Đó là những phận nghèo sống đời gạo chợ nước sông, đêm gối đầu lên chòng chành sóng nước...
Đó là những đứa trẻ; hoặc thất học đeo bám theo ghe bán hàng của cha mẹ; hoặc được gởi lại ruộng vườn với nội ngoại để học cái chữ, mong thoát đời gạo chợ nước sông như cha mẹ chúng, luôn đau đáu phận mình... Nói thiệt, cái nghề cơ cực này, quý hồ chi đâu mà còn tính chuyện cha truyền con nối...
Lênh đênh trên những xuồng ghe xuôi ngược mưu sinh, đời thương hồ thăm thẳm buồn, mênh mang sầu rộng...
Ở miền Tây này, không ai lạ với đời thương hồ. Đó là những phận người nghèo, sống rày đây mai đó theo ghe xuồng. Tất cả mọi sinh hoạt đời thường và buôn bán, đều diễn ra trên sóng nước, nhọc nhằn và nguy hiểm.
Đời thương hồ. Đó là những người tứ xứ. Họ bán hàng theo mùa, mùa nào bán loại nông sản mùa đó. Hình thức bán hàng cũng hết sức độc đáo. Người bán không cần “rao” hàng. Chỉ cần treo lủng lẳng những loại nông sản mà xuồng ghe mình có bán lên cây “bẹo” (một đoạn cây dài tầm hai hoặc ba thước, được dựng thẳng đứng hoặc hơi nghiêng một chút, tùy thực tế của từng xuồng ghe mà có cách xử lý khác nhau); người mua hàng chỉ cần nhìn vào cây “bẹo” là có thể biết xuồng ghe đó bán những loại nông sản gì. Nhưng, nhớ đừng “tưởng bở” vì có loại được treo, mà không bao giờ bán. Đó là quần áo. Đời thương hồ, xuồng ghe là nhà, nên chuyện phơi phóng quần áo, họ cũng dùng cây bẹo hoặc giăng những đoạn dây ngắn cặp theo chiều dài “mui ghe” làm sào. Đời gạo chợ nước sông, có gì đâu phải cầu kỳ, chỉ cần mua may bán đắt, đủ ăn đủ mặc qua ngày, dư ra chút đỉnh gởi về phụ ông bà nuôi sắp nhỏ. Cái mơ ước nhỏ nhoi và đơn giản như thế, có khi đến hết đời người, nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo. Cho nên cái chuyện “hết cuộc trăm năm”, neo mộ phần vào đâu cũng thêm một lần đau đáu... Có người đến cuối đời, sang kiếp khác, lại tiếp tục “ở trọ”...
Dẫu đời thương hồ nhưng họ sống rất tình cảm và nhân nghĩa. Họ đem cốt cách trượng phu ra để đối đãi và bênh vực nhau khi không may có một “ghe thương hồ” nào đó bị sự cố. Về đời sống vật chất thì thiếu trước hụt sau, nhưng tình nghĩa lại đong đầy, như con nước lớn mỗi hoàng hôn châu thổ... Đêm muộn, sau một ngày mệt nhoài với công việc mua bán mưu sinh, khi chợ nổi thưa người, dăm ba chiếc ghe thương hồ cùng neo chung bến đậu. Để rồi những ly đế được rót ra, những chén thương hồ được nốc cạn. Cũng vọng cổ Tình anh bán chiếu, cũng ngắm trăng và bầu bạn. Rồi chuyện cha mẹ, con cái ở quê, rồi chuyện tương lai gần nhất khi “để dành” được chút đỉnh tiền, muốn mua miếng đất nhỏ để có chỗ cất nhà che mưa che nắng.
Đời thương hồ không thể lường hết những hiểm nguy và bất trắc. Những lúc bất cẩn trượt chân té ngã xuống sông, những va quệt khi chở nặng, chìm ghe xuồng như chơi; hay tình huống xấu hơn, ghe thương hồ xứ khác cùng nhau tranh chấp chuyện mối lái làm ăn, mua bán, họ thường “xử nhau tới bến”... Ngẫm đi ngẫm lại, đời gạo chợ nước sông, cũng vì miếng cơm manh áo mà sinh ra nghiệp.
Nói như thế không có nghĩa là tất cả những người sống đời thương hồ đều nghèo khó. Có những cặp vợ chồng quanh năm chí thú làm ăn, mua bán, “cắc ca cắc củm” từng đồng; vài năm cũng được “rổn rẻn” tiền liền dông dìa1 quê, mua đất cắm dùi, lập “cơ ngơi” trên cạn. Thoát đời gạo chợ nước sông, cho con cái ăn học đàng hoàng, tử tế; “cắt đuôi” đời thương hồ vốn dĩ vất vả, nhọc nhằn tháng năm đeo bám.
1. Dìa: Về.
Để có một cảm nhận trọn vẹn nhất về đời sống của dân thương hồ, mời bạn xuôi miền Tây một chuyến. Hiện nay chợ nổi Cái Răng là chợ mua bán nhộn nhịp và đa dạng gần như bậc nhất ở miền sông nước này. Có thể bắt đầu từ bốn đến năm giờ sáng, người mua kẻ bán tấp nập với đầy đủ thanh âm và sắc màu của cuộc sống. Các mặt hàng ở chợ nổi Cái Răng này, đa số là bán sỉ trái cây và các loại nông sản của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nét sinh hoạt và cảnh họp chợ chính ở vùng sông nước miền Tây. Tuy nhiên, theo nhu cầu thực tế của đời thương hồ và khách du lịch, hiện nay, các dịch vụ ăn uống khác cũng được “kéo về”, hợp thành một không gian sống động, nhộn nhịp và sầm uất.
Rồi khi vãn chợ, nhịp sông nước như bình lặng và yên ả hơn, cũng chính là lúc dân thương hồ ngơi chân, nằm xuống mạn xuồng gác tay lên trán, nghĩ về kiếp nghèo và đời sông, mênh mông thăm thẳm như đời thương hồ của chính họ... Vọng bên giấc ngủ trưa chập chờn ấy, là những câu thơ của tác giả Huỳnh Kim:
Chợ đã nổi từ nửa đêm về sáng
Ta vẫn chìm từ giữa bữa hoàng hôn
Em treo bẹo Cái Răng Ba Láng
Ta thương hồ Vàm Xáng Cần Thơ.