C
hính giấc ngủ sâu đến bốn mươi sải đã làm sạch tâm hồn, con mắt và trái tim hai đứa bé, đồng thời khiến chúng đói ngấu trước bữa sáng. Hai đứa đã ăn sạch một đĩa lớn cá vụn sốt - đống đuôi và vây mà ông đầu bếp phải thu dọn trong đêm. Chúng dọn dẹp đống đĩa và chảo mà những người lớn tuổi vứt lại - những người lúc này đã ra khơi bắt cá, thái thịt lợn cho bữa trưa, kỳ cọ phần mũi thuyền, đổ dầu vào đèn, đi lấy than và nước cho ông đầu bếp, không quên lục lọi trong cái khoang trước, nơi chất đầy các món đồ dự trữ cho thuyền. Lại thêm một ngày hoàn hảo nữa - trời mát, dịu và trong; Harvey tha hồ hít thở đầy một bụng thứ không khí trong lành ấy.
Nhiều tàu cá khác đã mò đến trong đêm, và mặt biển mênh mông giờ đã đầy những thuyền nhỏ và xuồng ba lá. Xa xa đằng chân trời, khói từ một số tàu chở khách bốc lên, thân tàu thì mờ ảo, lẫn trong màu xanh của biển, và về phía đông, cánh buồm trên nóc của một con tàu lớn mới được dong lên, tạo thành hình vòng cung căng tròn. Disko Troop đang hút thuốc trên nóc cabin - một mắt nhìn cảnh tượng xung quanh, mắt kia thì quan sát con ruồi nhỏ đậu trên đỉnh cột buồm chính.
“Khi Bố trông ngây người ra như thế kia...” Dan thì thầm. “... tức là ông ấy đang bận suy nghĩ bao quát mọi chuyện. Tớ cá là chúng ta sẽ thả neo sớm. Bố hiểu lũ cá tuyết, và cả đoàn thuyền đều biết điều đó. Mấy con thuyền cứ mò đến từng chiếc một, dĩ nhiên là chẳng tìm kiếm thứ gì cụ thể, nhưng lại cứ theo đuôi chúng ta suốt ngày để làm gì nào? Kia là thuyền Prince Leboo của người Chatham. Nó mò đến từ đêm qua. Và cậu có thấy con thuyền lớn có miếng vá trên buồm trước và cái buồm tam giác mới kia không? Đó là tàu Carrie Pitman đến từ Tây Chatham. Nó sẽ không giữ được buồm của mình lâu trừ khi vận may của nó đã thay đổi từ mùa trước. Nó chẳng làm gì nhiều ngoài việc trôi dạt khắp nơi. Không có mỏ neo nào giữ được nó... Khi Bố nhả khói thuốc thành mấy vòng tròn nhỏ như vậy, nghĩa là Bố đang nghiên cứu lũ cá. Nếu chúng ta nói chuyện với ông ấy bây giờ, ông ấy sẽ nổi điên. Lần trước tớ làm như vậy, ông ấy đã ném một chiếc giày vào tớ.”
Disko Troop nhìn đăm chiêu về phía trước, ngậm chiếc tẩu giữa hai hàm răng, đôi mắt ra vẻ mơ hồ. Đúng như con trai của ông đã nói, ông đang nghiên cứu lũ cá - đặt cược cho những kiến thức và kinh nghiệm của mình trên vùng Bank trước lũ cá tuyết đang lang thang trong chính vùng biển của chúng. Ông coi sự có mặt của những tàu cá đang hiếu kỳ đậu ở đằng xa như một lời ca tụng trước quyền lực của mình. Nhưng giờ, khi họ đã tỏ xong lòng kính nể, ông chỉ ước được lui đi và thả lưới một mình, cho đến lúc thích hợp để đi ngược lên vùng Virgin và bắt cá ở giữa những con phố tấp nập của thị trấn trên nước ấy. Vì vậy, Disko Troop nghĩ đến thời tiết gần đây, những con sóng lớn, dòng biển, nguồn lương thực, cùng các điều kiện tự nhiên khác trong vùng biển, từ góc nhìn của một con cá tuyết nặng hai mươi pound[5]. Ông đã thực sự biến thành một con cá tuyết trong suốt một giờ, và trông cũng giống y như chúng. Rồi ông rút chiếc tẩu ra khỏi miệng.
[5] . Pound hay cân Anh là một đơn vị đo khối lượng truyền thống của Đế quốc Anh, Hoa Kỳ và một số quốc gia khác. Hiện giá trị được quốc tế công nhận chính xác là: 1 pound = 0,45359237 kg.
“Bố ơi!” Dan nói. “Chúng con xong việc rồi. Chúng con xuống biển một lúc nhé? Trời rất hợp để đi bắt cá.”
“Đừng có mặc cái quần đỏ hay đi đôi giày nâu ngớ ngẩn đó. Đưa cho nó thứ gì phù hợp hơn để đi đi.”
“Bố đang vui, vậy là Bố đồng ý rồi.” Dan vui vẻ lên tiếng, và kéo Harvey vào trong cabin, trong khi Troop ném một chiếc chìa khóa xuống mấy bậc cầu thang. “Bố giữ đống quần áo sạch của tớ ở một nơi mà ông để mắt đến được, vì Mẹ nói tớ bất cẩn lắm.” Cậu ta lục lọi trong hòm, và chỉ trong chưa đầy ba phút, Harvey đã xỏ chân vào một đôi ủng cao su cho ngư dân cao đến nửa đùi cậu, một cái áo khoác màu xanh dương có phần khuỷu tay vá chằng vá chịt, một đôi găng tay và một cái mũ chống nước.
“Giờ thì trông khá hơn rồi đấy!” Dan nói. “Nhanh lên nào!”
“Ở gần đây thôi đấy.” Troop nói. “Và đừng có làm vướng chân cả đoàn thuyền. Nếu có ai hỏi là ta đang tính toán chuyện gì, con cứ nói thật, bởi vì con cũng chẳng biết gì cả.”
Một chiếc xuồng nhỏ màu đỏ, tên là Hattie S., đậu ở phía sau thuyền. Dan kéo dây cột thuyền vào, và nhẹ nhàng thả mình xuống lòng xuồng, trong lúc Harvey vụng về lao theo sau.
“Đấy không phải là cách để lên xuồng đâu.” Dan nói. “Nếu xuồng này đã được hạ xuống nước thì tớ cá là cậu đã xuống đáy biển lâu rồi. Cậu phải học cách lên xuồng.”
Dan chốt hai đầu mái chèo vào phần mép trên của xuồng, ngồi vào hàng ghế trước và quan sát Harvey chèo xuồng. Anh bạn trẻ này đã từng chèo thuyền, theo kiểu các quý cô, trên những mặt hồ của vùng Adirondack; nhưng có một sự khác biệt lớn giữa những cái chốt cứ kêu cót két với một cặp chèo đã được cân chỉnh hoàn hảo, cũng như giữa cặp mái chèo ngắn và nhẹ, với cặp chèo dài gần hai mét rưỡi. Chúng cứ bị những đợt sóng nhẹ ngáng lại, và Harvey bực bội gầm ghè.
“Ngắn thôi! Cua chèo ngắn thôi!” Dan nói. “Nếu cậu cố chèo ngược sóng, cậu sẽ làm lật xuồng đấy. Cái xuồng có đẹp không nào? Là của tớ đấy.”
Chiếc xuồng ba lá nhỏ sạch không một vết bụi. Ở mũi xuồng có một cái neo nhỏ, hai bình nước và một đoạn dây neo mỏng màu nâu dài khoảng bảy sải. Một cái còi bằng nhôm nằm trên đống đòn chặn ở ngay bên dưới tay phải của Harvey, cạnh một cái chùy xấu xí, một cái sào ngắn và một que gỗ còn ngắn hơn. Có một vài đoạn dây với những đầu bằng chì rất nặng và các móc câu đôi, tất cả đều được cuộn gọn lại quanh những guồng hình vuông ở mép xuồng.
“Buồm và cột buồm đâu?” Harvey hỏi, vì tay cậu đã bắt đầu phồng rộp lên.
Dan cười khúc khích. “Xuồng ba lá không có buồm đâu. Cậu phải chèo, nhưng đừng có chèo mạnh quá. Cậu có muốn có một cái xuồng như thế này không nào?”
“Chà, chắc là bố tớ sẽ mua cho tớ một, hai chiếc nếu tớ đòi.” Harvey đáp lời. Dạo gần đây, cậu bận đến nỗi chẳng có thời gian nghĩ đến gia đình mình nữa.
“Thế cơ mà. Tớ quên mất rằng bố cậu là triệu phú. Nhưng giờ thì đừng có tỏ ra chảnh chọe làm gì. Một cái xuồng ba lá mà trang bị đầy đủ đồ câu...” Dan nói như thể đây là một chiếc thuyền săn cá voi. “… thì cũng tốn kém lắm đấy. Cậu có nghĩ bố cậu sẽ sắm một chiếc cho cậu chơi không?”
“Còn phải hỏi. Đó là thứ duy nhất mà tớ chưa từng đòi ông ấy.”
“Đúng là một đứa bé tốn kém và khó nuôi. Đừng đẩy mái chèo hết cỡ như thế, Harve. Cua ngắn thôi, vì biển không bao giờ lặng sóng, và con sóng sẽ...”
Một tiếng “rắc!” vang lên. Cán chèo đập vào dưới cằm Harvey, khiến cậu ngã nhào về phía sau.
“Đó là điều tớ định nói đấy. Tớ cũng đã phải học điều đó, nhưng hồi ấy tớ mới chỉ tám tuổi không hơn.”
Harvey bật dậy với cái cằm đau thấu trời và cau có mặt mày.
“Đừng có bực tức vì những việc đó làm gì, Bố đã nói đó là lỗi của chúng ta khi không thể xử lý được tình huống. Ra đằng này đi. Manuel sẽ cho ta biết độ sâu.”
Thuyền của người Bồ Đào Nha đang bơi ở cách đó cả dặm, nhưng Dan giơ thẳng mái chèo lên và vẫy vẫy tay trái ba lần.
“Ba mươi sải.” Dan nói, treo một miếng sò biển vào móc câu. “Hơn cả các anh lính hải quân. Móc mồi vào như tớ làm đi, Harvey, và đừng có làm rối cả cuộn.”
Dan đã buông câu rất lâu rồi mà Harvey mới học được cách móc mồi và quăng đầu chì. Chiếc xuồng trôi lềnh bềnh trên mặt biển. Vẫn chưa đáng thả neo nếu họ chưa chắc chắn tìm được một vùng nước tốt để câu.
“Được rồi!” Dan hô lớn, và một trận mưa nhỏ bắn lên qua vai Harvey khi một con cá tuyết lớn lật mình và quẫy cạnh mạn xuồng. “Cái đập, Harvey, cái đập! Ở phía dưới tay cậu ấy! Nhanh lên!”
Rõ ràng là từ “cái đập” không dùng để chỉ cái còi hiệu, vì vậy Harvey đưa cho Dan cái chùy. Dan khéo léo đập cho con cá bị choáng trước khi cậu kéo nó lên xuồng, và dùng cái que gỗ ngắn kia để lẩy móc câu ra. Rồi tay Harvey cảm thấy cần câu của mình nằng nặng, cậu liền sốt sắng kéo nó lên.
“Này, đó là lũ “dâu tây” đấy!” Dan la lên. “Nhìn xem!”
Cái móc câu đã bám đầy một đám dâu tây, một mặt đỏ và mặt kia màu trắng - một bản sao hoàn hảo của thứ quả trên cạn kia, trừ việc chúng không có núm lá, và phần thân thì thuôn và nhớp.
“Đừng đụng vào chúng. Gạt chúng ra. Đừng...”
Dan đã đưa ra lời cảnh báo quá muộn. Harvey đã gỡ chúng ra khỏi móc và đang ngắm chúng.
“Ối!” Harvey thốt lên, vì những ngón tay của cậu nhói lên như thể vừa nắm phải một nhúm tầm ma.
“Giờ thì cậu đã hiểu “chùm dâu tây” nghĩa là gì rồi đấy. Bố tớ dặn đừng có đụng vào thứ gì bằng tay không, trừ lũ cá. Gạt chúng vào mạn xuồng cho rơi ra rồi móc mồi mới vào, Harvey. Cứ nhìn chúng mãi thế chẳng có ích gì đâu. Những thứ này tính cả vào tiền công rồi.”
Harvey nhăn nhó cười khi nghĩ đến khoản tiền mười đô la rưỡi một tháng của mình, và tự hỏi mẹ cậu sẽ nói gì nếu bà thấy cậu đu mình qua mạn của một chiếc xuồng câu ba lá ở giữa đại dương. Bà ấy đã phát hoảng mỗi lần cậu đi chơi trên hồ Saranac, và, nhớ lại khi ấy, Harvey vẫn thường cười nhạo sự lo lắng của bà. Đột nhiên sợi dây cứa vào tay cậu, qua cả đôi găng - thứ vải len lẽ ra phải bảo vệ bàn tay ấy.
“Con này bơi chậm. Cứ cho nó kéo đến khi đuối sức.” Dan nói. “Tớ sẽ giúp đằng ấy.”
“Không, không cần đâu.” Harvey gạt phăng đi và giữ chắc lấy dây câu. “Đây là con cá đầu tiên của tớ. Có phải là cá voi không?”
“Có thể là cá chim.” Dan nhìn xuống mặt nước cạnh mạn xuồng, và khua khua cái chùy, trực tiếp đón mọi con mồi trong tầm tay. Một thứ gì đó màu trắng, có hình bầu dục đang quẫy và lượn lờ trong đám rong. “Tớ dám cá nó hơn một trăm pound. Cậu có hồi hộp khi kéo nó lên một mình không?”
Các khớp ngón tay của Harvey rộp lên và rỉ máu vì bị ghè vào mép xuồng, mặt cậu tím tái vì vừa mệt vừa háo hức. Người cậu ướt đẫm mồ hôi, và mắt thì lóa lên khi nhìn những gợn sóng phản chiếu ánh mặt trời phía trên sợi dây câu vẫn đang được kéo đi một cách thong thả. Hai đứa bé đã mệt rũ trước cả con cá, và để mặc nó kéo xuồng đi trong vòng hai mươi phút tiếp theo. Nhưng con cá lớn cuối cùng cũng bị vợt vào và kéo lên xuồng.
“Thánh nhân đãi kẻ khù khờ.” Dan nói và đưa tay lên lau trán. “Nó đúng là hơn trăm pound.”
Harvey nhìn sinh vật lớn màu xám và có đốm kia bằng niềm tự hào không nói nên lời. Cậu đã nhiều lần nhìn thấy cá chim, nhưng là trên những phiến đá ở trên bờ và cậu chưa bao giờ từng hỏi chúng được đưa lên bờ bằng cách nào. Giờ thì cậu đã biết, và từng centimet trên người cậu đều đã rã rời, mỏi nhừ.
“Nếu Bố mà đi cùng...” Dan vừa nói vừa thu dây. “Ông ấy sẽ nhận ra các dấu hiệu rõ như ban ngày. Lũ cá ngày càng nhỏ hơn, và cậu đã câu được con cá chim lớn nhất mà ta có thể tìm được trong chuyến này đấy. Cậu có nhớ đống cá ngày hôm qua không? Chỉ toàn cá lớn, không có cá chim. Bố đọc được ngay dấu hiệu của chúng. Bố nói ở vùng Bank này thứ gì cũng là dấu hiệu, và người ta có thể giải nghĩa đúng hoặc sai về chúng. Bố tớ sâu sắc hơn cả cái hố cá voi ấy chứ.”
Trong lúc cậu nói, ai đó trên thuyền Có chúng tôi đây! đã bắn một phát súng, và một rổ khoai tây được kéo lên từ những cuộn dây ở phía trước thuyền.
“Tớ đã nói gì nào? Đó là hiệu lệnh gọi cả đoàn. Bố tớ đã phát hiện ra thứ gì đó, ông chưa bao giờ cho ngừng câu vào thời điểm này trong ngày. Kéo dây lên, Harvey, chúng ta sẽ chèo về.”
Họ đang ở đúng hướng gió thổi về phía con thuyền, sẵn sàng chèo xuồng trên vùng biển lặng thì cách đó nửa dặm đột nhiên vang lên tiếng rống khốn khổ. Họ quay sang, liền thấy Penn đang loay hoay mãi quanh một điểm, giống như một con bọ nước khổng lồ. Người đàn ông nhỏ bé ấy lùi về sau và lại dùng hết sức nhoài người về phía trước, nhưng sau mỗi nhịp như thế, xuồng của anh ta chỉ xoay tròn và bị dây thừng kéo về chỗ cũ.
“Ta phải giúp chú ấy, không thì chú ấy cứ kẹt ở đấy đến lúc mọc rễ mất.” Dan nói.
“Có chuyện gì thế?” Harvey hỏi. Thế giới này quả là mới lạ đối với cậu, một nơi mà cậu không thể lên mặt với những người lớn tuổi hơn mà phải hỏi họ một cách khiêm tốn. Còn đại dương thì quá rộng lớn và lạnh lùng.
“Mỏ neo bị kẹt. Penn lúc nào cũng làm mất neo. Chú ấy đã đánh mất hai cái trong chuyến này rồi, chúng bị vướng vào phần đáy biển toàn cát. Và Bố nói nếu làm mất thêm lần nữa, Bố sẽ cho chú ấy một kelleg. Điều đó sẽ làm Penn buồn chết đi được.”
“Kelleg là gì?” Harvey hỏi, trong lòng lờ mờ đoán rằng đó là một loại hình tra tấn trên biển, giống như những người bị kéo theo thuyền trong các cuốn truyện.
“Một tảng đá lớn thay vì một cái mỏ neo. Họ sẽ thấy tảng đá đó bơi trước mũi thuyền trước cả khi thấy con thuyền, và cả đoàn thuyền sẽ biết như thế có nghĩa là gì. Họ sẽ chế nhạo chú ấy đến chết mất. Penn không thể chịu được điều đó, chẳng khác nào một con chó bị buộc đồ vào đuôi vậy. Chú ấy lúc nào cũng nhạy cảm như thế. Này, Penn! Lại bị kẹt hả? Đừng làm theo cách đó nữa. Ngồi thẳng trên thuyền và giữ cho dây neo thẳng từ trên xuống dưới đi.”
“Nó không chịu di chuyển.” Người đàn ông nhỏ thó nói một cách khó nhọc. “Nó không xê dịch chút nào, dù chú đã thử mọi cách.”
“Đống lộn xộn ở phía trước thuyền này là thế nào?” Dan nói và chỉ vào một cái mái chèo đang bị vướng và ken chặt trong mớ dây neo dưới bàn tay của một kẻ thiếu kinh nghiệm.
“Ồ, cái đó...” Penn tự hào nói. “Là một cái trục cuốn Tây Ban Nha. Salters đã dạy chú cách làm, nhưng ngay cả thứ đó cũng không làm thuyền chạy được.”
Dan cúi xuống dưới mép xuồng để giấu một nụ cười, giật giật cái dây một hai lần, và, ngạc nhiên chưa, cái mỏ neo lập tức thu lên.
“Kéo lên đi, Penn.” Cậu phá lên cười. “Không thì nó lại mắc kẹt lần nữa đấy!”
Cả hai cứ để người đàn ông mắt xanh tội nghiệp nhìn trân trân vào chiếc neo nhỏ bám đầy tảo, và anh ta rối rít cảm ơn hai đứa.
“Ồ, mà ngẫm ra thì, Harve ạ...” Dan nói khi cả hai đã ra khỏi tầm nghe của người đàn ông kia. “Penn cũng không bình thường lắm đâu. Chú ấy chẳng nguy hiểm chút nào, nhưng không tỉnh táo lắm. Thấy không?”
“Sự thật là như thế, hay đó chỉ là một trong những định kiến của bố cậu thôi?”
Harvey hỏi trong khi rướn người chèo. Cậu cảm thấy mình đã thạo tay chèo hơn.
“Lần này thì Bố không lầm đâu. Penn chắc chắn có bị loạn trí. Không, mà cũng không phải như vậy, chỉ là một gã ngốc vô hại thôi. Chuyện là thế này (cậu chèo ngon tay hơn rồi đấy, Harve), và tớ sẽ kể cho cậu bởi vì cậu có quyền biết. Chú ấy từng là một mục sư người Moravia. Tên chú ấy là Jacob Boiler, Bố đã kể cho tớ, và chú ấy sống cùng vợ và bốn đứa con, đâu đó ở vùng Pennsylvania. Chà, Penn đã đưa vợ con chú ấy theo trong một chuyến cắm trại giao lưu của người Moravia - và họ ở lại thị trấn Johnstown đúng một đêm. Cậu đã nghe kể về Johnstown chưa?”
Harvey ngẫm nghĩ. “Có đấy. Tớ không hiểu vì sao, nhưng cái tên ấy cứ lẩn quẩn trong đầu tớ, y như là Ashtabula vậy.”
“Cả hai đều gắn với mấy tai nạn lớn, là thế đấy, Harve. Chà, cái đêm duy nhất mà Penn và vợ con chú ấy ở lại, khách sạn Johnstown đã bị lũ cuốn bay. Con đập bị vỡ, nước tràn khắp nơi, các ngôi nhà bị cuốn phăng và va vào nhau, rồi chìm nghỉm. Tớ đã xem ảnh rồi, đáng sợ lắm. Penn đã chứng kiến cả vợ lẫn con mình chìm trong nước trước khi chú ấy nhận ra chuyện gì vừa xảy đến. Đầu óc chú ấy có phần điên loạn kể từ đó. Chú ấy mơ hồ nhớ là có chuyện gì đó đã xảy ra với Johnstown, nhưng lại không nhớ gì về cuộc đời tội nghiệp của mình, và chú ấy cứ đi lang thang, vừa cười vừa nghĩ ngợi. Chú ấy không biết mình là ai, đã làm gì, và cứ thế, chú ấy tình cờ gặp bác Salters, lúc ấy đang đến thăm thành phố Allegheny. Một nửa số họ hàng bên nhà mẹ tớ sống ở Pennsylvania, và bác Salters thường đến đó vào mùa đông. Bác Salters đã đưa chú Penn về khi biết rõ hoàn cảnh của chú ấy; rồi bác đưa chú ấy lên phía đông và cho chú ấy làm việc trong nông trại của bác.”
“Tớ nghe bác ấy gọi chú ấy là nông dân Penn tối qua, khi mấy cái thuyền va vào nhau. Bác Salters của cậu là một nông dân à?”
“Chứ còn gì!” Dan khoái chí. “Có lấy hết nước từ đây cho đến Hatteras để rửa sạch bùn bám trên đôi ủng của bác ấy cũng chẳng đủ đâu. Bác ấy sẽ mãi là nông dân. Harve à, tớ từng thấy bác ấy cầm theo một cái xô lúc mặt trời sắp lặn, và vắt vắt cái vòi nước như thể đó là vú bò ấy. Lúa đến thế cơ mà! Chà, Penn và bác ấy trông nom một trang trại ở tít tận Exeter. Bác Salters đã bán trang trại đầu năm vừa rồi cho một gã ngốc đến từ Boston, người muốn xây một căn nhà để nghỉ dưỡng mùa hè, ông ta trả nhiều tiền lắm. Vậy nên, hai kẻ mất trí kia cứ lang thang khắp chốn, cho đến một ngày, nhà thờ của chú Penn - chú ấy từng là mục sư của người Moravia mà - họ tìm ra chú ấy đã trôi dạt về phương nào, và viết thư cho bác Salters. Không biết chính xác họ đã nói gì, nhưng bác Salters đã thực sự nổi điên. Bác ấy chủ yếu là theo Thánh Công hội, nhưng bác ấy cũng nói cho họ một trận ra trò, như thể bác ấy theo nhà thờ Cơ Đốc, và rằng bác ấy sẽ không giao chú Penn cho bất kỳ người Moravia nào tự nhận là có họ hàng với chú ấy ở Pennsylvania hay bất kỳ nơi nào khác.
Rồi bác đến gặp Bố, kéo theo cả Penn, chuyện đó cách đây đã hai chuyến ra khơi, và nói bác ấy và Penn cần ra khơi một chuyến cho khỏe lại. Chắc là bác ấy nghĩ lũ người Moravia sẽ không ra tận vùng Bank để tìm Jacob Boiler đâu. Bố cũng đồng ý thôi, vì bác Salters vẫn thỉnh thoảng ra khơi trong vòng ba chục năm qua, mỗi khi bác ấy không bận ủ phân chuồng, và bác ấy còn có một phần tư cổ phần trong thuyền Có chúng tôi đây!. Chuyến đi khiến chú Penn thấy khá hơn nhiều, Bố dần dần còn quen nói chuyện với chú ấy. Bố nói, một ngày nào đó, chú ấy sẽ nhớ ra vợ con mình cùng vụ việc ở Johnstown, và khi đó, chú ấy sẽ chết. Cậu đừng nhắc đến Johnstown hay mấy điều tương tự với Penn, không thì bác Salters sẽ ném cậu xuống biển đấy.”
“Tội nghiệp Penn!” Harvey lẩm bẩm. “Tớ chẳng bao giờ nghĩ bác Salters lại chăm cho chú ấy dữ như vậy, nếu nhìn vào cái cách họ cư xử với nhau.”
“Nhưng tớ quý chú Penn, mọi người đều như vậy.” Dan nói. “Mọi người sẽ phải làm đỡ chú ấy, tớ muốn nói cho cậu trước điều này.”
Họ đã về gần đến thuyền lớn, những chiếc xuồng khác thì đang ở phía sau họ.
“Không cần xếp thuyền vào cho đến khi ăn tối xong đâu.” Troop nói vọng xuống từ trên boong. “Chúng ta sẽ làm cá ngay bây giờ. Xếp bàn đi, mấy đứa!”
“Sâu hơn cả hố cá voi mà.” Dan nháy mắt nói trong lúc cậu xếp đồ cho khâu làm cá. “Nhìn mấy con thuyền mới mò đến từ sáng nay xem. Họ đều đang chờ động tĩnh từ Bố. Thấy không, Harve?”
“Tớ thấy chúng giống nhau cả lượt.” Và quả thực, với một người ở trên đất liền, những con thuyền đang gật gù ở xung quanh đây đều như được làm ra từ cùng một khuôn.
“Nhưng không phải thế đâu. Tàu chở hàng màu vàng dơ dáy, có cái rầm néo buồm bị nghiêng về một phía kia là thuyền Hy vọng của Prague. Nick Brady là thuyền trưởng, người đàn ông xấu tính nhất vùng Bank. Chúng ta sẽ nói với ông ta điều đó khi ta đào trúng kho cá ở Main Ledge. Phía xa kia là thuyền Mắt sáng. Hai người Jerauld[6] sở hữu nó. Nó đến từ Harwich, nó là thuyền đi nhanh nhất, và cũng sát cá; nhưng Bố tớ còn giỏi hơn, ông ấy tìm được cả cá trong nghĩa địa ấy chứ. Ba thuyền đi cạnh nhau kia làMargie Smith, Rose và Edith S. Walen, đều từ quê tớ đến. Tớ đoán chúng ta sẽ thấy thuyền Abbie M. Deering ngày mai, phải không Bố? Họ đều đang trôi về đây từ phía nam sông Ouareau.”
[6] . Một hạt ở Bắc Dakota, Mỹ.
“Ngày mai con sẽ không thấy nhiều thuyền đâu, Danny.” Khi Troop gọi tên con trai mình là Danny, đó là một dấu hiệu cho thấy ông đang hài lòng. “Này mấy đứa, ở đây đông quá rồi.” Ông tiếp tục nói và chào các thủy thủ khác khi họ trèo lên thuyền. “Chúng ta sẽ để họ thả mồi lớn nhưng chỉ bắt được cá nhỏ.” Ông nhìn vào đống cá bắt được trong chậu, và thật lạ lùng khi thấy lũ cá lại nhỏ và đồng đều đến như vậy. Ngoại trừ con cá chim của Harvey, không có con nào nặng quá mười lăm pound trên boong.
“Ta đang chờ thời tiết.” Ông nói thêm.
“Anh phải tự xoay xở thôi, Disko, tôi không nhìn thấy dấu hiệu nào hết.” Long Jack nói, hướng mắt ra chân trời đằng xa.
Thế mà, chỉ nửa giờ sau, trong khi họ đang làm cá, sương mù vùng Bank đã bao phủ lấy họ. “Chen vào giữa từng con cá một” như người ta vẫn nói. Sương kéo đến đều đặn và thành từng cuộn, bốc khói dọc theo mặt nước không màu. Không cần nói lời nào, những người đàn ông lập tức ngừng tay. Long Jack và bác Salters đẩy cái chặn trục cuốn vào trong bệ cột buồm và bắt đầu kéo neo lên; trục cuốn kêu lên ken két khi sợi dây ướt làm từ gai dầu căng ra, cứa vào thân cột. Manuel và Tom Platt cuối cùng cũng phải giúp họ một tay. Chiếc mỏ neo khẽ bật lên khỏi mặt nước, và chiếc buồm chính căng phồng lên khi Troop buộc dây thật chắc vào cột bánh lái. “Căng buồm tam giác và buồm trước lên.” Ông nói.
“Dong buồm vào màn sương nào!” Long Jack hô lên, cột chặt dây buồm tam giác, trong khi những người khác vừa kéo vừa lắc lắc phần vành của buồm trước; và nửa trước của thuyền Có chúng tôi đây! khẽ kêu lên kèn kẹt khi căng mình đón gió và lướt vào màn sương trắng mờ ảo đang cuộn khói.
“Gió sẽ đến sau đợt sương mù này.” Troop nói.
Harvey thấy chuyện này tuyệt vời đến nỗi không thốt nên lời, và phần tuyệt nhất là cậu không phải nghe mệnh lệnh nào từ Troop, trừ một vài tiếng gầm gừ thỉnh thoảng vang lên và kết thúc bằng câu: “Tốt lắm, con trai!”
“Chưa bao giờ thấy cảnh nhổ neo trước đây à?” Tom Platt hỏi trong khi Harvey đứng há hốc mồm nhìn vạt buồm trước ẩm ướt làm bằng vải dầu.
“Chưa ạ. Chúng ta đang đi đâu đây?”
“Đi câu và quăng lưới, rồi cậu sẽ biết khi ở trên thuyền chưa đầy một tuần. Chuyện này còn mới mẻ với cậu, nhưng chúng ta không bao giờ biết chuyện gì sẽ đến với mình. Ví dụ như ta đây - Tom Platt - ta chưa bao giờ nghĩ rằng...”
“Vẫn còn tốt hơn là kiếm được mười bốn đồng một tháng và ăn một phát đạn vào bụng.” Troop nói vọng ra từ phía bánh lái. “Để người to xác như anh đỡ phải làm việc nặng nhọc.”
“Tốt hơn nhiều lần ý chứ.” Người cựu chiến binh đáp lại trong lúc làm gì đó với một cái buồm tam giác lớn cột vào một mái chèo bằng gỗ. “Nhưng chúng tôi không nghĩ đến chuyện đó khi còn mải chặn trục cuốn ở trên tàu Miss Jim Buck ngoài cảng Beaufort, trong khi từ pháo đài Macon, họ bắn đạn vào đuôi tàu chúng tôi, lại còn giữa một trận bão lớn nữa chứ. Khi ấy anh đang ở đâu, Disko?”
“Ở ngay đây, hoặc quanh quanh đây.” Disko trả lời. “Kiếm cái ăn ở vùng biển sâu, và tránh các tàu tư nhân nổi loạn. Xin lỗi nhé, tôi không nên đánh đồng anh với hội bắn đạn đỏ, Tom Platt ạ; nhưng tôi đoán là chúng ta sẽ gặp cơn gió trước khi ta thấy Cực Đông.”
Có tiếng nước bắn lên và tiếng kẽo kẹt không dứt ở hai đầu tàu, thỉnh thoảng chen lẫn tiếng nện chắc nịch và nước bắn tóe lên khi va phải mũi tàu. Dàn ròng rọc nhỏ ra đầy thứ nước dinh dính, và những người đàn ông cúi xuống dưới thành thuyền để tránh bị ướt - tất cả trừ bác Salters, người vẫn ngồi im trên khoang chính, xoa xoa đôi bàn tay sưng vù.
“Tôi đoán là ta nên dùng buồm vuông.” Disko vừa nói vừa đảo mắt về phía anh trai mình.
“Tôi đoán là làm vậy chẳng có ích gì hết. Không dưng để phí vải dầu làm gì?” Gã cựu nông dân trả lời.
Bánh lái khẽ xoay trong tay Disko nhưng không ai nhìn thấy. Vài giây sau, một con sóng rít lên và xô chéo thân thuyền, ập xuống giữa hai vai bác Salters, làm bác ta ướt từ đầu đến chân. Bác ta vùng đứng dậy và tiến về phía trước, chỉ để lãnh thêm một đợt sóng nữa.
“Xem Bố lùa bác ấy quanh boong nhé!” Dan nói. “Bác Salters nghĩ đống vải buồm là cổ phần của bác ấy. Bố tớ đã làm thế này để chọc bác ấy suốt hai chuyến nay rồi. Ha! Có chạy đằng trời.” Bác Salters vừa mới núp cạnh cột buồm trước, nhưng một con sóng đã táp vào phía trên đầu gối của bác ta. Mặt Disko vẫn tỉnh bơ như không có gì.
“Có lẽ là thuyền sẽ bớt tròng trành khi giương buồm vuông, Salters ạ.” Disko nói, dù ông không nhìn thấy thứ gì cả.
“Cứ làm theo ý chú đi!” Kẻ khốn khổ kia gào lên dưới làn nước liên tiếp ập tới. “Nhưng đừng có đổ tại tôi nếu có chuyện gì xảy ra đấy. Penn, xuống dưới kia và uống chút cà phê ngay. Cậu phải thừa trí khôn để biết không nên lang thang trên boong giữa thời tiết này chứ.”
“Giờ thì họ sẽ nốc cà phê và chơi cờ một lúc lâu.” Dan nói, trong khi bác Salters giục Penn vào cabin phía trước. “Có vẻ chúng ta sẽ đều làm như vậy cả. Trần đời không có ai lười biếng và nhàn rỗi hơn một ngư dân ở vùng Bank khi họ không đi bắt cá.”
“May mà có cháu nhắc, Danny ạ.” Long Jack, người vẫn quanh quẩn trên thuyền để tìm thú vui, lên tiếng. “Ta đã quên mất là chúng ta có một vị khách đến từ Long Wharf[7]. Người nào chưa thuộc hết các loại dây trên tàu thì không được phép lười. Đưa cậu ta ra đây, Tom Platt, chúng ta sẽ dạy dỗ cậu ta một chút.”
[7] . Một địa danh ở Boston, quê hương của Harvey.
“Lần này thì tớ không cứu được cậu đâu.” Dan nhếch miệng cười. “Cậu phải học một mình thôi. Bố đã cho tớ một bài học từ lâu rồi.”
Suốt một giờ liền, Long Jack diễu con mồi của ông ta dọc trên boong, vừa đi vừa dạy cho cậu những điều mà, như ông ta nói, là: “Mọi người đàn ông khi đi biển đều phải biết, dù anh ta bị mù, đang say hay đang ngủ.” Không có nhiều dụng cụ đánh cá trên một chiếc thuyền nặng bảy mươi tấn không có gốc cột buồm trước, nhưng Long Jack rất có khiếu diễn thuyết. Mỗi khi muốn thu hút sự chú ý của Harvey về dây leo đỉnh, ông đều chặn các khớp ngón tay vào gáy cậu để cậu phải ngửa cổ lên nhìn nó suốt nửa phút. Ông nhấn mạnh sự khác biệt nhìn chung giữa buồm trước và sau bằng cách cọ mũi Harvey dọc theo trục ngang, và để cho Harvey nhớ được đầu của từng loại dây, ông dùng chính ngọn của dây ấy mà quất cho cậu một phát.
Bài học sẽ dễ dàng hơn nếu trên boong không có nhiều đồ, nhưng có vẻ thứ gì cũng có chỗ trên boong, trừ một thủy thủ. Ở phía trước có trục cuốn và dàn pa lăng, với đống dây xích và dây thừng bằng gai dầu, nếu mà vấp phải đống dây này thì thật chẳng dễ chịu gì. Còn có cả ống khói bếp và đống xô đựng gan cá ở cạnh khoang trước. Phía sau chúng là trục trước và nắp của khoang chính, chiếm gần hết khoảng không gian không cần thiết cho máy bơm và chậu lọc cá. Rồi đến những chiếc xuồng bị buộc vào các chốt có vòng cạnh boong lái; rồi đến buồng lái, với đủ loại xô chậu và đồ dùng bày bừa quanh đó. Và, cuối cùng, trục chính dài mười tám mét chạy dọc con thuyền, khiến ai nấy đều phải cúi xuống mà tránh mỗi lần đi qua.
Tom Platt, dĩ nhiên, không chịu đứng ngoài cuộc mà cứ chen ngang bằng mấy lời mô tả dài dòng và không cần thiết về các loại buồm và cột ở trên tàu Ohio ngày xưa. “Đừng để tâm tới những gì anh ta nói. Nghe ta đây này, nhóc. Tom Platt, thứ này không phải là tàu Ohio, anh đang làm thằng bé rối tung lên đấy.”
“Cậu ta sẽ hỏng cả đời nếu bắt đầu học về buồm trước và sau theo cách này.” Tom Platt nài nỉ. “Hãy cho cậu ta cơ hội được học một vài nguyên tắc đứng đầu. Lái tàu là một nghệ thuật, Harvey ạ, như ta sắp chỉ cho cậu đây, nếu cậu chịu theo ta lên mũi...”
“Tôi biết rồi. Anh sẽ khiến thằng bé chết ngất mất. Yên lặng đi, Tom Platt! Giờ thì, sau khi đã nghe ta nói, cậu sẽ cuốn mép buồm trước như thế nào, Harve? Cứ nghĩ cho kĩ đi rồi trả lời.”
“Kéo nó vào.” Harvey nói và chỉ ngược hướng gió thổi.
“Cái gì? Vùng Bắc Đại Tây Dương à?”
“Không, trục ngang. Rồi kéo sợi dây mà bác chỉ đằng kia...”
“Không đúng đâu.” Tom Platt chen vào.
“Yên nào! Thằng bé đang học và vẫn chưa thuộc hết tên. Tiếp đi, Harve.”
“Ồ, đó là cờ hiệu. Cháu sẽ móc pa lăng vào dây treo cờ, rồi hạ xuống...”
“Hạ buồm xuống, nhóc ạ. Hạ buồm xuống!” Tom Platt nói, ra vẻ khó chịu như một vị sếp.
“Hạ cả dây đáy họng và dây đỉnh buồm xuống.” Harvey nói tiếp. Những cái tên này cứ luẩn quẩn trong đầu cậu.
“Đặt tay cậu lên đó xem nào.” Long Jack nói.
Harvey nghe theo. “Hạ xuống cho đến khi cái lỗ trên dây... trên cái khuy... không, đó là cái khuyên sắt ở mép buồm, cho đến khi cái khuyên đã nằm trên trục ngang. Sau đó cột nó lại theo cách mà bác dạy rồi cháu lại kéo dây đỉnh và dây cuống họng lên.”
“Cậu đã quên đẩy các vòng pa lăng, nhưng rồi dần dần tôi sẽ giúp cậu nhớ được. Loại dây nào trên tàu cũng có tác dụng riêng, không thì nó đã bị ném xuống biển rồi. Cậu hiểu không? Tôi đang nhét tiền vào túi cậu đấy, búp bê ạ, để khi đã thành thạo, cậu có thể lái thuyền từ Boston đến Cuba và nói cho họ biết là Long Jack đã dạy cậu. Giờ ta sẽ đi một vòng, kể tên các loại dây, và cậu hãy chỉ tay vào đó mỗi khi tôi gọi tên nó.”
Ông ta bắt đầu, và Harvey, lúc này đã cảm thấy thấm mệt, đi chầm chậm về phía những loại dây được gọi tên. Một đầu dây thừng liếm qua sườn cậu, chút nữa thì khiến cậu nghẹt thở.
“Khi nào cậu làm chủ một con thuyền...” Tom Platt trừng mắt lên nói. “Cậu có thể đi thong thả. Còn từ giờ cho tới lúc đó, đã nghe lệnh thì phải lập tức chạy đi mà làm. Lại lần nữa nào, cho chắc!”
Harvey vốn đã nóng bừng người vì bài học vừa qua, vết roi cuối cùng này càng khiến cậu sôi máu. Cậu vốn là một đứa bé thông minh, con trai của một người đàn ông khôn ngoan và một phụ nữ nhạy cảm, sẵn tính cương quyết và còn được chiều chuộng hết mực nên bướng như một con lừa. Cậu nhìn những người trên thuyền, và thấy ngay cả Dan cũng không mỉm cười. Rõ ràng đây vẫn là một phần công việc trên thuyền, nhưng nó khiến cậu quặn ruột. Vì thế, cậu cố nuốt cục tức xuống, lấy hơi và mỉm cười. Chính cái thói tinh ranh đã giúp qua mặt mẹ cậu nhiều lần này khiến cậu nhận ra một cách chắc chắn rằng không ai trên thuyền, có lẽ là trừ Penn, sẽ chịu đựng được mấy trò ăn vạ vô ích của cậu. Người ta có thể luận ra nhiều điều từ giọng nói của ai đó. Long Jack gọi tên cả nửa tá dây, và Harvey lượn qua lượn lại như chong chóng trên boong, một mắt vẫn nhìn Tom Platt không dời.
“Tốt lắm. Tốt lắm con trai!” Manuel nói. “Sau bữa tối, ta sẽ chỉ cho cậu cái tàu nhỏ mà ta đã làm, đầy đủ các loại dây. Rồi chúng ta sẽ học.”
“Hành khách hạng nhất đấy.” Dan nói. “Bố đã nhận ra là cậu đáng công nuôi ăn nuôi ở mà. Với Bố, thế là nhiều lắm đấy. Tớ sẽ dạy thêm cho cậu vào ca trực tới, khi ta trực cùng nhau.”
“Cao hơn nữa!” Disko gằn giọng, nhìn qua màn sương mù khi nó kéo qua mũi tàu. Tầm nhìn không quá ba mét ở phía trên trục buồm tam giác, trong khi ở bên mạn thuyền, những con sóng lặng lẽ và nhợt nhạt vẫn cứ vỗ vào không ngớt, chồm lên đầu nhau và kêu ầm ì.
“Giờ ta sẽ dạy cậu một thứ mà Long Jack không thể.” Tom Platt nói vọng ra từ một cái rương cạnh đuôi tàu. Ông ta tìm ra một cái hòn chì đo độ sâu đã bị đập dẹt và rỗng ở một đầu, bôi quanh cái lỗ ấy đầy mỡ cừu từ một chiếc chén và tiến về phía trước. “Ta sẽ dạy cậu cách quăng Chim Câu Xanh. Xùy!”
Disko bẻ bánh lái để đổi hướng con thuyền chéo sang, trong khi Manuel, với sự giúp sức của Harvey (và Harvey rất tự hào về điều này), hạ buồm tam giác xuống một cái bướu trên trục ngang. Cái hòn chì phát ra tiếng rì rì khá trầm trong khi Tom Platt quăng nó quanh đầu.
“Cứ đi thẳng đi.” Long Jack nói bằng giọng sốt ruột. “Chúng ta không thể đi quá hai mươi lăm bộ khỏi đảo Fire trong màn sương này đâu. Không có mánh nào đâu.”
“Đừng có ghen tức, Galway ạ.” Hòn chì được quăng ra rơi tõm xuống mặt biển đằng xa, trong khi thuyền chầm chậm tiến về phía trước.
“Ấy vậy mà, đo độ sâu cũng cần có mánh.” Dan nói. “Khi hòn chì là thứ duy nhất bạn có thể dùng được trong vòng một tuần. Bố nghĩ thế nào?”
Gương mặt của Disko dãn ra. Kỹ năng và danh tiếng của ông có được là do ông luôn đi trước tất cả các thành viên còn lại trong đoàn, và ông được biết đến như một nghệ sỹ bậc thầy, người vén được bức màn bí mật của vùng Bank. “Có thể là sáu mươi, nếu ta đoán đúng.” Ông trả lời, mắt liếc sang chiếc la bàn nhỏ trên cửa sổ buồng lái.
“Sáu mươi.” Tom Platt nghêu ngao nhại, rồi thu dây về, cuộn thành cuộn lớn và ướt nhẹp.
Con thuyền lại đổi hướng. “Kéo lên đi!” Disko nói, sau hai mươi lăm phút.
“Bố nghĩ là bao nhiêu?” Dan thì thầm trong khi nhìn sang Harvey đầy tự hào. Nhưng Harvey cũng đang mải mê tự mãn với màn trình diễn của mình nên chẳng buồn bận tâm.
“Năm mươi.” Ông bố nói. “Ta tưởng chúng ta ở ngay rìa Green Bank, vẫn tầm sáu mươi, năm mươi như cũ.”
“Năm mươi!” Tom Platt lại rống lên. Họ gần như không nhìn thấy ông ta trong màn sương. “Xa nhất là được gần một mét - giống như những phát đạn của pháo đài Macon.”
“Gắn mồi vào, Harve.” Dan nói, mò tìm dây câu trong cuộn dây.
Con thuyền có vẻ như đang mò mẫm tìm đường trong màn sương, buồm mũi của nó quật phần phật. Những người đàn ông chờ đợi và nhìn hai đứa trẻ bắt đầu buông câu.
“To quá!” Sợi dây của Dan xoay mòng trên thành thuyền đầy những vết cứa và hằn. “Làm thế quái nào mà Bố biết được nhỉ? Giúp tớ nào, Harve. Là một con to đấy. Mắc vào tận bụng!” Cả hai cùng kéo dây vào và bắt được một con cá tuyết mắt lồi nặng hai mươi pound. Nó quả đã nuốt mồi xuống tận bụng.
“Sao cua lại bám đầy trên người nó thế này?” Harvey nhăn nhó khi lật nó lại.
“Nhìn cách nó đớp câu thì biết chúng đã hám mồi lắm rồi.” Long Jack nói. “Disko, nhớ để mắt ở dưới sống thuyền.”
Mỏ neo được thả đánh tõm xuống nước, và ai nấy đều thi nhau thả dây câu, mỗi người chiếm một chỗ ở trên thành tàu.
“Thứ này có ăn được không?” Harvey thở dốc trong khi lôi lên một con cá tuyết bám đầy cua nữa.
“Có chứ. Khi chúng hám mồi, đó là dấu hiệu cho thấy chúng đang bơi thành từng đàn, đến hàng nghìn con, và khi chúng đớp mồi như vậy có nghĩa là chúng đang đói. Không cần bận tâm chuyện ta móc mồi như thế nào. Có khi chúng còn cắn cả vào lưỡi câu không ấy chứ.”
“Tuyệt quá!” Harvey thốt lên, trong khi con cá đớp đớp và quẫy liên hồi trên sàn thuyền - gần như nuốt lưỡi câu vào tận bụng, như Dan đã nói. “Sao ta không câu cá từ trên thuyền thay vì xuống xuồng?”
“Được chứ, cho đến khi ta làm cá. Kể từ sau đó, mùi của những phần đầu và ruột bị cắt ra sẽ xua chúng chạy đến tận Fundy. Việc câu cá trên thuyền không được coi là hiệu quả lắm, trừ khi cậu hiểu biết nhiều như Bố. Chắc là ta sẽ thả lưới đêm nay. Làm thế này thì đau lưng hơn khi ngồi trên xuồng nhỉ?”
Công việc quả là nặng nhọc, vì khi ở trên xuồng ba lá, sức nặng của một con cá tuyết được nước nâng đỡ cho đến phút cuối, vì thế, bạn ở ngang tầm con cá. Nhưng khi ở trên thuyền và cách mặt nước vài mét, sẽ có thêm nhiều sức kéo chết, và việc gập người xuống thành tàu khiến cơ bụng bị đau. Nhưng màn câu cá này vẫn hết sức sôi nổi cho đến phút cuối; và khi lũ cá ngừng đớp mồi thì ở trên boong cũng đã có một đống cá to.
“Penn và bác Salters đâu?” Harvey hỏi, trong khi gạt đống nhớp nháp khỏi chiếc áo vải dầu, và cuộn dây câu lên thật cẩn thận như những người xung quanh đang làm.
“Cậu đi lấy cà phê rồi xem sao.”
Dưới ánh đèn vàng của ngọn đèn trên cây cột chốt, chiếc bàn ở mũi tàu đã được hạ xuống, và ở đó, hai người đàn ông đang ngồi yên lặng, không hề hay biết về lũ cá hay thời tiết bên ngoài. Ở giữa họ là một bàn cờ, và bác Salters lại cằn nhằn sau mỗi nước cờ của chú Penn.
“Có chuyện gì nào?” Bác Salters hỏi khi thấy Harvey, một tay bám vào cái vòng da ở đầu cầu thang, ngó xuống và lớn tiếng nói với ông đầu bếp.
“Cá to và hám mồi, được cả đống.” Harvey dẫn lại lời của Long Jack. “Ván cờ sao rồi?” Penn bé nhỏ há hốc mồm.
“Đó không phải là lỗi của cậu ta.” Bác Salters nạt lại. “Penn bị điếc rồi.”
“Cờ đam phải không?” Dan nói khi Harvey loạng choạng bước đi, đem theo chiếc xô nhôm đựng cà phê còn bốc khói. “Vậy là chúng ta thoát vụ dọn dẹp tối nay. Bố là người công bằng. Họ sẽ phải làm thay.”
“Và hai anh bạn trẻ này sẽ gắn mồi cho một chậu lưới trong lúc họ dọn dẹp.” Disko nói rồi xoay bánh lái với vẻ hài lòng.
“Ừm! Con thà lau dọn còn hơn, Bố ạ.”
“Ta biết thừa. Nhưng con sẽ không phải dọn dẹp đâu. Làm cá nào! Làm cá nào! Penn sẽ ném cá xuống trong khi hai đứa gắn mồi.”
“Tại sao hai thằng bé không bị đổ lỗi khi không nói cho tôi chú đã tìm được đàn cá?” Bác Salters nói rồi tiến đến bên chỗ ngồi của mình trên bàn. “Con dao này cùn rồi, Dan.”
“Nếu tiếng quăng dây câu không đủ làm bác thức giấc thì bác nên thuê lấy một thằng bé nhắc việc riêng.” Dan nói, không ngừng mò mẫm trong bóng tối để tìm những chậu đựng đầy lưới và đẩy về phía khoang lái. “Ôi, Harve, cậu có muốn trèo xuống lấy mồi không?”
“Lấy mồi tươi đi.” Disko nói. “Ta đã lầm khi nghĩ rằng nhử cá bằng mồi cũ sẽ tốt hơn, như vừa nãy.”
Như vậy có nghĩa là hai đứa bé sẽ chọn ít ruột cá làm mồi trong lúc làm sạch cá - một sự cải thiện đáng kể so với việc khua khoắng bằng tay không trong cái thùng đựng mồi nhỏ bên dưới. Trong các chậu đựng đầy những cuộn dây được cuốn gọn gàng, mỗi mét lại gắn một cái móc câu lớn. Việc kiểm tra và gắn mồi cho từng lưỡi câu gắn trên dây câu để khi quăng từ thuyền xuống nó không bị rối là một công việc đòi hỏi sự khéo léo. Dan thì luôn tay làm trong bóng tối mà không cần nhìn, trong khi Harvey thì cứ cứa ngón tay phải đống dây gai và ngồi ca cẩm về số phận của mình. Mấy lưỡi câu cứ bay trên những ngón tay của Dan, thành thạo như một bà cụ ngồi móc len. “Tớ đã phụ Bố gắn mồi cho lưới ở trên bờ trước khi tớ biết đi vững.” Cậu ấy nói. “Nhưng việc này muôn đời vẫn nhàm chán. Ôi kìa, Bố!” Cậu hét về phía khoang chính, nơi Disko và Tom Platt đang ướp muối. “Bố nghĩ ta cần bao nhiêu cuộn?”
“Khoảng ba cái. Nhanh lên!”
“Mỗi chậu đựng tầm ba trăm sải dây.” Dan giải thích. “Thừa đủ để quăng lưới tối nay. Ối! Bị trượt tay rồi.” Cậu cho ngón tay vào mồm. “Tớ nói này, Harve, ở Gloucester họ có trả bao nhiêu tiền để thuê tớ đi thuyền kéo lưới rà cũng không được đâu. Nó có thể tân tiến đấy, nhưng ngoài khoản đó ra, đó là thứ việc nhàm chán, buồn ngủ nhất quả đất.”
“Tớ còn không biết đây là gì, nếu nó không phải là kéo lưới rà.” Harvey nói với vẻ cau có. “Tay tớ bị cứa tùm lum rồi.”
“Ôi dào! Đây là một trong những kinh nghiệm trứ danh của Bố. Ông ấy sẽ không quăng lưới rà trừ khi có lý do tốt để làm như vậy. Bố tớ biết hết. Vì thế, ông ấy mới cho gắn mồi như thế này. Hoặc là ta sẽ thấy đầy ự cá khi kéo lưới lên, hoặc là không có một vảy cá nào.”
Penn và bác Salters dọn dẹp theo lệnh của Disko, nhưng hai đứa nhỏ cũng được hưởng lợi chút xíu. Ngay khi mấy chậu dây đã gắn mồi xong, Tom Platt và Long Jack, hai người đang cầm đèn xem xét con xuồng, vội vàng cướp lấy mấy chậu lưới, cho thêm vào đó mấy cái phao câu sơn màu sặc sỡ, và đẩy xuồng xuống mặt biển đang cuộn sóng dữ dội trước mắt Harvey. “Họ sẽ chìm mất. Con xuồng chở nặng thế kia cơ mà.” Cậu hốt hoảng.
“Chúng ta sẽ trở lại.” Long Jack nói. “Và trong trường hợp cậu không để ý tìm chúng ta, chúng ta sẽ hỏi tội cả hai nếu lưới bị rối.”
Chiếc xuồng nhỏ chồm lên một ngọn sóng, và ngay khi có vẻ như định va vào một bên mạn thuyền, nó lại đảo sang bên cạnh và mất hút vào trong bóng tối mịt mù.
“Cậu cứ đứng đây và rung chuông đều đặn nhé!” Dan nói rồi đưa cho Harvey cái dây giựt chuông treo ngay sau trục cuốn.
Harvey rung cật lực, vì cậu có ý thức rằng hai sinh mạng kia phụ thuộc vào cậu. Nhưng ở trong cabin, Disko chỉ rà soát lại cuốn hải trình với vẻ mờ ám, và đến bữa tối, ông còn nở nụ cười khô khan khi thấy Harvey tỏ ra lo lắng.
“Thời tiết thế này đã là gì.” Dan nói. “Tớ và cậu cũng thả đống lưới đó được! Họ chỉ đi đủ xa để không làm rối dây thôi. Họ cũng không cần ai rung chuông đâu.”
Ring! Ring! Ring! Harvey vẫn tiếp tục rung, thỉnh thoảng lại thay đổi nhịp điệu, suốt nửa tiếng sau đó. Có một tiếng rống lớn và một cú xóc nhẹ bên mạn thuyền. Manuel và Dan lao ra giữ móc của xuồng. Long Jack và Tom Platt cùng trèo lên boong, có vẻ như kéo theo cả nửa Bắc Đại Tây Dương trên lưng, và con xuồng bay lên theo họ rồi hạ cánh xuống sàn thuyền cùng tiếng đập mạnh. “Rối tung rối mù.” Tom Platt nói trong khi nước không ngừng nhỏ tong tỏng từ người ông ta. “Danny, cháu làm giỏi lắm.”
“Xin hân hạnh hộ tống cậu đến bữa tiệc.” Long Jack nói, dốc hết nước từ trong ủng ra trong khi dộng chân ầm ầm như một con voi, và quệt cánh tay áo vải dầu vào mặt Harvey. “Chúng ta cũng đã ban cho chiếu dưới một ân huệ khi ngồi ăn cùng họ rồi.” Rồi cả bốn người cùng vào bàn ăn tối. Harvey đã chén đẫy món súp cá và bột mì rán, sau đó chìm vào giấc ngủ ngay trước khi Manuel lôi từ trong hòm ra một mô hình tàu Lucy Holmes dài sáu mươi centimet, con thuyền đầu tiên của anh ta, và đang định cho Harvey xem đống dây trên đó. Harvey ngủ say đến nỗi không cả vẫy tai khi Penn đẩy cậu vào giường.
“Quả là một điều đáng buồn, vô cùng đáng buồn...” Penn nói khi quan sát gương mặt cậu. “Đối với cha mẹ thằng bé, khi nghĩ con mình đã chết. Nỗi đau mất con, lại còn là con trai nữa chứ!”
“Ra khỏi đây đi, Penn.” Dan nói. “Ra phía sau và chơi nốt ván cờ với bác Salters đi. Nói với bố cháu là cháu sẽ trực thay Harvey nếu cậu ấy không tỉnh. Cậu ấy chết giấc rồi.”
“Thằng bé giỏi lắm!” Manuel nói và cởi ủng ra, rồi biến mất trong cái giường bên dưới. “Ta nghĩ nó sẽ lớn lên thành một gã tốt, Danny ạ. Ta không thấy nó điên loạn như lời bố cháu kể đâu. Phải không?”
Dan cười khúc khích, nhưng rồi cũng lăn ra ngáy luôn sau đó.
Sương mù bên ngoài dày đặc, và gió đang lên, những người lớn đều căng mắt ra trong ca trực. Đồng hồ trong cabin ngân nga, mặt biển té nước và chà xát hai đầu thuyền; các ống khói từ mũi tàu rít lên và nổ đí đốp khi bị nước bắn vào. Hai đứa bé vẫn ngủ trong khi Disko, Long Jack, Tom Platt, và bác Salters, lần lượt từng người, ra phía sau để canh bánh lái, ra đằng trước để kiểm tra neo, hoặc tung ra thêm ít dây thừng, trong khi canh chừng ngọn đèn neo leo lét giữa mỗi ca trực.