K
hi Harvey tỉnh giấc, cậu thấy “chiếu trên” đang ăn sáng, cánh cửa khoang kêu răng rắc, và thứ gì trên tàu cũng kêu theo cách riêng của chúng. Chỗ ngủ của ông đầu bếp chênh vênh phía sau một cái chạn bên bếp lò, và đống xoong nồi treo trước cái bảng gỗ đã bị đục thủng lỗ chỗ kêu lên ken két rồi va vào nhau theo từng nhịp sóng. Mũi tàu cứ trồi lên một cách mạnh mẽ, rồi lắc lư, và rồi, bằng một cú hẫng, nó đột ngột hạ xuống mặt biển theo hình lưỡi liềm. Cậu nghe thấy hai đầu thuyền cứ đâm bổ vào lớp sóng, và có một khoảng ngưng khi các đợt sóng cách nhau xô lên boong, như một loạt đạn súng ngắn. Theo sau tiếng gằn nặng nề của sợi dây trong lỗ dây neo và một tiếng gầm gừ chửi thề của trục cuốn là một tiếng ngáp và tiếng đập, rồi thuyền Có chúng tôi đây! đã lại sẵn sàng lặp lại quy trình trên.
“Nếu là ở trên bờ...” Cậu nghe thấy Long Jack nói. “... ta sẽ có việc cần làm, và phải làm dù thời tiết có thế nào chăng nữa. Còn ở đây, chúng ta đã tránh được các thuyền khác, và lại không có việc gì - điều ấy quả là may mắn. Chúc ngủ ngon.” Ông ta trườn đi như một con rắn lớn từ chiếc bàn đến chỗ nằm của mình, và bắt đầu hút thuốc. Tom Platt cũng làm như vậy; bác Salters, cùng với Penn, lật đật trèo lên thang để vào ca trực, còn ông đầu bếp chuẩn bị đồ ăn cho “chiếu dưới”.
Họ trèo ra từ các hốc của mình theo cái cách những người vừa rồi trèo vào, vươn vai ngáp dài. Họ ăn cho đến khi đã no căng bụng, và rồi Manuel nhồi đầy cái tẩu của anh ta bằng loại thuốc lá rẻ tiền, thu mình vào giữa cột bánh lái và một hốc hướng ra đằng trước, gác một chân lên bàn, mỉm cười một cách dịu dàng và nhàn nhã sau làn khói. Dan nằm dài trong hốc, vật lộn với chiếc đàn accordion bạc thếch, xấu xí, tiếng đàn cứ lên bổng xuống trầm theo nhịp của thuyền Có chúng tôi đây!. Ông đầu bếp, vai tựa vào chiếc rương - nơi ông ấy cất bánh bột mì rán (Dan rất thích bánh bột mì rán), vừa gọt khoai tây, một mắt thì canh chừng bếp để tránh nước từ trên tràn xuống. Thứ mùi tổng hợp trong bếp quyện với sương mù thật khó tả.
Harvey nhìn ngó xung quanh, tự ngẫm xem mình có say sóng nặng lắm không, và trèo lại vào trong hốc, nơi an toàn và mềm mại nhất, trong khi Dan hát câu Tôi không muốn chơi trong sân nhà cậu[8] bằng cái giọng giống hệt mấy gã bụi đời.
[8] . Một bài hát thời xưa.
“Chúng ta sẽ như thế này bao lâu?” Harvey hỏi Manuel.
“Cho đến khi biển lặng hơn, rồi ta có thể chèo xuồng ra chỗ thả lưới. Có thể là tối nay. Mà cũng có thể là hai ngày nữa. Cậu không thích thế này, phải không?”
“Nếu là tầm một tuần trước thì cháu đã say đứ đừ rồi, nhưng giờ cháu không thấy khó chịu lắm.”
“Đó là vì chúng ta đã biến cậu thành một ngư dân sau mấy ngày vừa qua. Nếu ta là cậu, khi về đến Gloucester, ta sẽ đốt hai, ba cây nến lớn để cảm tạ thần linh.”
“Đốt cho ai cơ?”
“Chắc chắn là cho Đức Mẹ của nhà thờ ở vùng Hill rồi. Bà ấy lúc nào cũng rất tốt với các ngư dân. Thế nên người Bồ Đào Nha chẳng mấy khi chết đuối.”
“Chú theo Kitô giáo à?”
“Ta là một người Madeira. Ta không phải là người Puerto Rico. Ta có được rửa tội không à? Thì sao? Ta luôn dâng hai cây nến, hoặc là ba, mỗi lần ta đến Gloucester. Đức Mẹ Đồng Trinh không bao giờ quên ta, Manuel.”
“Tôi không nghĩ như vậy đâu.” Tom Platt chen vào từ trong hốc của mình, khuôn mặt sẹo của ông sáng lên nhờ ánh lửa từ cây diêm châm tẩu. “Biển thì vẫn là biển, và cái gì đến thì vẫn cứ đến với anh, dù đốt nến hay dầu đi chăng nữa.”
“Dù sao thì cũng thật tuyệt vời...” Long Jack nói. “Khi có một người bạn ở nhà thờ. Tôi cũng nghĩ giống như Manuel. Chừng mười năm trước, tôi đang ở trên một tàu chợ đến Nam Boston. Chúng tôi khởi hành từ ngọn hải đăng Minot’s Ledge với gió thổi về hướng đông bắc, nhưng ở trước mặt chúng tôi là màn sương mù dày đặc hơn cả nước xốt thịt hầm. Thuyền trưởng già đã say khướt, cằm ông ta đu đưa trên tay bánh lái, và tôi tự nhủ: “Nếu tôi lại được móc dây neo con thuyền vào bờ ở T-wharf lần nữa, tôi sẽ cho các vị Thánh biết họ đã cứu một người như thế nào.” Giờ thì tôi đang ở đây, mọi người thấy đấy, và mô hình Thánh Catherine mà tôi mất một tháng để làm, tôi đã đưa cho Cha xứ, và ông ấy treo lên đối diện bệ thờ. Tặng tượng như thế thì đúng chất nghệ thuật hơn là dâng nến. Anh có thể mua nến từ các cửa tiệm, nhưng bức tượng sẽ cho các vị Thánh biết anh đã bỏ công sức ra và rất biết ơn họ.”
“Anh tin điều đó à, người Ireland?” Tom Platt nói và chống khuỷu tay lên.
“Không tin thì tôi mua làm gì, hả Ohio?”
“Chà, Enoch Fuller đã làm một mô hình tàu Ohio cũ, và nó đang ở bảo tàng Calem rồi. Cái mô hình đó đẹp tuyệt vời, nhưng tôi đoán Enoch không làm nó để làm vật tế, và theo tôi hiểu thì...”
Đây là kiểu nói chuyện mà các ngư dân thích, và nó đã kéo dài một giờ liền, họ cứ lần lượt hét vào mặt nhau và đến cuối vẫn không ai chứng minh được điều gì, cho đến khi Dan cất lên giai điệu vui vẻ này:
Con cá thu lưng có sọc nhảy lên thuyền. Cuốn buồm lại và thu dây về... Vì hôm nay trời gió...
Và Long Jack cũng phụ họa theo:
Hôm nay trời gió. Khi gió bắt đầu thổi, mọi người hãy đặt tay lên ống khói!
Dan tiếp tục hát, vừa hát vừa nhìn Tom Platt, người đang cầm cái đàn accordion ở trong hốc dưới, một cách thận trọng:
Con cá tuyết đầu tù nhảy lên thuyền. Ra chỗ dây neo chính để quăng con chì. Vì hôm nay trời gió...
Tom Platt có vẻ đang tìm thứ gì đó. Dan bò xuống thấp hơn và hát to hơn:
Con cá bơn nhảy lên rồi quẫy mình trên sàn. Đầu tù! Đầu tù! Hãy để mắt đến chỗ quăng con chì!
Cái ủng cao su to đùng của Tom Platt văng qua mũi tàu và va vào cánh tay đang khua lên của Dan. Hai người họ đã hục hặc với nhau kể từ khi Dan phát hiện ra rằng chỉ cần huýt sáo bài đó thôi cũng đủ để khiến ông ta nổi điên mỗi khi quăng con chì.
“Cháu biết ngay mà.” Dan nói rồi ném trả ông ta món quà. “Nếu không thích mấy bài hát của cháu thì bác lấy vĩ cầm ra mà chơi. Cháu không nằm đây cả ngày để nghe bác và Long Jack cãi nhau về lũ nến đâu. Vĩ cầm kìa, Tom Platt! Không thì cháu sẽ dạy Harve hát bài này!”
Tom Platt cúi xuống một cái rương và lấy ra một cây vĩ cầm cũ màu trắng. Mắt Manuel sáng lên, và từ đâu đó phía sau cột bánh lái, anh ta lấy ra một thứ trông giống như cây đàn guitar tí hon với dây bằng sợi gai, mà anh ta gọi là đàn machette.
“Đây là một buổi hòa nhạc.” Long Jack nói qua làn khói. “Buổi hòa nhạc thường kỳ ở Boston.”
Nước té vào trong khi cánh cửa khoang mở ra và Disko bước xuống trong cái áo vải dầu màu vàng.
“Anh đến đúng lúc đấy, Disko. Bên ngoài có chuyện gì thế?”
“Không có gì cả!” Ông ngồi phịch xuống chiếc rương theo nhịp lắc của thuyền Có chúng tôi đây!.
“Chúng tôi đang hát để không bị say. Dĩ nhiên anh là nhạc trưởng, Disko ạ.” Long Jack nói.
“Chắc là chỉ có khoảng hai bài hát cũ mà tôi biết thôi, và mọi người đều nghe cả rồi.”
Cái cớ đó của ông đã bị Tom Platt chặn ngang bằng cách tấu lên một giai điệu đau thương nhất trên đời, như thể hòa vào tiếng gió gào và tiếng các cột buồm rên rỉ. Mắt vẫn không rời mấy cây cột phía trên, Disko bắt đầu khúc hát cũ rích, Tom Platt phụ họa xung quanh để khớp lời với giai điệu:
Có một con tàu chở hàng cũ nổi tiếng. Nó đi từ New York, tên nó là Dreadnought.
Bạn cứ khoe khoang về mấy con tàu của bạn, Swallowtail and Black Ball. Nhưng Dreadnought sẽ đánh bại tất cả.
Giờ thì tàu Dreadnought đậu trên sông Mersey, chờ tàu kéo nó ra biển
Nhưng khi nó đã ra biển, bạn sẽ biết ngay thôi...
(Điệp khúc)
Đó là tàu chở hàng của Liverpool - Xin Chúa để nó đi!
Giờ thì tàu Dreadnought đang bơi qua vùng bờ Newfoundland, nước nông và đáy toàn cát.
Lũ cá bơi quanh đó đều hát:
(Điệp khúc)
Đó là tàu chở hàng của Liverpool - Xin Chúa để nó đi!
Đó là phần lời chính của bài hát, vì ông kể lại từng dặm một trong hành trình của Dreadnought từ Liverpool đến New York một cách tận tâm như thể ông ở trên con tàu đó, bên cạnh là đàn accordion kêu dặt dìu, tiếng vĩ cầm réo rắt. Tom Platt hùa theo với bài hát gì đó về “Mc. Ginn dũng cảm, ngoan cường, người dẫn đường cho thuyền vào.” Rồi họ gọi đến tên Harvey, yêu cầu cậu góp vui, khiến cậu rất tự hào, nhưng tất cả những gì cậu nhớ được là mấy đoạn trong bài Chuyến đi của thuyền trưởng Ireson mà cậu được học ở lớp học hè vùng Adirondacks. Nó có vẻ phù hợp với dịp này, nhưng cậu chưa kịp nói hết tên bài hát thì Disko đã giậm chân xuống sàn và nói: “Đừng hát bài đó, anh bạn trẻ ạ. Đó là một sự nhầm lẫn, còn là sự nhầm lẫn tệ hại bậc nhất nữa, vì bài này lại rất vui tai.”
“Tớ phải cảnh báo cậu.” Dan nói. “Bài đó làm Bố tức điên.”
“Vì sao?” Harvey vừa ngạc nhiên, vừa có phần tức tối.
“Tất cả những gì ta muốn nói là...” Disko cất lời. “Mọi việc đều sai từ đầu đến cuối, và lỗi là ở Whittier. Ta không có quyền phán xét những người ở Marblehead, nhưng đó không phải là lỗi của Ireson. Cha ta đã kể cho ta câu chuyện ấy nhiều lần, và đó mới là sự thật.”
“Đến cả trăm lần.” Long Jack thì thầm.
“Ben Ireson là thuyền trưởng tàu Betty, nhóc ạ, họ đang trở về từ vùng Bank - đó là trước cuộc chiến năm 1812, nhưng công lý thì vẫn là công lý. Họ thấy tàu Active of Portland, thuyền trưởng con tàu đó là Gibbons. Họ thấy nó bị thủng ở ngoài khơi mũi Cod Light. Một cơn bão lớn đang quần đảo vùng biển, và họ đang cố gắng đưa tàu Betty về nhà càng sớm càng tốt. Chà, Ireson nói là không ích gì khi cứu một con tàu bị thủng trên biển, nhưng đám thủy thủ không chịu nghe. Nên ông ấy đề nghị ở lại cạnh tàu Activecho đến khi biển lặng hơn. Nhưng họ cũng không chịu nghe, cứ bơi quanh vùng mũi trong thứ thời tiết như thế. Họ cuốn buồm chính lên và đình công, buộc Ireson phải theo họ. Những người đến Marblehead nổi giận vì ông ấy không điều hành được đám thủy thủ, và ngày hôm sau, khi biển lặng (họ không bao giờ nghĩ đến điều đó), một vài thủy thủ trên tàu Active được một người Truro cho lên thuyền. Họ đến Marblehead và nói rằng Ireson đã làm ô nhục thị trấn của ông, cùng nhiều chuyện khác, và các thủy thủ của Ireson thì sợ hãi trước dư luận, phản bội Ireson, và thề rằng ông ấy phải chịu trách nhiệm về vụ việc ngu ngốc ấy. Đám phụ nữ và người da màu không chỉ trích ông ấy - những người phụ nữ Marblehead không cư xử như vậy - mà là một nhóm đàn ông và thanh niên mới lớn. Họ kéo lê ông ấy quanh thị trấn trên một cái xuồng cũ cho đến khi đáy xuồng bục cả ra, và Ireson nói sẽ có ngày họ phải hối hận. Sau đó một thời gian, sự thật cũng được phơi bày, như chúng vốn vậy. Nhưng thế là đã quá muộn, chẳng có ích gì với một người đàn ông chân chính nữa; còn Whittier nghe được đoạn cuối của một câu chuyện dối trá, và lại sỉ nhục Ben Ireson một lần nữa sau khi ông ấy đã chết. Đó là bài hát duy nhất Whittier từng viết, và chuyện đó thật không công bằng. Ta đã cho Dan một trận khi nó học được thứ đó ở trường. Dĩ nhiên cậu thì chẳng biết gì, nhưng ta đang kể cho cậu sự thật để từ rày về sau cậu nhớ lấy. Ben Ireson không phải loại người như Whittier đã nói; cha ta biết rõ ông ấy, trước và cả sau vụ lùm xùm đó, và cậu đừng nên vội vàng đánh giá ai, nhóc ạ. Bài khác đi!”
Harvey chưa bao giờ nghe Disko nói nhiều đến như thế, sau đó, ông ngồi phịch xuống với hai gò má đỏ phừng phừng, nhưng, như Dan đã nói trước đó, một cậu bé thì chỉ biết những gì người ta dạy ở trường, và có quá nhiều lời nói dối trên đời nên chẳng ai kiểm soát được hết.
Rồi Manuel gảy và búng dây đàn machette để tạo nên một âm điệu kỳ lạ, và hát bài gì đó bằng tiếng Bồ Đào Nha về “Nina thơ ngây!”, kết thúc bằng việc lấy cả bàn tay vuốt từ đầu đến cuối thân đàn và đột ngột chấm dứt bài hát. Rồi Disko đáp lại bằng bài hát thứ hai của ông, với một tiếng đàn đệm kiểu xưa cũ và ghê tai, tất cả cùng hòa vào đoạn điệp khúc. Đây là một trong những đoạn lời bài hát:
Giờ thì tháng Tư đã qua, tuyết đã tan. Và chúng ta phải đi khỏi New Bedford. Phải, ta cần sớm rời khỏi New Bedford. Chúng ta là những thợ săn cá voi không bao giờ thấy bột mì ở trong tai.
Tới đây thì cây vĩ cầm chơi một đoạn độc tấu dịu dàng, và rồi tất cả lại đồng thanh:
Bột mì trong tai, tình yêu của ta đang bận cuốc đất. Bột mì trong tai, chúng ta sắp ra khơi. Bột mì trong tai, ta sẽ để lúa mì ở lại. Khi ta trở về, ngươi đã là một cái bánh mì!
Bài hát ấy làm Harvey suýt khóc, dù cậu không hiểu vì sao. Nhưng mọi việc còn buồn hơn nữa khi ông đầu bếp vứt đống khoai sang một bên và chìa tay ra cầm lấy cây vĩ cầm. Vẫn tựa người vào nắp rương, ông ta chơi một điệu nhạc cực dở nhưng kiểu gì cũng có lúc người ta phải nghe trong đời. Sau đó một hồi thì ông ta cất tiếng hát, bằng một thứ ngôn ngữ lạ lùng, cái cằm bạnh ra của ông ghì lên ngựa đàn[9], đôi mắt trắng dã sáng lên dưới ánh đèn. Harvey ra khỏi hốc để nghe cho rõ, giữa tiếng gỗ kẽo kẹt và tiếng nước xối, giai điệu tiếp tục nỉ non khe khẽ, như bóng người mờ ảo trong sương mù, cho đến khi kết thúc bằng một câu than vãn.
[9] . Ngựa đàn là một miếng gỗ mỏng được đặt ở trên mặt đàn, là nơi giữ dây đàn vững chắc trên thùng đàn để chúng không bị thay đổi cao độ. Khi gảy dây đàn, rung động chạy dọc theo cần đàn từ ngựa đàn đến đầu đàn.
“Lạy Chúa! Nó làm cháu nổi da gà.” Dan nói. “Đó là cái quái gì vậy?”
“Bài ca về Fin McCoul.” Ông đầu bếp nói. “Khi ông ấy đến Na Uy.” Tiếng Anh của ông ấy không nặng nhưng rất rành mạch, như thể phát ra từ một cái máy chơi đĩa.
“Đúng vậy. Tôi đã từng đến Na Uy, nhưng tôi không kêu ca một cách thống khổ như thế. Đây là một trong những bài hát rất cũ.” Long Jack thở dài, nói.
“Đừng để chúng ta có thời gian mà nghĩ chứ.” Dan nói, và cây đàn accordion lại cất lên một giai điệu vui tai kết thúc bằng lời hát:
Đã sáu trăm hai mươi ngày Chủ nhật trôi qua kể từ khi ta thấy đất liền lần cuối,
Với một trăm năm mươi tấn cá, một trăm năm mươi tấn cá, Thêm một nghìn nữa, ở trên sông Ouareau và vùng Grand!
“Khoan đã!” Tom Platt chồm lên. “Cháu định tạo dớp cho chuyến đi à, Dan? Đó đúng là một Jonah, trừ khi cháu hát nó sau khi muối của ta đã ướt hết.”
“Không, không phải đâu, đúng không Bố? Trừ khi chú hát lời cuối. Chú không thể lên lớp cháu về Jonah được!”
“Đó là cái gì?” Harvey hỏi. “Jonah là cái gì?”
“Jonah là một thứ làm hỏng vận may. Có lúc thì đó là một người đàn ông, có khi là một cậu bé, hoặc một cái xô. Ta đã từng biết một con dao mẻ làm Jonah suốt hai chuyến đi trước khi chúng ta nhận ra.” Tom Platt nói. “Có đủ loại Jonah trên đời. Chẳng hạn như Jim Bourke, cho đến khi anh ta chết đuối ở Georges. Ta chưa từng ra khơi với Jim Bourke, trừ khi ta sắp chết đói. Có một cái xuồng màu xanh trên sông Ezra. Đó cũng là một Jonah, loại tệ hại nhất luôn. Làm chết chìm bốn người, và thường làm lưới phát sáng trong đêm.”
“Chú tin vào thứ đó à?” Harvey nhớ lại những gì Tom Platt đã nói về mấy cây nến và bức tượng. “Chẳng phải việc gì đến thì ta cũng phải tiếp nhận hết sao?”
Có tiếng rì rầm khe khẽ rộ lên quanh khoang. “Ở đất liền thì đúng là thế, nhưng trên thuyền thì việc gì cũng có thể xảy ra.” Disko nói. “Cậu đừng có phỉ báng Jonah, anh bạn trẻ ạ.”
“Ôi dào, Harve không phải là một Jonah. Cái ngày chúng ta vớt được cậu ấy...” Dan chen ngang. “Chúng ta đã có một mẻ lưới ngon lành.”
Ông đầu bếp đột nhiên nghển đầu lên và phá ra cười - một tiếng cười lạ lùng. Ông ta đúng là kẻ phá đám khó chịu.
“Đồ khỉ!” Long Jack nói. “Đừng có làm thế lần nữa đấy, bác sĩ. Chúng ta không quen với trò ấy đâu.”
“Có gì sai sao?” Dan nói. “Cậu ấy là linh vật của chúng ta, và mọi người gặp trúng đàn cá lớn sau khi vớt được cậu ấy còn gì?”
“Ồ! Phải.” Ông đầu bếp nói. “Ta biết điều đó, nhưng mùa bắt cá vẫn chưa kết thúc.”
“Cậu ấy sẽ không gây hại gì cho ta.” Dan nóng mặt. “Bác chĩa mũi dao vào cậu ấy làm gì? Cậu ấy không sao hết.”
“Không hại gì hết. Nhưng một ngày nào đó, cậu ấy sẽ là ông chủ của cháu đấy, Danny.”
“Chỉ thế thôi à?” Dan nói với vẻ điềm nhiên. “Cậu ấy sẽ không làm thế, không đời nào.”
“Là ông chủ!” Ông đầu bếp nói và chỉ về phía Harvey. “Thợ thuyền!” Ông chỉ về phía Dan.
“Nghe lạ thật. Bao giờ nào?” Dan phá lên cười.
“Chỉ vài năm nữa thôi, còn ta còn cháu. Chủ và thợ - thợ và chủ.”
“Làm thế quái nào mà anh lại nghĩ như thế?” Tom Platt nói.
“Tôi đã dự thấy trong đầu mình.”
“Như thế nào?” Những người khác đồng thanh hỏi.
“Tôi không biết, nhưng rồi việc đấy sẽ đến.” Ông ta lại ngả đầu ra và tiếp tục gọt vỏ khoai tây, quyết không nói thêm lời nào nữa.
“Chà!” Dan nói. “Còn nhiều chuyện phải xảy đến trước khi Harve trở thành ông chủ của cháu lắm. Nhưng cháu thấy mừng vì bác sĩ không gọi cậu ấy là một Jonah. Cháu từng nghĩ bác Salters là vua của các loại Jonah trong đoàn thuyền, nếu tính đến thứ vận xui của riêng bác ấy. Không biết nó có lây như bệnh đậu mùa không. Chắc là bác ấy từng ở trên thuyền Carrie Pitman. Cái thuyền đó chính là một Jonah, dù có thay thủy thủ đoàn hay đồ nghề đánh cá gì thì nó cũng thế. Lạy Chúa tôi! Nó tuột cả dây neo trong lúc biển lặng.”
“Dù sao chúng ta cũng đã tránh xa đoàn thuyền rồi.”
Disko nói. “Carrie Pitman hay gì đi chăng nữa.” Có tiếng va đập trên boong.
“Bác Salters đã dính vận xui rồi đấy!” Dan và bố cậu đứng dậy.
“Trời trong rồi.” Disko thốt lên, và cả phần mũi tàu xô ra ngoài đón chút không khí trong lành. Sương mù đã qua, nhưng mặt biển cuộn sóng từng cơn phía sau nó. Thuyền Có chúng tôi đây! trôi trên các tường sóng dài và sâu hun hút, cảm tưởng như đó là những mái nhà ấm cúng và an toàn nếu chúng chịu đứng yên; nhưng chúng không ngừng thay đổi, và đẩy con thuyền lên một ngọn sóng xám cao nhất, trong khi gió lùa qua dàn dây khi con thuyền chật vật leo xuống theo đường dích dắc. Ở phía xa, biển vỡ tan thành lớp bọt dày, và những con sóng khác cũng học theo, cho đến khi mắt Harvey nhòe đi vì màu trắng và xám trước mắt. Bốn hay năm con chim biển bay vòng vòng phía trên, rít lên khi chúng bay qua mũi thuyền. Một hai ngọn gió bất chợt lao một cách vô định qua mặt nước, sà xuống rồi lộn trở lại và biến mất.
“Có vẻ tôi vừa mới thấy thứ gì đó lấp ló đằng xa.” Bác Salters nói và chỉ về hướng đông bắc.
“Không thể là một trong số đám thuyền kia được.” Disko nói và nheo mắt lại dưới đôi lông mày, một tay đặt trên sống mũi tàu trong khi phần đầu rắn chắc của nó bị nước biển xối vào. “Mặt biển lan váng dầu nhanh quá. Danny, con trèo lên xem phao lưới của ta có còn không.”
Danny, trong đôi ủng rộng thùng thình, cứ như đang đi bộ lên cột buồm thay vì trèo (việc này khiến Harvey ghen nổ con ngươi), treo người quanh trục chéo, và nhìn quanh cho đến khi thấy một lá cờ phao nhỏ màu đen trên một ngọn sóng cách đó một dặm.
“Lưới của ta không sao.” Cậu hô vang. “Cứ đi đi! Con thuyền kia nằm yên ở mạn bắc, nặng như khói! Cũng là thuyền đánh cá.’”
Họ đợi thêm nửa tiếng nữa, mây cứ trôi đi từng mảng, đôi lúc có tia nắng nhợt nhạt làm sáng lên mặt nước màu xanh ô liu. Rồi một cái cột buồm trước nhô lên, chìm xuống và biến mất, khi ngọn sóng tiếp theo dâng lên, phần đuôi tàu cao có những tấm sắt hình vỏ ốc gắn vào be tàu bằng gỗ theo kiểu cổ hiện lên. Phần vỏ ốc bằng sắt đã đỏ quạch.
“Lũ người Pháp!” Dan hô lớn. “Ồ không, cũng không phải, Bố ạ!”
“Đó không phải là người Pháp.” Disko nói. “Salters, vận xui của anh bám còn dai hơn đỉa đấy.”
“Tôi có mắt chứ. Đó là Abishai.”
“Anh không nói chắc được đâu.”
“Vua của các loại Jonah.” Tom Platt rền rĩ. “Ôi, Salters, Salters, sao anh không vào giường mà ngủ đi?”
“Làm sao tôi biết được chứ?” Bác Salters tội nghiệp nói trong khi chiếc thuyền trồi lên theo sóng.
Đó có thể là tàu Người Hà Lan Bay lắm chứ, nó bẩn và bê bết, dây dợ và các cột trên thuyền đều rối tung. Boong lái kiểu xưa của nó phải cao đến hơn mét rưỡi, hệ thống dây bị buộc chằng chịt, rối mù như tảo bám vào đuôi cá voi. Nó đang chạy trước cơn gió - rung bần bật - buồm chính hạ xuống để dùng như một loại buồm trước phụ - như người ta vẫn nói là “te tua” - và trục buồm trước chĩa sang một bên. Mũi thuyền nghểnh lên như một cái thuyền buồm kiểu cổ; trục buồm tam giác bị trầy xước, gãy, buộc lại và đóng đinh tùm lum đến mức không thể nào sửa được nữa. Nó vươn người về phía trước, rồi đè xuống phần đuôi thuyền bè ra, như thể một bà già khó tính soi mói một cô gái trẻ.
“Đó là tàu của Abishal.” Bác Salters nói. “Chứa đầy rượu gin và mấy gã người Judique, và những người ở Providence thì đỡ lưng hắn, dù hắn không bao giờ biết neo thuyền cho chắc. Hắn chạy đi tìm mồi, theo kiểu Miquelon.”
“Hắn sẽ làm chìm thuyền mất.” Long Jack nói. “Không dùng cột buồm kia trong thứ thời tiết này được.”
“Không phải hắn ta đâu, không thì hắn đã xong đời lâu rồi.” Disko đáp lại. “Có vẻ hắn đang tính nước đâm vào chúng ta. Đầu nó chúi xuống một cách bất thường phải không, Tom Platt?”
“Nếu hắn ta cố ý xếp hàng hóa như vậy thì không an toàn chút nào.” Chàng thủy thủ chậm rãi nói. “Còn nếu nó đã bị đứt dây gai thì hắn ta tốt nhất là nên đi tìm bơm càng sớm càng tốt.”
Con thuyền kia chồm lên, vừa xoay vòng vừa kêu ầm ĩ, và đối đầu với gió ở khoảng cách rất gần họ.
Một gã râu bạc phếch nhoài ra ngoài thành tàu, hét lên bằng giọng nghèn nghẹt về một điều gì đó mà Harvey không hiểu được. Nhưng mặt Disko tối sầm lại. “Hắn đã mạo hiểm đến cùng để báo cho chúng ta tin xấu. Nói rằng gió đã đổi chiều. Hắn đã gặp cơn gió còn tệ hơn. Abishal! Abishal!” Ông ta vẫy tay lên xuống như đang mô phỏng một người bơm nước, và chỉ về phía trước. Các thủy thủ thì cười nhạo ông ta.
“Cứ nhảy nhót và ăn mừng đi!” Abishal hét lên. “Một cơn bão lớn - một cơn bão lớn. Phải đấy! Giương buồm cho chuyến đi cuối cùng của các người đi, lũ cá đáy ở Gloucester. Các người sẽ không còn được thấy Gloucester nữa đâu!”
“Điên loạn hết sức, như thường lệ.” Tom Platt nói.
“Nhưng ước gì hắn đừng có bám theo chúng ta như thế.”
Con thuyền dạt ra khỏi tầm nghe trong khi gã râu tóc muối tiêu kia vẫn la ó điều gì đó về điệu nhảy ở vịnh Bò Tót và một cái xác chết trên mũi thuyền. Harvey nhún vai. Cậu đã tưởng tượng ra những boong thuyền cong vẹo, xộc xệch và thủy thủ đoàn với con mắt đờ dại.
“Thuyền đã cũ thế kia mà vẫn đi được thì tài thật.”
Long Jack nói. “Tôi tự hỏi hắn đã gặp rắc rối gì ở gần bờ.”
“Nó là tàu cá lưới rà.” Dan giải thích cho Harvey. “Và hắn đi tìm mồi ở dọc bờ. Ồ, không, hắn không về nhà. Hắn ta cứ đi về giữa bờ nam và bờ đông ở phía trên kia.” Cậu hất cằm về phía những bãi biển đầy đá của Newfoundland. “Bố không bao giờ cho tớ lên bờ ở đó. Các thủy thủ ở đó rất dữ dằn, và thủy thủ của Abishal là dữ nhất. Cậu thấy thuyền của hắn ta chưa? Chà, nó đã có được bảy mươi năm rồi, họ nói vậy, là con thuyền cuối cùng trong số các thuyền kiểu “nện gót” cũ ở Marblehead. Họ không làm boong lái kiểu đó nữa. Nhưng Abishal lại không về Marblehead bao giờ. Không ai muốn tiếp hắn ở đó. Hắn chỉ trôi lang thang, nợ nần chồng chất, thả lưới và chửi thề như cậu vừa thấy. Hắn đã làm một Jonah nhiều năm trời. Đổi lấy rượu từ các tàu Feecamp nhờ việc buôn lậu và bán tin về các tàu khác. Chắc là hắn bị điên.”
“Đêm nay có thả lưới sâu hơn cũng không ích gì.” Tom Platt nói, ra chiều thất vọng. “Hắn đã từ bờ ra tận đây để nguyền rủa chúng ta. Tôi dám bỏ tiền để thấy hắn bị treo ở mũi tàu Ohio trước khi chúng ta giã cho hắn một trận. Chừng sáu chục roi, và Sam Mocatta buộc chéo tay chân hắn lại!”
Con thuyền “nện gót” tả tơi trôi lướt khướt theo chiều gió, và mọi con mắt đều dõi theo nó. Đột nhiên, ông đầu bếp cất giọng rành rọt: “Thần Chết đã khiến hắn nói như vậy đấy! Hắn sắp chết rồi, sắp chết rồi, nói cho mà nghe! Nhìn xem!” Con thuyền trôi vào một vùng biển đầy nắng cách đó ba hay bốn dặm. Khoảng nắng nhạt dần rồi biến mất, và khi ánh sáng biến mất, con thuyền cũng mất hút theo. Nó rơi vào một hố nước và chìm dần.
“Bị xoáy nước khổng lồ kéo xuống!” Disko thốt lên và giật lùi lại. “Dù hắn say hay không thì ta cũng phải giúp hắn. Hãy thu neo lên và kéo nó ra khỏi đó! Nhanh nào!”
Harvey bị quăng lên boong bởi cú đập từ trục buồm tam giác và buồm trước, vì họ kéo một đoạn dây neo lên, và để tiết kiệm thời gian, giật mạnh chiếc neo khỏi đáy biển, vừa tiếp tục đi vừa kéo phần còn lại lên. Đây đúng là một hành động thô bạo và chỉ được dùng trong trường hợp khẩn cấp nguy hiểm đến tính mạng, và thuyền Có chúng tôi đây! bé nhỏ rền rĩ trong lúc trườn đi. Họ chạy tới chỗ thuyền của Abishal đã mất hút và nhìn thấy hai hoặc ba chậu đựng lưới, một chai rượu gin, một cái xuồng lật ngược, ngoài ra không có gì khác. “Để mặc chúng đi!” Disko nói, dù không ai có ý định dù là nhỏ nhất muốn vớt chúng lên. “Chẳng có thứ gì trên thuyền của Abishal mà hợp với tôi cả. Có lẽ nó đã chìm sâu xuống dưới rồi. Chắc nó đã bị đứt dây gai cả tuần, và họ chưa bao giờ có ý định bơm nước ra. Vậy là thêm một tàu nữa bị chìm vì rời cảng mà cả thủy thủ đoàn đều say khướt.”
“Lạy Chúa!” Long Jack nói. “Chúng ta buộc phải cứu họ nếu đã là dân đi biển.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Tom Platt nói.
“Chết thôi! Chết thôi!” Ông đầu bếp vừa nói vừa đảo mắt. “Anh ta tự chuốc lấy vận xui này.”
“Tôi nghĩ đây là một tấm gương tốt để kể lại cho đoàn thuyền khi ta gặp họ. Đúng không?” Manuel nói. “Nếu anh lái thuyền theo kiểu đó trước mũi gió, và nó làm rách buồm...” Anh ta quăng cánh tay ra bằng một cử chỉ khó tả, trong khi Penn ngồi trong khoang lái và khóc thương những sinh mệnh xấu số kia. Harvey không nhận ra là cậu vừa chứng kiến cảnh người chết trên biển, nhưng cậu cảm thấy rất khó chịu. Rồi Dan trèo xuống thanh đỡ buồm và Disko thu nó về gần các phao lưới trước khi màn sương bao phủ mặt biển lần nữa.
“Nếu chúng ta có đi thì sẽ đi thật nhanh khỏi đây.” Đó là tất cả những gì ông nói với Harvey. “Hãy nghĩ cho kĩ về việc đó, con trai. Đó là tác hại của rượu.”
“Sau bữa tối, biển đủ lặng để ta câu cá từ trên boong, Penn và bác Salters có vẻ rất ghen tức vào cái lần đó, và ta lại toàn bắt được cá lớn.”
“Abishal đã mang theo vận xui của hắn.” Bác Salters nói. “Gió vẫn chưa trở lại hay nổi lên. Thế còn đống lưới? Dù sao thì tôi cũng ghét thói mê tín.”
Tom Platt khăng khăng kéo lưới lên và làm một mẻ mồi khác. Nhưng ông đầu bếp nói: “Con thuyền đã xé đôi nó rồi. Anh sẽ thấy thế. Tôi biết là vậy.” Việc đó khiến Long Jack bứt rứt đến nỗi ông ta phải đi nài ép Tom Platt và cả hai cùng xuống nước.
Thả lưới lại nghĩa là kéo nó lên một bên mạn xuồng, gỡ cá ra, gắn lại mồi vào lưỡi câu, và quăng lưới trở lại, gần giống như việc kẹp và tháo kẹp quần áo khỏi dây phơi. Đó là một việc tốn thời gian và khá nguy hiểm, hơn nữa đoạn dây dài và có sức ì lớn có thể làm lật thuyền chỉ trong chớp mắt. Nhưng khi họ nghe thấy bài Ta đến đây, hỡi thuyền trưởng! vang lên từ sau màn sương, thủy thủ đoàn của thuyền Có chúng tôi đây! đã có thêm can đảm. Chiếc xuồng khẽ xoay vì sức nặng, Tom Platt hét gọi Manuel đỡ một tay.
“Nó đã cắt lưới làm đôi.” Long Jack nói, tay mò mẫm trong đống cá, trong khi Harvey đứng đó, mồm há hốc trước tài nghệ của người vừa cứu chiếc xuồng khỏi bị lật ngược. “Một nửa là bí ngô. Tom Platt muốn thả hết lưới xuống cho xong, nhưng tôi đã nói rằng “Tôi tin lời bác sĩ, người có tài tiên tri” và nửa còn lại khi kéo lên thì đầy những con cá lớn. Nhanh lên, Manuel, mang cả một chậu mồi ra đây. Tối nay ta có nhiều vận may lắm.”
Lũ cá đớp mồi mới ngay từ chính lưỡi câu vừa mắc vào miệng những người anh em của chúng. Tom Platt và Long Jack di chuyển một cách thiện nghệ dọc theo lưới, mũi thuyền trồi lên dưới mớ dây gắn đầy mũi câu ướt nhẹp, va phải những con hải sâm mà họ gọi là bí ngô, ném những con cá tuyết mới bắt được qua mạn thuyền, gắn mồi mới, và chất đầy xuồng của Manuel tới tận lúc bình minh.
“Ta sẽ không mạo hiểm đâu.” Disko lên tiếng. “Nhất là khi hắn vẫn còn trôi nổi đâu đó gần đây. Abishal sẽ không chìm hẳn sau một tuần. Thu các xuồng lại và ta sẽ làm cá sau bữa tối.”
Quả là một lượt làm muối vất vả, với ba, bốn con cá he lớn chực chờ xung quanh. Việc làm cá kéo dài đến chín giờ tối, và Disko không nhịn nổi mà phải bật cười khi Harvey ném những con cá bị cắt làm đôi vào trong khoang.
“Cậu học việc nhanh lắm!” Dan nói khi họ mài đống dao sau khi những người đàn ông đã đi ngủ. “Ở biển hôm nay đã có một chuyện rất lạ, thế mà tớ chưa thấy cậu thốt lên câu nào về việc đó.”
“Quá bận!” Harvey trả lời trong khi cứa thử mép dao. “Cậu nói mới nhớ, sóng hôm nay cao nhỉ.”
Con thuyền nhỏ nhảy nhót quanh khu vực thả neo với những con sóng bạc đầu. Giật mình vì ngạc nhiên khi thấy dây neo bị kéo căng, nó chồm tới như một con mèo con, trong khi nước bắn lên từ cú thả mình của nó bắn qua lỗ dây neo như tiếng súng nổ. Nó lắc đầu như thế muốn nói “Chà, tôi xin lỗi vì không thể ở đây lâu hơn. Tôi sẽ đi về hướng bắc” và trườn đi, rồi đột ngột dừng lại vì hệ thống dây của nó rung lên bần bật. “Giống như tôi vừa mới quan sát...” Nó sẽ nói, với vẻ nghiêm trang như một gã say chào một cái cột đèn. Phần còn lại của câu nói (đương nhiên nó sẽ giả giọng ồm ồm) đã bị cơn giận của nó nuốt mất, giống như khi nó cư xử như một con chó con nhai một đoạn dây, một người phụ nữ vụng về khi ngồi trên bộ yên cương một bên, một con gà bị mất đầu, hay một con bò bị ong bắp cày cắn, chính xác như cái cách biển đã đối xử với nó.
“Nó đang diễn phần thoại của mình. Giờ thì nó đang là Patrick Henry.” Dan nói.
Con thuyền văng sang một bên trước con sóng cuộn, và trục buồm tam giác rung lên từ gốc đến mạn phải.
“Về phần tôi, hãy để tôi được tự do, hoặc để tôi chết!”
Wop! Nó thả mình xuống vùng nước loang ánh trăng, cúi chào với vẻ kiêu hãnh, một hành vi cũng khá ấn tượng nếu như lũ bánh răng không cười nhạo từ trong hộp.
Harvey phá lên cười. “Cậu nói như thể con thuyền là một con người ấy!”
“Chắc chắn như một ngôi nhà và khô như một con cá trích.” Dan hào hứng thêm vào, khi cậu bay người sang phía bên kia boong để tránh nước văng lên. “Hãy chặn chúng lại, hãy chặn chúng lại, và đừng có tới gần tôi, nó nói. Nhìn nó mà xem - hãy nhìn xem! Chúa ơi! Cậu nên thấy một trong những chiếc thuyền tăm thả neo phía ngoài vùng nước sâu mười lăm sải.”
“Tăm là cái gì, Dan?”
“Loại thuyền bắt cá vược nhỏ và cá trích. Đẹp và có phần đuôi hệt như du thuyền, rầm néo buồm nhọn, khoang lái rất chắc chắn. Tớ nghe nói chính Burgess đã làm mô hình cho ba hay bốn chiếc như vậy. Bố tớ phản đối thứ đó vì chúng lắc lư dữ lắm, nhưng chúng làm ra rất nhiều tiền. Bố tớ có thể tìm được đàn cá, nhưng cách làm của ông không tân thời - ông không đi kịp thời đại. Mấy con thuyền đó thì có đồ gá lắp nên tiết kiệm nhân công hơn. Đã bao giờ thấy thuyền Cử tri Gloucester chưa? Nó đúng là một con thuyền đẹp, dù nó là loại thuyền tăm.”
“Chúng có giá bao nhiêu, Dan?”
“Hàng núi tiền. Mười lăm ngàn, có khi hơn. Có cả các lá vàng và đủ thứ khác mà cậu có thể nghĩ ra.”
Rồi cậu như tự thì thầm với chính mình: “Có lẽ tớ cũng sẽ gọi nó là Hattie S.”