Đ
ó là một trong nhiều cuộc trò chuyện của Harvey với Dan, người đã kể cho Harvey lý do cậu đặt tên cho những con tàu săn cá vược tưởng tượng theo mô hình của Burgess theo tên chiếc xuồng của cậu. Harvey đã nghe kể nhiều về nàng Hattie thật ở Gloucester, đã thấy cả một lọn tóc của nàng - thứ mà Dan, vì không thể tìm được lời nào để diễn tả vẻ đẹp của nó, nên đã cắt trộm nó khi nàng ngồi trước cậu ta ở trong lớp học vào mùa đông năm ấy, và cả ảnh của cô nàng. Hattie khoảng chừng mười bốn tuổi, hết sức khinh thường các cậu bé, và đã giày vò trái tim Dan suốt mùa đông. Tất cả những chuyện này được cậu bí mật kể sau khi Harvey đã thề trang trọng sẽ giữ bí mật trên boong thuyền đêm trăng, trong bóng tối mịt mù hoặc trong màn sương mù dày đặc, bánh lái thì rền rĩ phía sau họ, boong tàu nhấp nhô trước mặt, và phía trên mặt nước biển không ngừng kêu la. Dĩ nhiên có một lần, trong lúc hai cậu bé ngồi tâm sự với nhau, một cuộc chiến đã nổ ra, kéo dài từ mũi đến đuôi thuyền, cho đến khi Penn phải trèo lên và tách hai đứa ra, nhưng hứa sẽ không mách Disko, một người vốn cho rằng đánh nhau trong ca trực còn tệ hơn cả việc ngủ gật. Harvey không thể đọ sức với Dan, nhưng việc cậu chịu nhận thua và không tìm cách ăn thua với Dan bằng những trò hèn hạ có ý nghĩa rất lớn trong khóa học việc mới này.
Chuyện đó xảy ra sau khi cậu vừa mới được chữa khỏi một bọng nước kéo dài từ giữa hai khuỷu tay đến cổ tay, nơi mà tấm áo nịt len ướt và áo vải dầu cắt vào tận thịt. Nước mặn khiến cậu xót buốt da buốt thịt, nhưng khi những cái bọng nước đã chín, Dan đã dùng dao cạo của Disko rạch ra, và trấn an Harvey rằng giờ thì cậu đã là một “Thủy thủ vùng Bank dày dạn”; nỗi đau do vết phồng rộp gây ra đã đưa cậu lên một đẳng cấp mới.
Vì cậu là một cậu bé và lại rất bận rộn, cậu không bận tâm suy nghĩ quá nhiều. Cậu hết sức thương mẹ mình và mong được gặp bà, và trên tất cả, được kể cho bà nghe về cuộc sống mới rất đỗi tuyệt vời này, cũng như việc cậu đã làm quen với nó một cách nhanh chóng ra sao. Ngoài ra, cậu chọn cách không nghĩ ngợi quá nhiều về cách mẹ cậu tiếp nhận cú sốc về cái chết “tạm thời” của con trai. Nhưng một ngày, khi cậu đang đứng trên thang ở mũi thuyền và nói chuyện với ông đầu bếp, người vừa buộc tội cậu và Dan ăn trộm bánh bột mì rán, cậu nhận ra việc này là một sự cải thiện đáng kể so với khi cậu bị mấy gã người lạ trong khoang hút thuốc của một con tàu chở khách sỉ nhục.
Cậu được phân công công việc trên thuyền Có chúng tôi đây!; có một chỗ trên bàn ăn và một chỗ ngủ dưới khoang; và biết cách giữ mồm trong những cuộc nói chuyện dài vào những ngày bão, khi những người khác lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe mấy câu chuyện mà họ gọi là “cổ tích” về lối sống của cậu khi còn ở trên bờ. Cậu chỉ mất hơn hai ngày để nhận ra rằng nếu cậu kể về đời tư của mình - một cuộc sống đang ở cách xa nơi đây - không một ai ngoài Dan tin lời cậu (và ngay cả niềm tin của Dan cũng có vẻ miễn cưỡng). Vì thế cậu bịa ra một người bạn, một cậu bé mà cậu từng nghe kể về, người lái một chiếc xe ngựa nhỏ bốn ngựa kéo ở Toledo, Ohio, đặt làm năm bộ quần áo một lúc, và chủ trì lũ “người Đức” trong các bữa tiệc, nơi các cô gái già nhất vẫn chưa đầy mười lăm tuổi, và tất cả các món quà đều làm từ bạc ròng. Bác Salters cho rằng đó là những câu chuyện nhảm nhí có phần ác ý, nếu không muốn nói là có ý báng bổ, nhưng lại ngấu nghiến nghe như những người khác. Những lời phê phán của họ lúc cuối đã khiến Harvey có cái nhìn hoàn toàn mới về “lũ người Đức”, quần áo, thuốc lá với đầu lọc cuốn bằng lá vàng, nhẫn, đồng hồ, nước hoa, những bữa tiệc tối nho nhỏ, rượu sâm banh, việc chơi bài, và việc ở khách sạn. Dần dần, cậu đã đổi giọng khi nói về “anh bạn” kia, người mà Long Jack đặt cho cái tên là “thằng nhóc điên loạn”, “đứa bé dát vàng”, “công tử mút thìa” và nhiều biệt danh khác. Và mỗi lần gác chân lên bàn, cậu còn bịa ra được lịch sử của các bộ quần áo ngủ bằng lụa và khăn quàng nhập khẩu đặc biệt, dĩ nhiên là dựa theo lời của “anh bạn kia”. Harvey rất giỏi thích nghi và chịu khó tiếp thu quan điểm của người khác về mình.
Sau đó không lâu, cậu đã biết được nơi Disko cất cái thước đo góc phần tư đã rỉ xanh mà họ gọi là “mõ heo” dưới chiếc túi ngủ trong hốc của ông ấy. Khi ông ấy quan sát mặt trời, và tìm được vĩ độ nhờ sự giúp sức của cuốn niên giám của “những nông dân thời xưa”, Harvey sẽ nhảy xuống cabin và cứa điểm mốc và thời gian bằng một cái đinh trên phần ống khói bếp đã rỉ. Ngay cả kỹ sư trưởng của tàu chở khách cũng chỉ làm được đến thế, và không có kỹ sư ba mươi năm kinh nghiệm nào có thể đoán được một nửa tâm trạng của một thủy thủ kiểu cũ, thứ mà Harvey, trước tiên là cẩn thận nhổ nước bọt sang một bên, thông báo vị trí của con thuyền ngày hôm ấy, và chỉ khi đó mới khiến Disko rời mắt được khỏi cái thước đo góc phần tư. Tất cả những việc trên đều mang phép lịch sự nhất định.
Họ nói cái “mõ heo”, đồ thị Eldridge, niên giám của nông dân, “sách hướng dẫn của Blunt”, và “hoa tiêu của Bowditch” đều là những vũ khí mà Disko cần đến để chỉ đường cho ông, trừ con chì ở vùng nước sâu là con mắt thứ ba của ông. Harvey suýt chút nữa đã cứa phải Penn khi Tom Platt dạy cậu cách tung “Chim Câu Xanh” lần đầu. Và, dù cậu không đủ sức để liên tục đo độ sâu ở bất kỳ vùng biển nào, Disko vẫn cho phép cậu làm việc đó một cách tự do khi thời tiết đẹp, nước nông và với con chì nặng bảy pound. Như Dan nói: “Bố không cần đo độ sâu. Bố chỉ cần lấy ví dụ. Làm cho tốt vào, Harve.” Harvey sẽ bôi mỡ cừu vào đuôi chiếc cốc, cẩn thận mang cát, sò, bùn nhớt, hay bất cứ thứ gì bám vào con chì đến cho Disko, người sẽ chạm vào, ngửi và đưa ra phán quyết. Như ta đã biết, khi Disko nghĩ đến cá tuyết, ông ấy sẽ như một con cá tuyết thật; với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bản năng và kinh nghiệm, ông ấy đưa thuyền Có chúng tôi đây! đi từ vựa cá này đến vựa cá khác, như một kỳ thủ bị bịt mắt di chuyển quân cờ trên một bàn cờ vô hình.
Nhưng bàn cờ của Disko chính là vùng Grand Bank - một tam giác với mỗi cạnh kéo dài hai trăm năm mươi dặm - một vùng biển nhấp nhô, đầy sương mù, thường xuyên có bão hoành hành, những tảng băng trôi nhan nhản, thỉnh thoảng lại có mấy con tàu chở khách vô ý, và chi chít những cánh buồm của đoàn thuyền đánh cá.
Vào những ngày họ làm việc trong màn sương mù - Harvey vẫn phải đứng cạnh cái chuông, và đã quen với thứ không khí dày đặc kia. Nhưng khi ra ngoài cùng Tom Platt, tim cậu như muốn lộn cả lên. Nhưng sương thì vẫn dày đặc, và cá thì vẫn cắn câu, không ai có thể ở trong trạng thái sợ hãi rúm ró liên tục suốt sáu tiếng đồng hồ. Harvey quyết chí tập trung tìm mấy sợi dây và que gỡ móc câu khi Tom Platt gọi tên chúng; họ lần theo tiếng chuông và dùng bản năng của Tom để chèo xuồng về thuyền; tiếng kèn ốc của Manuel nghe rất yếu ớt bên tai họ. Nhưng đó là một trải nghiệm độc đáo, và lần đầu tiên trong suốt một tháng, Harvey mơ thấy con thuyền khẽ chao đảo, làn nước bốc khói mờ quanh chiếc xuồng, những đoạn dây trôi vào hư không, và không khí bên trên tan chảy vào mặt biển bên dưới cách mắt cậu mười bộ. Một vài ngày sau, cậu ra ngoài cùng Manuel để đến một vùng nước lẽ ra sâu bốn mươi sải, nhưng đã thả hết dây neo mà vẫn chưa thấy đáy, và Harvey sợ xanh mặt, vì cậu đã mất đi điểm mốc cuối cùng với mặt đất của mình. “Hố cá voi.” Manuel nói rồi thu dây về. “Một trò đùa khá đau với Disko đấy. Đi thôi!” Rồi anh ta chèo xuồng về thuyền và thấy Tom Platt cùng những người khác đang nhạo báng thuyền trưởng, bởi vì lần này, ông đã đưa họ đến rìa hố cá voi hoang vắng, cái hố sâu hun hút của vùng Grand Bank. Họ đi tìm điểm thả lưới lần nữa trong màn sương, và lần đó Harvey đã sợ đến dựng tóc gáy khi đi bằng xuồng của Manuel. Một thứ gì đó màu trắng di chuyển lẫn trong màn sương với mùi hôi thối như của một ngôi mộ mới bật nắp, rồi có cả tiếng gầm gừ, đập phá và phun nước. Đó là lần đầu tiên cậu được chạm mặt núi băng mùa hè của vùng Bank, và cậu nấp xuống dưới đáy thuyền trong khi Manuel thì phá lên cười. Cũng có những ngày trời trong, không khí nhẹ và ấm, họ cảm thấy tội lỗi khi không ngừng mọi công việc và chỉ vật vờ bên cạnh những sợi dây câu tay và chọc những mẩu gỗ đang trôi dật dờ bằng mái chèo. Có những ngày không khí nhẹ tênh, Harvey được dạy cách lái thuyền từ vựa cá này đến vựa cá khác.
Cậu cảm nhận được cơn phấn khích chạy dọc cơ thể khi lần đầu tiên cảm thấy sống thuyền đã nghe theo sự điều khiển của cậu trên tay lái và trượt qua rãnh nước sâu trong lúc buồm trước giương tới lui trên nền trời xanh. Điều ấy thật kỳ diệu, dù Disko có nói rằng để theo được cậu thì rắn cũng phải gãy lưng đi chăng nữa. Nhưng, như mọi lần, chủ quan thì dễ sai lầm. Họ đang bơi theo chiều gió bằng buồm tam giác - may sao là một lá buồm cũ - bị kẹt, và Harvey đánh tay lái để cho Dan thấy cậu đã hoàn toàn làm chủ kỹ năng này. Buồm trước bung ra kèm theo tiếng bục lớn, cái mấu lớn đập vào và xé tan buồm tam giác, thứ mà, dĩ nhiên, đã được giằng lại để không bị buồm chính cán qua. Họ lặng lẽ hạ cánh buồm rách xuống, và Harvey dành mấy giờ sau đó dưới sự kèm cặp của Tom Platt, học cách dùng kim khâu và thước đo. Dan hú lên vì vui mừng, vì như cậu đã nói, cậu cũng đã phạm phải một lỗi y hệt vào những ngày đầu.
Với bản tính của một cậu bé, Harvey bắt chước lần lượt từng người đàn ông trên tàu, cho đến khi cậu có thể kết hợp được cái kiểu cúi mình bên cạnh bánh lái rất đặc trưng của Disko, cách lật tay ra sau khi kéo lưới của Long Jack, cách quạt chèo tròn vai nhưng rất hiệu quả của Manuel, và lối đi đường bệ theo kiểu Ohio trên boong của Tom Platt.
“Thật tuyệt khi được chứng kiến nó học hỏi từ ta.” Long Jack nói khi Harvey đang nhìn qua trục cuốn ra ngoài vào một buổi trưa âm u. “Tôi cá là nó không chỉ đóng kịch cho vui đâu, và nó cũng háo hức khi trở thành một thủy thủ chính hiệu. Hãy nhìn lưng của nó bây giờ đi!”
“Chúng ta đều bắt đầu như thế.” Tom Platt nói. “Lũ con trai toàn tự huyễn hoặc bản thân cho đến khi trở thành đàn ông, và tiếp tục như thế cho đến lúc qua đời - chỉ toàn là giả vờ. Tôi đã làm như thế trên tàu Ohio, tôi biết. Trong ca trực đầu tiên của mình - ca trực cầu cảng - tôi cảm thấy còn oai hơn cả Farragut. Đầu óc Dan cũng toàn những thứ như vậy. Nhìn chúng bây giờ đi, ra vẻ là mấy tay thủ cựu chính cống - tóc dày như sợi thừng và máu đặc như hắc ín Stockholm.” Ông ta nói vọng xuống cầu thang cabin. “Chắc anh đã nhìn nhầm người một lần rồi, Disko. Thế quái nào mà anh lại bảo chúng tôi rằng thằng bé ấy có phần điên loạn?”
“Nó đã từng như vậy.” Disko đáp. “Khi mới lên thuyền nó điên khùng lắm, nhưng kể từ đó nó đã tỉnh ra nhiều rồi. Tôi đã chữa khỏi cho nó.”
“Nó giỏi kể chuyện mà.” Tom Platt nói. “Đêm hôm trước, nó kể về một thằng bé tầm tuổi nó lái một chiếc xe bốn ngựa kéo khắp vùng Toledo, Ohio, và tổ chức tiệc tối cho một lũ con nhà giàu tương tự. Câu chuyện khá kỳ quặc, nhưng cũng thú vị đấy. Nó biết cả một đống chuyện như vậy.”
“Có lẽ là nó tự bịa ra thôi.” Disko nói vọng ra từ cabin, ở đó, ông đang bận xem cuốn hải trình. “Về lý mà nói thì những thứ đó toàn là chuyện bịa. Không có ai tin lời nó ngoài Dan, và chính thằng bé cũng phải cười trước mấy thứ chuyện ấy. Tôi đã nghe nó nói sau lưng tôi rồi.”
“Anh đã bao giờ nghe những gì Simon Peter Cahoun nói khi họ làm mối cho em gái của anh ta, Hitty, với Lorin’ Jerauld chưa, và hai thằng bé đã nhại lại chuyện ấy với gã đến tận Georges?” Bác Salters chen vào, người thì đang nhỏ nước lõng thõng dưới đống xuồng treo ở mạn phải.
Tom Platt lặng lẽ nhồi tẩu với vẻ cáu kỉnh, anh là người đến từ Cape Cod, và chưa từng nghe chuyện ấy hơn hai mươi năm nay. Bác Salters tiếp tục kể với giọng cười khàn khùng khục: “Simon Peter Cahoun nói, và anh ta đã nói đúng, về Lorin’. Một chân trên đất, một chân trên mặt trăng; và họ nói cô ta đã cưới một gã lắm tiền. Cái miệng Simon Peter Cahoun thì to hơn cả giời, lại còn chuyên kể chuyện kiểu ấy nữa.”
“Hắn ta không nói gì đến những người Hà Lan ở Pennsylvania.” Tom Platt nạt lại. “Chuyện ở Cape thì hãy để một người ở Cape kể. Lũ Cahoun ấy từ xưa đã là dân du mục.”
“Chà, tôi không thú tội với nhà diễn thuyết.” Bác Salters nói. “Tôi đang nói đến mặt lý tính của mọi thứ. Đó chính là kiểu của Harve đấy! Một chân trên đất, một chân trên mặt trăng; và sẽ có người tin nó là con nhà giàu. Đúng thế đấy!”
“Anh có bao giờ nghĩ sẽ thật tuyệt vời nếu đi biển cùng cả một thủy thủ đoàn toàn những người như Salters không?” Long Jack nói. “Một chân trên thuyền và chân còn lại trong đống rơm, thứ mà Cahoun quên nói, và tưởng mình là một ngư dân!”
Một tràng cười nhỏ rộ lên để chế nhạo bác Salters.
Disko không nói gì, chỉ mê mải dò theo cuốn hải trình của mình bằng đôi bàn tay vuông vức, thô ráp - đây là thứ mà họ ghi chép, hết trang này đến trang khác:
Ngày Mười bảy tháng Bảy. Hôm nay nhiều sương và ít cá. Thả lưới về phía bắc. Chấm hết.
Ngày Mười tám tháng Bảy. Hôm nay trời đầy sương mù. Bắt được một ít cá.
Ngày Mười chín tháng Bảy. Hôm nay có gió nhẹ từ N.E. và thời tiết đẹp. Thả lưới về phía đông. Bắt được rất nhiều cá.
Ngày Hai mươi tháng Bảy. Hôm nay, lễ Sabbath, có sương mù và gió nhẹ. Chấm hết. Tổng số cá bắt được trong tuần này: 3.478 con.
Họ không bao giờ làm việc vào ngày Chủ nhật. Thay vào đó, họ cạo râu, tắm rửa nếu trời đẹp, và Pennsylvania thì ư ử mấy bài Thánh ca. Đã có đôi lần anh ta gợi ý, và không có ý xấc láo gì, rằng anh ta có thể giảng đạo một chút. Bác Salters xém chút nữa thì nhảy vào chặn miệng anh ta khi mới thoáng nghe thấy câu ấy, nhắc nhở rằng anh ta không phải là một người truyền đạo và không được nghĩ đến điều ấy. “Điều tiếp theo anh ta nhớ ra sẽ là vụ việc ở Johnstown.” Bác Salters giải thích. “Và chuyện gì sẽ xảy ra khi đó?” Vì vậy, họ đành nghe anh ta đọc to một cuốn sách có tên là Josephus. Đó là một cuốn sách cũ bọc da, đã ám mùi của hàng trăm chuyến đi, lối viết đơn giản và khá giống Kinh Thánh, nhưng chứa đầy những câu chuyện về các cuộc chiến và vụ vây hãm, họ cứ đọc đi đọc lại cuốn ấy. Những lúc khác, Penn chỉ làm việc trong yên lặng. Có lúc anh ta không hé một lời nào suốt ba ngày, dù anh ta vẫn chơi cờ, nghe nhạc và bật cười trước mấy câu chuyện. Khi họ tìm cách cạy miệng anh ta, anh ta chỉ nói: “Tôi không muốn tỏ ra kém thân thiện, nhưng có vẻ là tôi không có gì để nói. Đầu tôi cứ thấy trống rỗng. Tôi gần như quên cả tên mình.” Khi ấy, anh ta sẽ quay sang bác Salters và cười một nụ cười hiền dịu.
“Gì thế, Pennsylvania Pratt.” Bác Salters sẽ gào lên. “Rồi tiếp theo cậu sẽ quên cả tôi mất!”
“Không, không bao giờ.” Penn nói rồi im bặt. “Pennsylvania Pratt, dĩ nhiên rồi.” Sau đó, anh ta sẽ nhắc đi nhắc lại cái tên ấy. Đôi khi bác Salters cũng quên cả tên anh ta, và nói anh ta là Haskins hay Rich hay McVitty gì đó, nhưng Penn hài lòng với bất kỳ cái tên nào, cho đến lần tiếp theo.
Anh ta lúc nào cũng dịu dàng với Harvey, người mà anh ta thương hại vì vừa bị lạc ngoài biển, vừa có phần điên loạn. Khi Salters nhận ra Penn rất mến thằng bé, bác cũng thấy nhẹ nhõm. Salters không phải là người thân thiện (Bác ta tự cho rằng nhiệm vụ của mình là đưa lũ trẻ vào nề nếp); và lần đầu tiên mà Harvey, trong cơn sợ hãi và run rẩy, vào một ngày bể lặng, đã xoay xở trèo được lên đỉnh cột buồm chính (với sự sẵn sàng giúp sức của Dan phía sau), vì cậu tự cho rằng mình có nghĩa vụ treo đôi ủng to bự của bác Salters lên đó - một dấu hiệu đáng xấu hổ và nhạo báng trong mắt con thuyền gần nhất. Với Disko thì Harvey không dám tự tiện làm gì, ngay cả khi ông ấy ra lệnh trực tiếp, đối xử với cậu như với những thủy thủ còn lại, và nói “Cậu không muốn làm việc này à?” hay “Chắc là cậu nên...” hoặc tương tự như vậy. Có điều gì đó trên khuôn mặt nhẵn nhụi nhưng khóe mắt thì đầy nếp nhăn của ông khiến lũ trẻ phải lập tức trở nên nghiêm túc.
Disko chỉ cho cậu ý nghĩa của tấm biểu đồ đầy dấu tay và thủng lỗ chỗ, thứ mà, như ông nói, có thể qua mặt bất cứ ấn phẩm nào của nhà nước, và đưa bàn tay cầm bút chì của cậu từ điểm thả lưới này đến điểm thả lưới khác dọc các vùng bờ Le Have, bờ Đông, Banquereau, St. Pierre, Green, và vùng Grand - những nơi có cá tuyết. Ông cũng dạy cậu quy tắc hoạt động của “mõ heo”.
Ở khoản này, Harvey có vẻ vượt trội so với Dan, vì cậu được thừa hưởng một cái đầu biết tính toán, cũng như có thể thu thập được thông tin chỉ từ một cái liếc nhìn ánh mặt trời ảm đạm vùng Bank nếu nó thu hút cậu. Vì trong những vấn đề khác trên biển, tuổi đời chính là một rào cản đối với cậu. Như Disko đã nói, cậu lẽ ra nên bắt đầu đi biển từ hồi mười tuổi. Dan có thể gắn mồi vào lưới hay tìm được bất cứ loại dây nào trong bóng tối; và khi cần thiết, giả như lúc bác Salters bị phồng rộp lòng bàn tay, cậu có thể làm xẹp nó chỉ bằng một cú rạch nhẹ. Cậu có thể biết đường điều khiển tàu khi có bão nhẹ chỉ nhờ một làn gió thoáng thổi qua mặt, và mua vui cho cả thuyền Có chúng tôi đây! mỗi khi cần thiết. Những việc ấy cậu làm thành thạo y như việc kéo hệ thống dây, hoặc biến chiếc xuồng thành một phần tâm trí hoặc cơ thể cậu. Nhưng cậu không thể truyền kiến thức của mình cho Harvey.
Tuy vậy, vẫn có nhiều thông tin cơ bản mà cậu cần học vào những ngày bão, khi họ nằm trên mũi thuyền hay ngồi trên những chiếc rương trong cabin, trong lúc phân loại đinh khuy, con chì, và các loại vòng xếp lẫn vào nhau giữa các quãng nghỉ của các cuộc nói chuyện. Disko kể về các chuyến săn cá voi ở vùng Năm mươi; về cuộc hạ sát những con cá voi mẹ trước mặt lũ con của chúng; những cái chết đau đớn trên mặt biển đen ngòm, và những vệt máu bắn lên mười hai mét trong không trung; những con tàu bị nghiền nát; những quả đạn pháo định vị đi lộn hướng và làm nổ tung tất cả thủy thủ đoàn đang run rẩy; việc họ phân tích và khoanh vùng lý do, và vụ tai nạn đáng tiếc năm 71, khi 1.200 người phải chịu cảnh màn trời chiếu đất trên băng trong ba ngày - những câu chuyện tuyệt vời và đều có thật. Nhưng tuyệt nhất vẫn là những câu chuyện về cá tuyết, cách chúng cãi nhau và bàn bạc trong bí mật, sâu bên dưới sống thuyền.
Những chuyện của Long Jack thì thiên về những hiện tượng siêu nhiên. Ông ta đã có lần khiến cả đoàn chết cứng trước mấy câu chuyện rợn người về “ma nữ” ở bãi biển Monomoy, những kẻ nhạo báng và đe dọa những kẻ mò trai cô đơn; hay về các hồn ma bãi cát, những người không bao giờ được chôn cất tử tế; về các kho báu bí mật trên đảo Lửa, được canh gác bởi các linh hồn của các binh lính của Kidd; về các con tàu đi vào màn sương phía ngoài pháo đài Truro; về cái cảng ở Maine, nơi mà chỉ những người lạ mới thả neo ở cùng một chỗ hai lần, vì một thủy thủ đoàn đã chết sẽ chèo thuyền dọc bờ vào nửa đêm mang theo mỏ neo treo ở mũi chiếc thuyền kiểu cổ của họ, huýt sáo thay vì gọi, linh hồn của những người đã quấy rối giấc ngủ của họ.
Harvey biết rằng bờ Đông của quê cậu, từ phía nam núi Desert, có bộ phận cư dân chủ yếu là những người mang ngựa đến đó vào mùa hè, nghỉ ngơi trong các căn nhà đồng quê có sàn lát gỗ cứng và rèm Vantine. Cậu cười nhạo mấy câu chuyện ma - việc mà một tháng trước cậu không dám làm - nhưng cuối cùng lại phải ngồi im và run rẩy.
Tom Platt đã có một chuyến đi liên tục quanh mũi Horn trên tàu Ohio vào những ngày khó khăn, khi mà lực lượng hải quân còn ít ỏi hơn cả loài chim Dodo đã tuyệt chủng - lực lượng hải quân đã bị tiêu diệt sau cuộc nội chiến. Ông ta kể đạn đỏ được nhồi vào trong súng thần công, một lớp đất sét ướt chặn giữa chúng và đạn pháo; cách chúng kêu rì rì và cháy xèo xèo khi bắn vào gỗ, các thủy thủ nhỏ của tàu Miss Jim Buck dội nước vào chúng và hét lên thách thức pháo đài bắn súng lần nữa. Ông ta kể cả những câu chuyện về vụ bao vây - hàng tuần lễ thả neo cùng một chỗ, chỉ chứng kiến sự đến rồi đi của các tàu hơi nước đã dùng cạn than (những thuyền buồm thì không có cơ hội); về các cơn bão và cái lạnh đã khiến hai trăm người đàn ông, bất kể ngày đêm, phải đập vỡ băng trên dây neo, dây buồm và boong tàu, trong khi bếp vẫn nóng đỏ như đạn từ pháo đài thổi đến, và các thủy thủ cứ phải uống từng xô ca cao để giữ ấm. Tom Platt không quen với động cơ hơi nước. Ông ta giải ngũ khi thứ đó vẫn còn khá mới mẻ. Ông ta thừa nhận rằng đó là một sáng chế tuyệt vời vào thời bình, nhưng lại mong chờ một ngày thuyền buồm trở lại, với các tàu khu trục mười ngàn tấn và cột buồm cao một trăm chín mươi bộ.
Cách nói của Manuel thì chậm và nhẹ nhàng - anh ta chỉ nói về các cô nàng xinh đẹp ở Madeira giặt quần áo bên bờ suối cạn, dưới ánh trăng và những tán chuối rì rào; rồi thì truyền thuyết về các vị Thánh, những điệu nhảy hay cuộc chiến lạ lùng ở các cảng thả mồi ở vùng Newfoundland lạnh lẽo. Salters chủ yếu nói về nông nghiệp, vì, dù bác đã đọc Josephus và còn cắt nghĩa nó, sứ mệnh của bác trong đời vẫn là chứng minh giá trị của các loại phân làm từ cây cỏ, đặc biệt là cỏ ba lá, so với bất cứ loại phân phốt phát nào. Bác ta khinh thường các loại phân phốt phát, lôi mấy cuốn sách Orange Judd bám đầy dầu mỡ từ trong hốc ra và đọc to chúng lên, vừa đọc vừa vung tay trước mặt Harvey, mà trong mắt cậu thì thứ câu chữ ấy chẳng khác gì tiếng Hy Lạp. Penn bé nhỏ hết sức đau lòng khi Harvey chế nhạo những bài giảng của bác Salters rồi bỏ đi, và anh ta chỉ biết giữ im lặng một cách lịch thiệp. Điều đó rất tốt cho Harvey.
Ông đầu bếp dĩ nhiên là không tham gia vào mấy câu chuyện này. Về nguyên tắc, ông ta chỉ lên tiếng khi nào thực sự cần thiết; nhưng thỉnh thoảng, ông ta lại bắt được khả năng diễn thuyết lưu loát một cách lạ lùng, và cứ thế tuôn ra, nửa bằng tiếng Gael, nửa bằng thứ tiếng Anh què quặt, đôi khi kéo dài cả tiếng đồng hồ. Ông ta đặc biệt thích giao tiếp cùng hai đứa nhỏ, và không bao giờ rút lại những lời tiên đoán rằng một ngày nào đó Harvey sẽ trở thành ông chủ của Dan, và ông ta sẽ chứng kiến điều đó. Ông ta kể về việc đưa thư vào mùa đông đến vùng Cape Breton, đoàn chó kéo xe đến Coudray, và về chiến hạm chạy bằng hơi nước có tên Nam Cực, đã phá vỡ núi băng giữa đất liền và đảo Prince Edward. Ông ta kể những câu chuyện mà mẹ ông ta từng kể, về cuộc sống ở tít tận phía nam, nơi nước không bao giờ đóng băng; và ông ta nói rằng khi ông chết, linh hồn ông ta sẽ đáp xuống một bãi cát trắng ấm ấp, có những rặng dừa xào xạc bên trên. Đó xem chừng là một ý niệm kỳ quặc đối với một người chưa từng nhìn thấy cây dừa trong đời. Và, thường thì trong mỗi bữa ăn, ông ta sẽ chỉ hỏi một mình Harvey, xem ông ta nấu ăn có vừa miệng không; và việc đó luôn khiến mấy người “chiếu dưới” phá lên cười. Tuy thế, họ rất tôn trọng những phán xét của ông đầu bếp, và trong thâm tâm, họ coi Harvey như một thứ linh vật nhờ lý do ấy.
Và trong khi Harvey vẫn từng chút tiếp tục thu nhận những kiến thức mới và ngày một khỏe lên sau mỗi ngụm thở, thuyền Có chúng tôi đây! vẫn tiếp tục bắt cá ở vùng Bank, và những thùng cá màu xám bạc lèn chặt cá đến tận nóc ngày một chất đầy thêm trong khoang. Không có ngày làm việc của cá nhân nào là bất thường, phần lớn công việc cứ lặp lại và kéo dài ngày qua ngày.
Như một lẽ tự nhiên, một người có tiếng tăm như Disko sẽ bị theo dõi chặt chẽ - hay như Dan nói là bị những kẻ hàng xóm “soi mói”, nhưng ông có cách riêng để trốn khỏi họ trong màn sương đông đặc và bao phủ khắp vùng biển. Disko tránh mặt họ vì hai lý do. Trước hết là vì ông muốn thực hiện những thử nghiệm của cá nhân; và thứ hai, ông phản đối chuyện một đoàn thuyền đánh cá hòa trộn đủ mọi loại quốc tịch. Phần lớn trong số đó là các tàu đến từ Gloucester, thỉnh thoảng có người đến từ Provincetown, Harwich, Chatham, và một vài người từ cảng Maine, nhưng các thủy thủ đoàn đến từ những đâu thì có trời mới biết. Mạo hiểm thì dễ dẫn đến bất cẩn, và nếu có thêm lòng tham, rất dễ xảy ra mọi loại tai nạn trong đoàn thuyền, giống như trong một đàn cừu, bị một kẻ đầu đàn vô hình lùa đi thành vòng tròn. “Hãy để hai gã đến từ Jerauld dẫn dắt họ.” Disko nói. “Chúng ta buộc phải ở lại với họ một thời gian trên bờ Đông, nhưng nếu may mắn, ta sẽ không phải ở lại đó lâu. Vị trí của ta hiện nay, Harve ạ, không thể nào được gọi là một vùng biển tốt.”
“Thế sao?” Harvey nói trong lúc đang đi lấy nước (cậu đã học được cách lắc qua lắc lại cái xô để đong cho đầy), sau một đợt làm cá kéo dài bất thường. “Có khi cứ nên đánh thử vài vùng biển ít cá cho đổi gió.”
“Vùng biển mà ta muốn thấy - chứ không phải muốn đánh thử - là Cực Đông.” Dan nói. “Bố à, có vẻ ta sẽ không phải ở bờ Đông nhiều hơn hai tuần đâu. Khi đó, cậu sẽ được gặp tất cả những đồng nghiệp mà cậu muốn, Harve ạ. Đó là khi ta bắt tay vào việc. Khi ấy thì không có bữa ăn chung nào nữa. Cứ ăn khi nào cậu đói, và ngủ khi nào không mở nổi mắt ra nữa. Cũng may là cậu không lên thuyền chậm một tháng, không thì cậu sẽ không kịp chuẩn bị tinh thần cho Old Virgin đâu.”
Harvey suy ra được từ biểu đồ Eldridge rằng Old Virgin và một loạt những vùng bờ biển được đặt tên kỳ lạ chính là điểm ngoặt của đoàn thuyền, và nếu gặp may, họ sẽ làm ướt hết muối ở đó. Nhưng khi nhìn thấy kích cỡ của vùng Virgin (một cái chấm nhỏ), cậu băn khoăn làm thế nào mà Disko dùng cái thước đo phần tư và con chì để tìm ra nó. Sau này, cậu được biết rằng Disko hoàn toàn có thể làm được những việc không kém bất cứ một loại máy nào, thậm chí còn có thể giúp các tàu khác. Có một tấm bảng đen rộng gần hai mét vuông treo trong cabin, và Harvey không bao giờ hiểu được tầm quan trọng của nó, cho đến một ngày sương mù ken đặc, họ nghe thấy tiếng rống khô khan của một cái còi sương mù loại bơm chân - thứ máy phát ra tiếng kêu không kém gì một con voi bị ho lao.
Họ đang thả lưới nông, kéo theo mỏ neo ở dưới chân để tránh rắc rối. “Kéo hệ thống dây vuông góc bên dưới để lấy vĩ độ của nó.” Long Jack nói. Cánh buồm mũi màu đỏ còn nhỏ nước tong tỏng ló ra từ trong màn sương, và thuyền Có chúng tôi đây! rung chuông ba lần, đó là hiệu lệnh ngắn ở trên biển.
Con tàu lớn hơn nhốn nháo thu buồm ngọn về.
“Lũ người Pháp.” Bác Salters nhăn nhó. “Tàu Miquelon đến từ St. Malo.” Gã nông dân này quả là có con mắt đi biển tinh tường. “Ta cũng sắp hết thuốc lá rồi, Disko.” “Tôi cũng vậy.” Tom Platt nói. “Này! Lùi lại đi, lùi lại đi! Đậu cách xa chút, lũ ngốc kia! Các anh đến từ đâu, St. Malo hả?”
“À há! Tốt lắm! Phải! Phải! Vùng Clos Poulet, thuộc St. Malo! St. Pierre và Miquelon.” Đám người bên kia đáp lại, vẫy những chiếc mũ len và rộ lên cười. Rồi tất cả cùng nói: “Lên thuyền đi! Lên thuyền đi!”
“Mang cái bảng ra đây, Danny. Lũ người Pháp xuất hiện khắp nơi làm ta phát ốm, chỉ trừ những vùng thuộc bọn người Mỹ. Bốn mươi sáu, bốn mươi chín là đủ tốt với họ rồi, và ta đoán nó cũng khá đúng.”
Dan ghi những thông tin ấy lên bảng và họ treo nó lên dây buồm chính trong tiếng cảm ơn không dứt của nhóm người kia.
“Có vẻ không thân thiện lắm nếu ta để họ hò reo như thế mà không đáp lời.” Bác Salters nói và cho tay vào túi.
“Anh đã học được cả tiếng Pháp sau chuyến lần trước à?” Disko hỏi. “Tôi không muốn thuyền của ta lại bị ném đá chỉ vì anh gọi mấy tàu đến từ Miquelon là “lũ gà chân dài”, giống như anh đã làm ở Le Have đâu.”
“Harmon Rush nói đó là cách để chọc tức họ. Nếu chỉ toàn người Mỹ thì tốt. Chúng ta cũng thiếu trà trầm trọng. Anh bạn trẻ, cậu có biết tiếng Pháp không?”
“Ồ, có.” Harvey nói với vẻ tự hào, và cậu tuôn ra một tràng: “Xin chào! Dừng lại! Chú ý! Chúng tôi cần thuốc lá!”
“À, thuốc lá, thuốc lá!” Họ cùng đồng thanh hô lên và cười.
“Họ hiểu đấy! Cứ cho một xuồng sang bên đó xem sao.” Tom Platt nói. “Ta không có bằng cấp gì về tiếng Pháp hết, nhưng ta biết một loại ngôn ngữ khác có ích. Đi nào, Harve, làm thông dịch cho ta.”
Thật khó mà tả nổi sự bối rối của ông ta cùng Harvey khi được kéo lên mạn con tàu màu đen. Cabin của nó dán đầy những bức ảnh Đức Mẹ màu sắc rực rỡ - Đức Mẹ Đồng Trinh của Newfoundland, họ gọi bà như vậy. Harvey phát hiện ra thứ tiếng Pháp của cậu không thể dùng được ở vùng Bank, và cuộc trò chuyện của họ chỉ dừng lại ở những cái gật đầu và cười. Nhưng Tom Platt khua tay loạn xạ và vẫn giao tiếp được ngon lành. Vị thuyền trưởng mời ông ta uống một ly rượu gin có mùi vị khó tả, thủy thủ đoàn trông như một lũ hề trong rạp hát, với những cái cổ đầy lông, mũ đỏ, và vác theo những con dao dài, chào đón ông ta như một người anh em. Rồi vụ trao đổi bắt đầu. Họ có rất nhiều thuốc lá Mỹ, thứ mà chưa bao giờ phải trả thuế cho người Pháp. Họ muốn đổi lấy sô cô la và bánh quy. Harvey chèo trở lại để thương lượng với ông đầu bếp và Disko, người sở hữu kho hàng, và lượt sau đó, họ đã đếm mấy lon đựng ca cao và túi bánh quy cạnh bánh lái con tàu của người Pháp. Trông họ có vẻ là một gánh cướp biển, nhưng Tom Platt đã rời khỏi đó, trên người chất đầy thuốc lá cuốn và hàng bánh thuốc lá để hút tẩu và nhai. Rồi những thủy thủ vui tính ấy lại bơi vào trong màn sương, và thứ cuối cùng Harvey nghe được là một đoạn điệp khúc du dương:
Phía sau lưng dì của tôi là một cái cây rất đẹp
Một chú chim sơn ca cất tiếng hót cả ngày lẫn đêm...
Nàng sẽ cho ta thứ gì, nếu ta mang nó về đây?
Ta có thể mang cả Quebec, Sorel và Saint Denis cho nàng.
“Làm sao mà cháu nói tiếng Pháp thì họ không hiểu, còn bác khua tay thì họ lại hiểu?” Harvey hỏi khi đống hàng hóa đã được chia đều trên thuyền Có chúng tôi đây!.
“Khua tay à!” Platt hầm hè. “À, phải, đó đúng là khua tay, nhưng nó lâu đời hơn cả thứ tiếng Pháp của cậu, Harve ạ. Mấy lũ tàu Pháp có rất nhiều gã theo hội Tam Điểm[10] mà.”
[10] . Tên gọi trong tiếng Việt của hội này là “Tam Điểm” được giải thích là do các hội viên người Pháp khi viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ (maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác đều. Lịch sử về hội chưa thật rõ ràng, người ta cho rằng hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là Anh, rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ, Hội Tam Điểm tự mô tả mình như một “hiệp hội những người thông thái và bác ái”, một “hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng” hay một “bí tích gia nhập”.
“Bác có theo hội Tam Điểm không?”
“Có vẻ là có, phải không?” Người cựu quân nhân đáp rồi nhồi thuốc vào tẩu, và Harvey lại có thêm một bí mật nữa của đại dương mà cậu cần khám phá.