của anh, chúng đi thẳng một đường và rồi cũng về thẳng nhà chứ?”
“Nếu như gió cũng thổi thẳng như vậy, và tôi sẽ thưởng thêm nếu họ đi nhanh hơn dự kiến. Chè ở lâu trên biển không tốt.”
“Khi còn nhỏ, thằng bé thường chơi ở kho hàng, và tôi đã hy vọng nó theo nghề ấy. Nhưng rồi nó học được cách chèo xuồng rất nhanh và tôi biết là hy vọng của tôi sẽ không xảy đến.”
“Chúng là những thuyền lớn ba cột buồm, mẹ à, làm bằng sắt và rất chắc chắn. Mẹ có nhớ chị của chú Phil đã đọc thư của chú ấy cho mẹ nghe không.”
“Tôi không biết Phil có nói dối không, nhưng anh ta quá liều lĩnh (giống như hầu hết những người đi biển). Nếu Dan muốn thì anh Cheyne ạ, nó có thể đi, tôi đồng ý.” “Bà ấy ghét biển.” Disko giải thích. “Và... tôi không biết phải tỏ ra làm sao cho lịch sự, hoặc là cảm ơn anh một cách tốt hơn.”
“Cha tôi, anh cả của tôi, hai đứa cháu họ... và chồng của chị gái thứ hai của tôi...” Bà nói và gục đầu xuống hai bàn tay. “Liệu anh có còn quan tâm đến biển khi nó đã lấy mạng của ngần ấy người không?”
Cheyne cảm thấy nhẹ nhõm khi hóa ra Dan chấp nhận lời đề nghị ấy một cách vui vẻ hơn mức cậu có thể diễn đạt thành lời.
Thật vậy, lời đề nghị này sẽ trải cho cậu một con đường đơn giản và chắc chắn cho những hy vọng và mong ước của cậu, nhưng điều khiến Dan suy nghĩ đến nhiều nhất chính là được làm việc ở trên boong tàu lớn hơn, và được thấy những cảng biển ở những nơi xa hơn.
Bà Cheyne đã nói riêng với Manuel về chuyện đền đáp khi anh đã có công cứu sống Harvey. Có vẻ như anh ta không có yêu cầu gì về tiền bạc. Khi bị nài quá, anh nói anh sẽ chỉ nhận năm đồng đô la để mua quà cho một cô gái. Ngoài ra... “Sao tôi có thể nhận tiền khi mà tôi kiếm được cái ăn và thuốc lá một cách dễ dàng như thế này chứ? Bà sẽ cho tôi một vài thứ nếu tôi thích hoặc không? Bà có thể tặng tiền cho tôi, nhưng không phải theo cách này. Bà có thể cho đi tất cả những gì bà có thể nghĩ ra.” Anh ta giới thiệu bà với một mục sư người Bồ Đào Nha nhã nhặn, ông ta có một danh sách những bà góa nghèo khó, dài y như cái áo choàng của ông ta vậy. Vì là một tín đồ Thuyết nhất thể, bà Cheyne không thể cảm thông với đám người đó, nhưng vẫn làm theo vì bà tôn trọng người đàn ông nhỏ da nâu hòa nhã kia.
Manuel, với lòng tin trọn vẹn vào nhà thờ, hết sức trân trọng những lời chúc phúc dành cho bà Cheyne sau hành vi nghĩa hiệp vừa rồi. “Vậy là tôi đã an tâm.” Anh ta nói. “Tôi đã được xá tội trong sáu tháng tiếp theo.” Rồi anh ta tiến về phía trước để lấy khăn tay cho bà, và khiến những người còn lại rơm rớm nước mắt.
Salters đi về miền Tây cùng với Penn một thời gian, và không để lại địa chỉ liên lạc. Bác ta có một nỗi sợ hãi mơ hồ rằng những vị triệu phú này, với những chiếc xe hơi tốn kém, sẽ khiến người bạn đồng hành của mình bị phân tâm. Tốt hơn hết là đi thăm những người họ hàng trên đất liền cho đến khi vùng bờ biển hết sương mù. “Đừng bao giờ nhận làm con nuôi cho nhà giàu, Penn ạ.” Bác ta nói trên xe. “Không thì tôi sẽ đập cái bàn cờ này vào đầu cậu cho đến khi vỡ tan đấy. Nếu cậu lại quên tên mình một lần nữa, đó là Pratt, cậu phải nhớ là cậu gắn liền với Salters Troop, và đứng yên một chỗ cho đến khi tôi tìm được cậu đấy. Đừng có bám theo những kẻ mà mắt lồi cả ra vì quá béo, theo lời dạy của Thánh Kinh đấy.”